Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.7 KB, 112 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH VIT

TáI HòA NHậP Xã HộI
ĐốI VớI NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN PHạM TộI MãN HạN Tù

THEO PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH VIT

TáI HòA NHậP Xã HộI
ĐốI VớI NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN PHạM TộI MãN HạN Tù

THEO PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC


Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Việt


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ..........7
1.1.


Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

mãn hạn tù................................................................................................... 7
1.2.

Tầm quan trọng của các chƣơng trình tái hòa nhập đối với ngƣời chƣa

thành niên phạm tội mãn hạn tù................................................................. 11
1.3.

Chuẩn mực quốc tế về tái hòa nhập xã hội cho ngƣời chƣa thành niên
phạm tội..................................................................................................... 12

1.4.

Chƣơng trình tái hòa nhập cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù......................................................................................................... 15

1.5.

Pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm
tội mãn hạn tù............................................................................................ 18

1.5.1.

Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ................18

1.5.2.


Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ...................................................... 23

1.5.3.

Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội sau khi
đƣợc trả tự do khỏi cơ sở giam giữ........................................................... 29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1....................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TÁI HÒA NHẬP
XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
MÃN HẠN TÙ CỦA TỈNH HÀ GIANG................................................ 36
2.1.

Đánh giá chung về tình hình địa lý, dân cƣ, xã hội và tình hình tội
phạm của tỉnh Hà Giang............................................................................ 36


2.2.

Những kết quả đạt đƣợc và những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật
về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang 40

2.2.1.

Những kết quả đạt đƣợc trong công tác tái hòa nhập đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang

2.2.2.


Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn tỉnh Hà Giang

2.3.

40
53

Nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong công tác tái hòa nhập
xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trên địa bàn
tỉnh Hà Giang

67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2....................................................................................... 76
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ
3.1.

Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù

3.2.

78
78

Một số giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các


quy định về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
mãn hạn tù

80

3.3.

Các giải pháp khác..................................................................................... 83

3.3.1.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phƣơng 83

3.3.2.

Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành
niên phạm tội mãn hạn tù 84

3.3.3.

Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cộng đồng trong

công tác tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn
hạn tù 85
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3....................................................................................... 87
KẾT LUẬN............................................................................................................ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 92



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Bảng 2.1:

Bảng 2.2:

Bảng 2.3:

Bảng 2.4:

Bảng 2.5:

Bảng 2.6:

Bảng 2.7:


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù là một
công tác gắn liền với việc thực thi các biện pháp hoà nhập cộng đồng cho ngƣời chƣa
thành niên phạm tội sau khi đƣợc trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo
điều kiện cho những ngƣời đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình
thƣờng đồng thời giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội, hạn chế tối
đa những trƣờng hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà còn đƣợc thể hiện rất
rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá
VII đã nhấn mạnh: “Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề

cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái
hoà nhập cộng đồng”. Bên cạnh đó, công tác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội đƣợc thực hiện dựa trên nguyên tắc của Công ƣớc quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo
đó: “Chế độ giam giữ, thi hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với
tù nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội”.

Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù là
một hoạt động có liên quan đến nhiều cơ quan, ban, ngành và toàn xã hội. Khoản 2
Điều 39 Luật Thi Hành án Hình sự năm 2010 quy định:
Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phƣơng, cơ
quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập,
lao động, rèn luyện để đƣợc hƣởng sự khoan hồng của Nhà nƣớc; hỗ trợ
các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để phạm nhân tái hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành
xong án phạt tù [40, Điều 39].
Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền vừa là
trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đƣa ngƣời phạm tội trở
lại cuộc sống lƣơng thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại địa phƣơng, minh
chứng cho chủ trƣơng đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc.
1


Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lƣợng công tác tái hoà nhập xã hội cho
ngƣời phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị:
Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tƣ
pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định
rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn và của cơ quan

chuyên môn của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các
hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án
của Toà án. Từng bƣớc thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình
thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nƣớc thực
hiện một số công việc thi hành án.
Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lƣợng
ngƣời phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hƣớng gia tăng, do đó việc tái hoà
nhập xã hội cho các đối tƣợng này cần đƣợc quan tâm một cách đúng đắn. Việc
tiếp nhận số lƣợng các đối tƣợng đã bị cách ly với xã hội trong một thời gian dài là
một thách thức không nhỏ trong công tác tái hoà nhập xã hội.
Trong những năm vừa qua thực tiễn công tác tái hoà nhập xã hội có những biến
chuyển tích cực và đạt đƣợc một số thành tích nhất định. Tuy nhiên, tái hoà nhập xã
hội đƣợc xác định là công tác mang tầm quốc gia và lâu dài do đó dù nhiều chƣơng
trình tái hoà nhập đã đƣợc thực hiện và đạt đƣợc những hiệu quả nhất định thì còn
những mặt hạn chế và những tồn tại, chƣa thực sự thu hút đƣợc sự quan tâm và tham
gia của toàn xã hội. Thời gian chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn chế tự do,
cách ly ngƣời bị kết án khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại trại giam, việc
hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thƣờng của một con ngƣời đồng thời gây ra
sự lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ nhƣ học tập, làm việc, quan hệ cha mẹ,
vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, vì vậy việc khôi phục lại các chức năng xã hội này là
một việc rất khó khăn và tƣơng đối phức tạp. Mặt khác hiện nay các văn bản về tái hoà
nhập xã hội còn chƣa đồng bộ và thống nhất. Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định
về việc tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội nằm rải rác ở các văn bản pháp luật
khác nhau nhƣ Luật hình sự, Luật thi hành án phạt tù hoặc trong các văn bản Chỉ thị,
Nghị quyết của Chính phủ và ngành Công an

2


nhƣ Chƣơng trình quốc gia phòng chống tội phạm, chƣơng trình phòng chống và

kiểm soát ma tuý. Ngoài ra công tác tái hoà nhập xã hội cho ngƣời phạm tội chƣa
thực sự đƣợc quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho công tác tái hoà nhập xã
hội chƣa thực sự phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giáo dục, cảm hoá
ngƣời phạm tội để khi mãn hạn tù họ trở thành những ngƣời có ích cho xã hội. Trên
địa bàn tỉnh Hà Giang, ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù trong những
năm qua mặc dù đã đƣợc sự quan tâm của các cấp, các ngành triển khai các biện
pháp tái hòa nhập xã hội nhƣng vẫn còn nhiều trƣờng hợp tái phạm, tái phạm nguy
hiểm là do chƣa nhận đƣợc sự quan tâm đúng mực của gia đình, xã hội khiến cho
họ khó khăn trong việc hòa nhập với nơi mình sinh sống.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Tái hoà nhập xã hội
đối với người chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù theo pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm luận
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái hoà
nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội nói chung và ngƣời chƣa thành niên phạm tội
mãn hạn tù nói riêng. Cụ thể là các công trình nhƣ: Phan Xuân Sơn, Xây dựng môi
trường giáo dục phạm nhân trong các trại giam - Cơ sở lý luận, thực trạng, giải
pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, năm 2000; PGS.TS Nguyễn Quốc Nhật,
Th.S Phạm Trung Hoà, Th.S Trần Hải Âu (2001), Giáo dục, giúp đỡ người tù tha
tái hoà nhập cộng đồng ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2001;
Dƣơng Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà,
Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Quang Hƣng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái
hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ. Thông tin khoa
học pháp lý. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp. Tháng 4/2001; Vụ
pháp luật hình sự hành chính, Bộ Tƣ pháp - Rà soát, đánh giá pháp luật, chính sách
và thực tiễn tái hoà nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật ở Việt Nam, năm 2007; Phạm Văn Lợi - Thực trạng pháp luật thi hành án phạt
tù và hƣớng hoàn thiện, năm 2006, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 2; Hồ Sĩ Sơn
(2009), "Hình phạt tù và vấn đề tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam hiện nay", Kỷ


3


yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người
mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật và Norwegian Center
for Human Rights tổ chức tại Hạ Long - Quảng Ninh, ngày 26 - 27/11; Trần Thị Quang
Vinh (2009), "Phòng ngừa tái phạm tội đối với người bị kết án tù của, Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Pháp luật và thực tiễn về tái hòa
nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy, Viện Nhà nƣớc và
Pháp luật và Norwegian Center for Human Rights tổ chức tại Hạ Long - Quảng Ninh,
ngày 26 - 27/11. Một số giáo trình giảng dạy ở các trƣờng Đại học chuyên ngành (Đại
học Luật, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viên An Ninh, Đại học Cảnh sát…)
cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt khác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội chƣa
đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn
nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu,
tìm hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích.

3.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những
quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm
tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hoà nhập xã hội nói chung và đi sâu phân
tích công tác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội của tỉnh Hà Giang trong
những năm gần đây (2011 - 2015), luận văn đánh giá đƣợc thực trạng của công tác
tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội của tỉnh Hà Giang nói riêng. Trên cơ sở
đó, luận văn đƣa ra các giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để
vận dụng có hiệu quả vào công tác tái hoà nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của

công tác này trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đƣa ra một vài kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nƣớc ta về vấn đề này.
Để đạt đƣợc các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hoà nhập
xã hội nhƣ: Khái niệm tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội;
các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các luật
có liên quan về tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hoà nhập xã hội của tỉnh Hà
Giang trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân
của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của vấn đề. Đồng thời tác giả đƣa
4


ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Công tác tái hoà nhập đối với ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện ở nhiều giai
đoạn khác nhau với những đối tƣợng khác nhau, nhƣng đều đƣợc gọi chung là
ngƣời phạm tội. Phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái
hoà nhập xã hội đối ngƣời chƣa thành niên phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và
sau khi chấp hành án xong và thực tiễn thực thi trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong
những năm gần đây (2011 - 2015).
5. Cơ sở nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở pháp lý: nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số
08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, Bộ luật thi hành án năm 2010, các văn bản hƣớng dẫn thi
hành và một số văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan chuyên môn về công tác tái hoà

nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội tại tỉnh Hà Giang. Ngoài ra luận văn còn dựa trên các công
trình nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu của các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt Nam về
lĩnh vực này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp biện chứng khoa học
kết hợp với một số phƣơng pháp thống kê, tổng hợp; phƣơng pháp điều tra xã hội
học; phƣơng pháp phân tích, lựa chọn; phƣơng pháp đối chiếu, so sánh; phƣơng
pháp khảo sát thực tiễn; phƣơng pháp hệ thống và một số phƣơng pháp bổ trợ khác.
7.

Ý nghĩa của luận văn

Luận văn chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng nhƣ
thực trạng công tác tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của

5


tỉnh Hà Giang một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đƣa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao chất lƣợng công tác
tái hoà nhập xã hội của cả nƣớc nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội mãn hạn tù.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời

chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù của tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tái
hòa nhập xã hội đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội mãn hạn tù.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI MÃN HẠN TÙ
1.1. Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm
tội mãn hạn tù
Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội là một quá trình tính từ khi một
ngƣời trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù trở về nơi sinh
sống. Đa số các quan điểm đều cho rằng ngƣời mãn hạn tù bao gồm tất cả các đối
tƣợng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định đƣợc tha về địa
phƣơng. Tuy nhiên quan điểm này chƣa phân biệt rõ đƣợc đối tƣợng tù tha với các đối
tƣợng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung nhƣ cơ sở giáo dục, trƣờng giáo
dƣỡng, cơ sở chƣa bệnh, cai nghiện đƣợc tha về địa phƣơng. Bên cạnh đó cũng có
quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối tƣợng “hết thời hạn chấp hành hình phạt tù”
về địa phƣơng. Đây là những đối tƣợng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Toà án
nhân dân quyết định, đƣợc tha về địa phƣơng [35, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm này
cũng chƣa thật đầy đủ, bởi lẽ nếu xác định nhƣ vậy đối tƣợng mãn hạn tù chỉ bao gồm
những đối tƣợng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết thời gian cải
tạo theo quyết định của Toà án đƣợc tha về địa phƣơng, nhƣ vậy theo cách hiểu này thì
số đối tƣợng tù tha đƣợc giảm thời hạn chấp hành án, đƣợc đặc xá không nằm trong
diện đối tƣợng tù tha. Theo từ điển nghiệp vụ phổ thông thì: “tù tha về là những kẻ
phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc chưa hết hạn nhưng được ân xá,
ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối tượng tù tha về và cần bố trí công ăn việc
làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ làm ăn lương thiện”. Nếu hiểu theo quan điểm này

thì đối tƣợng mãn hạn tù bao gồm số đối tƣợng bị phạt án tù giam đƣợc tha kể cả số đã
hết thời hạn nhƣng ân xá, ân giảm tha về do có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo.
Khái niệm này đã có cái nhìn toàn diện hơn so với những quan điểm trên về đối tƣợng
mãn hạn tù, tuy nhiên chƣa phân định đƣợc rõ số tù giam có thời hạn với số tù chung
thân đƣợc tha về và cũng chƣa đề cập tới vấn đề đối tƣợng tù tha đƣợc đặc xá. Để có
đƣợc khái niệm đầy đủ về ngƣời mãn hạn tù, cần phải hiểu bao gồm cả “Đối tượng
được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân
7


đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản lý, kể cả
những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc hoãn thi hành án
phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định” [15, Điều 2]. Theo đó thì đối
tƣợng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam
thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản lý và có nhiều tiến bộ đƣợc tha trƣớc thời
hạn; Phạm nhân trong thời gian đƣợc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ
đƣợc miễn thi hành án phạt tù; Những ngƣời bị kết án tù trong thời gian đƣợc hoãn thi
hành án phạt tù có nhiều tiến bộ đƣợc miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan điểm
trên thì người chưa thành niên mãn hạn tù là những người chưa thành niên phạm tội và
đã được kết án bởi Toà án nhân dân bằng bản án tù chung thân hoặc tù có thời hạn,
phải chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống xã hội nay đã
chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó theo quy định của pháp luật
được tha ra khỏi cơ sở giam giữ và trở về nơi sinh sống - cộng đồng.

Trong khi nhiều ngƣời phạm tội bị kết án tù hoặc ở trong trƣờng giáo dƣỡng
là do đã phạm phải những tội ít nghiêm trọng, thì những ngƣời khác có tiểu sử
phạm tội khá dầy dặn. Nhƣ vậy sự hội nhập xã hội của những ngƣời phạm tội này
cũng phải khác nhau. Tại thời điểm đƣợc tha từ một cơ sở giáo dục, ngƣời phạm tội
thƣờng gặp phải những thách thức mà họ không đƣợc trang bị tốt để có thể tự đối
mặt. Những chƣơng trình giáo dục đặc biệt là cần thiết để chuẩn bị cho ngƣời phạm

tội đƣợc tha từ một cơ sở giam giữ. Những chƣơng trình hỗ trợ dựa trên cộng đồng
cũng cần thiết để giúp những ngƣời phạm tội trẻ tuổi thành công trong việc vƣợt
qua đƣợc thời kỳ chuyển tiếp đầy khó khăn này.
Các chƣơng trình và các biện pháp phải đƣợc thực hiện để xác định các nhu
cầu của những ngƣời phạm tội đang ở trong các nhà tù, trƣờng giáo dƣỡng hoặc
các nơi tạm giam, để chuẩn bị cho họ trở về cộng đồng, và để cung cấp cho họ
những sự hỗ trợ, giúp đỡ và giám sát cần thiết nhằm giúp họ tái hoà nhập cộng đồng
thành công sau khi hết thời hạn giam giữ.
Trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, "hòa nhập xã hội" dùng để chỉ các chƣơng
trình và các biện pháp mà mục tiêu là tạo điều kiện thích ứng xã hội và tâm lý của
một ngƣời phạm tội. Khái niệm tổng quát hơn của "hội nhập xã hội" do đó cũng
đƣợc sử dụng để làm nổi bật một thực tế là, và với các lý do khác nhau, hầu hết mọi
8


ngƣời phạm tội đều gặp một số khó khăn riêng trong việc hòa nhập vào gia đình,
trƣờng học, nơi làm việc, cộng đồng và xã hội. Khái niệm "tái hòa nhập" thƣờng
đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội đƣợc thiết kế đặc biệt để giúp ngƣời
phạm tội đƣợc tha từ một cơ sở giam giữ hình sự (trại giam, trƣờng giáo dƣỡng) và
để giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về cộng đồng. Hỗ
trợ này bao gồm cả việc giải quyết những nhu cầu của ngƣời chƣa thành niên và
kiểm soát rủi ro mà ngƣời phạm tội có thể gây ra cho cộng đồng.
Bốn khái niệm chung đƣợc xem xét một cách ngắn gọn ở đây là vì chúng
thƣờng xuyên gây ra một số nhầm lẫn, thậm chí giữa các chuyên gia tƣ pháp, đó là:
"hòa nhập xã hội"; "tái hòa nhập xã hội"; "các yếu tố nguy cơ", và "các yếu tố
kiềm chế".
Hòa nhập xã hội là quá trình hòa nhập về mặt xã hội và tâm lý với môi
trƣờng xã hội của một ngƣời. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, nó thƣờng
đƣợc đề cập cụ thể hơn tới những hình thức hỗ trợ khác nhau cho những ngƣời
phạm tội với nỗ lực nhằm ngăn cản họ tham gia vào hành vi phạm tội (phòng ngừa)

hoặc làm giảm khả năng tái phạm của họ (phục hồi).
Các chƣơng trình hòa nhập xã hội, đặc biệt là những chƣơng trình đƣợc
thiết kế cho ngƣời phạm tội chƣa thành niên, thƣờng đƣợc xem nhƣ là một dạng
chƣơng trình giáo dục đặc biệt. Ở hầu hết các quốc gia, những nỗ lực để hòa nhập
ngƣời chƣa thành niên liên quan đến một loạt các chính sách và chiến lƣợc, bao
gồm cả các chƣơng trình can thiệp sớm, tập trung vào nhóm trẻ em có nguy cơ và
gia đình họ [63], [64] những chƣơng trình dựa vào cộng đồng nhằm thay thế cho
việc giam giữ, các chƣơng trình trong cơ sở cải tạo nhằm chuẩn bị cho ngƣời chƣa
thành niên kỹ năng sống trong xã hội, và các chƣơng trình dựa vào cộng đồng nhằm
tạo thuận lợi cho ngƣời chƣa thành niên tái hòa nhập vào cộng đồng sau khi rời
khỏi trƣờng giáo dƣỡng hay trại giam [66].
Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể hơn đến các chƣơng trình và sáng
kiến nhằm giúp ngƣời phạm tội đang trong các cơ sở giam giữ. Mục đích của nó là
giúp ngƣời phạm tội tái hoà nhập cộng đồng thành công sau khi chấp hành bản án tại
cơ sở cải tạo. Thông thƣờng có hai loại chƣơng trình: (1) các chƣơng trình hỗ trợ ngay
trong các cơ sở giam giữ, trƣớc khi phóng thích của ngƣời phạm tội, nhằm

9


giúp ngƣời phạm tội giải quyết các vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến
hành vi phạm tội của họ, trang bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức
năng xã hội của mình và chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng; và (2) những chƣơng
trình dựa trên cộng đồng, thƣờng đƣợc gọi là chƣơng trình "hậu chăm sóc" nhằm
tạo thuận lợi cho hòa nhập xã hội của ngƣời phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở
giam giữ.
Các yếu tố nguy cơ
Một vấn đề then chốt đối với sự hỗ trợ hiệu quả cho ngƣời phạm tội hòa nhập
xã hội là nhận thức đƣợc các yếu tố đƣa họ đối mặt với nguy cơ và gây khó khăn cho
họ hoạt động bình thƣờng trong xã hội. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến hành

vi phản xã hội hoặc hành vi phạm tội. Không có yếu tố đơn lẻ nào có thể dùng để dự
đoán chính xác một cá nhân có khả năng tham gia vào hành vi nhƣ vậy hay không.
Những yếu tố nguy cơ này có thể nhận thấy đƣợc ngay bên trong (bên trong của cá
nhân, chẳng hạn nhƣ khó tính, là nạn nhân từ sớm, bệnh tâm thần, bị hạn chế học tập)
hoặc bên ngoài (trong gia đình, trƣờng học, cộng đồng, và trong quan hệ cùng trang
lứa). Trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội chƣa thành niên, các yếu tố nguy cơ từ phía gia
đình đối với hành vi phạm pháp và chống đối xã hội chính là một gia đình không bình
thƣờng, bị cha mẹ bỏ rơi, những nguyên tắc cứng nhắc và kém hiệu quả của cha mẹ,
thiếu sự giám sát, hoặc sự tác động một cách cƣỡng bức trong nhà. Ví dụ về các yếu tố
nguy cơ trong các trƣờng học là tình trạng quá đông, ngƣợc đãi, phân biệt đối xử hoặc
chƣơng trình giáo dục không đầy đủ mà có thể dẫn đến việc nghỉ học tràn lan hoặc bỏ
học giữa chừng. Nghèo đói là yếu tố nguy cơ chung trong nhiều hoàn cảnh, bao gồm
việc phát triển các hành vi chống đối xã hội và sự hạn chế về xúc cảm hoặc cách xử sự.
Một trong những yếu tố mạnh nhất là thanh thiếu niên tham gia với bạn đồng trang lứa
có lối sống lệch lạc và có độ rủi ro cao.

Các yếu tố kiềm chế
Nhiều ngƣời thể hiện ra ngoài các yếu tố nguy cơ khác nhau nhƣng họ không
nhất thiết phải liên quan đến việc phạm tội. Đây thƣờng là do sự tồn tại của một số yếu
tố bảo vệ. Các yếu tố kiềm chế là những đặc tính bảo vệ một cá nhân. Những yếu tố
kiềm chế của cá nhân bao gồm: (1) sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần tốt; (2) các
mối quan hệ tích cực; (3) lòng tự trọng; (4) năng lực nhận thức (luận

10


điểm, kỹ năng giải quyết vấn đề, sự giao tiếp và kỹ năng giải quyết xung đột); và,
(5) nhận thức cảm xúc hoặc cảm xúc trí tuệ (khi mọi ngƣời có thể hiểu và điều
chỉnh những cảm xúc của họ, rèn luyện tính tự kỷ luật, và nâng cao việc kiểm soát
xúc cảm, sự đánh giá, họ có thể đối phó tốt hơn với những sự khó chịu, hung hăng

hay bạo lực và tránh những kết quả xử sự tiêu cực).
Tái hoà nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội là vấn đề phức tạp đòi hỏi sự
tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thông qua nhiều chính
sách và mô hình cụ thể, đóng vai trò hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện nâng cao năng
lực thích nghi cho đối tƣợng và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình tội
phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Nhƣ vậy từ những phân tích nêu trên, theo tác
giả có thể hiểu: Tái hoà nhập xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội mãn
hạn tù là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý nghĩa một bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người đó, là một quá trình với nhiều
giai đoạn khác nhau từ khi người đó ở trong cơ sở giam giữ đến khi người đó trở về
cộng đồng với nhiều biện pháp, cách thức và chương trình hòa nhập xã hội được
thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người chưa thành niên phạm tội trở về với xã
hội trở thành những người có ích, sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự
tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng đồng xã
hội, góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm.
1.2. Tầm quan trọng của các chương trình tái hòa nhập đối với người
chưa thành niên phạm tội mãn hạn tù
Ngƣời chƣa thành niên phạm tội có những đặc điểm riêng khiến cho các
chƣơng trình tái hòa nhập dành cho họ cũng cần phải đƣợc thiết kế riêng, từ khi họ
bị cách ly khỏi xã hội đến khi họ trở lại cộng đồng.
Mục đích chủ yếu của việc hòa nhập xã hội và tái hòa nhập xã hội là nhằm
cung cấp cho những ngƣời phạm tội những hỗ trợ cũng nhƣ sự giám sát để giúp họ
hoạt động trong xã hội nhƣ là những công dân tốt, tuân thủ pháp luật và tránh việc
tái phạm tội. Những chƣơng trình này tạo cơ hội cho ngƣời chƣa thành niên phạm
tội liên kết với gia đình và cộng đồng, sống tốt và tuân thủ pháp luật.
Tại Việt Nam, cũng nhƣ tại nhiều quốc gia khác, nhìn chung hiện nay có rất
ít những chƣơng trình hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho những ngƣời chƣa thành
11



niên phạm tội bị giam giữ. Những chƣơng trình tái hòa nhập tại các trại giam nói
chung còn ít và chƣa sâu rộng. Vì thế, để thúc đẩy sự phát triển của chƣơng trình
tái hòa nhập cộng đồng trên cả nƣớc thì sự chủ động là yêu cầu bắt buộc. Theo
hƣớng này thì bƣớc đầu tiên bao gồm việc rà soát lại các chính sách hiện hành và
đánh giá thực tiễn, cũng nhƣ đƣa ra những đề xuất cụ thể nhằm tăng cƣờng và phát
triển những chƣơng trình tái hòa nhập cộng đồng trên cả nƣớc.
Về những vấn đề liên quan đến ngƣời chƣa thành niên phạm tội, theo tinh
thần của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 (Điều 58) và Bộ luật hình
sự (Điều 69), là mục tiêu của sự can thiệp vào những vụ việc của ngƣời chƣa thành
niên vi phạm pháp luật nói chung và việc ngƣời chƣa thành niên phạm tội nói
riêng, chủ yếu nhằm giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển một cách lành
mạnh, trở thành những ngƣời công dân có ích. Luật pháp Việt Nam đã công nhận sự
cần thiết của việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho những ngƣời chƣa thành niên phạm
tội tái hòa nhập cộng đồng sau khi họ mãn hạn tù hay đã chấp hành xong bản án tại
các trƣờng giáo dƣỡng.
Tuy nhiên, khái niệm nêu trên nhìn chung chỉ đƣợc đề cập rõ ràng trong các
chính sách nhƣng lại không có chƣơng trình hoặc kế hoạch cụ thể để thực hiện
những hoạt động này. Do đó, việc thi hành một cách toàn diện những chính sách tái
hòa nhập cộng đồng thực sự gặp khó khăn.
Các chƣơng trình phải bảo đảm đƣợc thực hiện thích ứng, phù hợp với từng
nhóm đối tƣợng, trong từng giai đoạn. Các chƣơng trình đƣợc thiết kế trong trại
giam thì ngoài mục đích trừng trị, răn đe, các chƣơng trình này phải nhằm đến cảm
hóa, giáo dục, dạy văn hóa, dạy nghề phù hợp, giúp đỡ họ xóa bỏ tự ti, mặc cảm,
phấn đấu cải tạo tốt để sau khi mãn hạn tù, trở về tái hòa nhập cộng đồng và từng
bƣớc làm lại cuộc đời. Các chƣơng trình hỗ trợ khi đối tƣợng đƣợc ra trại phải
đƣợc thiết kế riêng, phù hợp với mỗi địa phƣơng, đồng thời phải giúp đƣợc cho
ngƣời mãn hạn tù xóa đƣợc mặc cảm, tự ti, cởi mở hơn khi tiếp xúc với ngƣời
xung quanh, quyết tâm hòa nhập, tránh tái phạm tội.
1.3. Chuẩn mực quốc tế về tái hòa nhập xã hội cho người chưa thành
niên phạm tội

Việc phục hồi của ngƣời chƣa thành niên phạm tội và sự thành công tái hòa
12


nhập của họ là một trong những nhiệm vụ cơ bản của hệ thống tƣ pháp hình sự.
Những điều này cũng đã đƣợc thừa nhận trong các tiêu chuẩn về quyền con ngƣời
trên toàn thế giới. Nguyên tắc 10 trong Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù
nhân của Liên Hợp Quốc tuyên bố rằng: “Với sự tham gia và giúp đỡ của cộng
đồng và các tổ chức xã hội và với sự quan tâm thích đáng tới những lợi ích của
người phạm tội, những điều kiện thuận lợi sẽ được tạo ra để việc hòa nhập cộng
đồng của những người phạm tội mãn tù được diễn ra trong những điều kiện tốt
nhất” [65]. Điều 8 cũng nói tới sự cần thiết phải giúp đỡ những ngƣời phạm tội
mãn hạn tù có khả năng đƣợc làm những công việc bình thƣờng trong xã hội bởi
những công việc này sẽ giúp họ tái hòa nhập vào thị trƣờng lao động của đất nƣớc
mình cũng nhƣ cho phép họ có đƣợc nguồn thu nhập để nuôi sống bản thân cũng
nhƣ giúp đỡ gia đình họ.
Đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội, Công ước về quyền trẻ em (CRC),
đƣợc Việt Nam phê chuẩn năm 1990, yêu cầu các bên của Công ƣớc phải xây dựng
những luật đặc biệt, những quy trình đặc biệt, thiết lập những cơ quan chức năng có
thẩm quyền một cách cụ thể để xử lý trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm tội
một cách hợp lý. Những luật và quy trình này phải đảm bảo rằng ngƣời phạm tội là
ngƣời chƣa thành niên phải đƣợc đối xử với sự tôn trọng những giá trị cơ bản về
nhân phẩm của họ và những luật, quy trình nói trên cũng phải tính đến độ tuổi, cũng
nhƣ những nhu cầu của họ để thúc đẩy quá trình hòa nhập xã hội của những ngƣời
phạm tội này thành công.
Điều 24.1 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng
pháp luật với người chưa thành niên nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc cung
cấp điều kiện vật chất, dịch vụ cũng nhƣ các sự hỗ trợ cần thiết khác để thúc đẩy
việc đảm bảo những quyền lợi cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong suốt quá
trình tái hòa nhập cộng đồng. Điều này quy định rằng “sẽ có những nỗ lực đƣợc

dành cho việc cung cấp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội những sự hỗ trợ cần
thiết hay bất cứ sự hỗ trợ hữu ích và thiết thực nào ở tất cả các giai đoạn của quá
trình tố tụng để giúp việc tái hòa nhập cộng đồng của họ đƣợc diễn ra thuận lợi”.
Quy tắc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do của Liên Hợp
Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của hai vấn đề, thứ nhất đó là tầm quan trọng của
13


việc hỗ trợ ngƣời chƣa thành niên phạm tội tại các trại giam, cơ sở giáo dục và việc
hiểu đƣợc những nhu cầu của họ và thứ hai, đó là tầm quan trọng của việc cung cấp
những chƣơng trình thích hợp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội để họ xác định
đƣợc nhu cầu của mình cũng nhƣ những thử thách mà họ sẽ phải đối mặt. Những
quy tắc này chỉ ra rằng giáo dục và đào tạo nghề là hai phƣơng thức chính để chuẩn
bị cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội có thể tái hòa nhập cộng đồng thành công.
Theo những quy tắc này, mục đích của việc đào tạo và hỗ trợ đƣợc đặt ra với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội là “để cung cấp cho họ sự chăm sóc, sự bảo vệ, giáo dục
và những kỹ năng nghề nghiệp và nhƣ vậy sẽ giúp họ nhận ra đƣợc chuẩn mực của
một ngƣời công dân tốt trong xã hội”.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với
người chưa thành niên cũng quy định rằng “trong thời gian tạm giam, ngƣời chƣa
thành niên đƣợc hƣởng sự chăm sóc, bảo vệ và tất cả những hỗ trợ cá nhân cần
thiết - xã hội, giáo dục, nghề nghiệp, tâm lý, y tế và thể chất - có liên quan đến lứa
tuổi, giới tính và nhân thân của họ” (Điều 13) và quyền lợi về sự phát triển lành
mạnh, toàn diện”.
Những Quy tắc cơ bản về đối xử với phạm nhân của Liên Hợp Quốc đã làm
rõ rằng trách nhiệm của xã hội không chỉ kết thúc tại thời điểm các phạm nhân
đƣợc phóng thích: “Vì thế, nên có những cơ quan của chính phủ hay tổ chức tư
nhân có khả năng thuê những người phạm tội mãn hạn tù về làm việc và việc quan
tâm đến họ như vậy sẽ làm giảm những định kiến đối với họ và thúc đẩy việc tái hòa
nhập của họ” (Quy tắc 64).

Bộ Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối
với người chưa thành niên nhấn mạnh sự cần thiết về phạm vi của những dịch vụ và
những cơ sở giáo dục đa dạng để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của những ngƣời
chƣa thành niên phạm tội tái hòa nhập cộng đồng và cũng để cung cấp cho họ những
chỉ dẫn cũng nhƣ hỗ trợ và đây là khâu quan trọng để giúp họ tái hòa nhập xã hội thành
công. Mặt khác, Bộ quy tắc này cũng chứa đựng những hƣớng dẫn liên quan đến
không giam giữ (xử lý tại cộng đồng) (Điều 23), yêu cầu phải cung cấp những hỗ trợ để
giúp quá trình tái hòa nhập cộng đồng đƣợc diễn ra thuận lợi (Điều 24), và yêu cầu kêu
gọi những ngƣời tình nguyện, các tổ chức tình nguyện, những

14


tổ chức tại địa phƣơng và các nguồn giúp đỡ khác trong cộng đồng để góp phần
giúp cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội trở lại với cuộc sống bình thƣờng một
cách hiệu quả trong môi trƣờng xã hội và trong gia đình.
1.4. Chương trình tái hòa nhập cho người chưa thành niên phạm tội
mãn hạn tù
Trong việc thiết kế và thực thi những can thiệp nhằm giúp cho việc tái hòa
nhập ngƣời chƣa thành niên phạm tội về với cộng đồng thành công và giúp họ
tránh những liên quan đến tội phạm về sau, có rất nhiều điều cần lƣu ý. Những
ngƣời sau khi đƣợc giải phóng khỏi nhà tù, họ có thể lại phải đối mặt với vô số
những thách thức có thể khiến họ lại tái phạm.
Những ngƣời phạm tội phải đối mặt với nhiều thử thách. Họ có khoảng thời
gian bị cô lập và cách ly với xã hội; bị ngƣợc đãi về thể xác và tinh thần; có công
việc lƣơng thấp hay thất nghiệp hoặc từ nhỏ có lối sống liên quan đến tội phạm.
Những khuyết tật về thể chất và tinh thần, cũng nhƣ vấn đề sức khỏe đôi khi liên
quan đến sự lạm dụng hay nghiện ma túy là những điều thách thức họ. Nhiều ngƣời
phạm tội đối mặt với việc thiếu các kĩ năng khiến họ gặp khó khăn trong việc cạnh
tranh và thành công trong cộng đồng: các kỹ năng kết hợp cá nhân kém, nền tảng

giáo dục chính quy là thấp, mù chữ hay không biết làm toán, vận hành nhận thức và
cảm xúc nghèo kém, hoặc thiếu kỹ năng quản lý kế hoạch và tài chính [62]. Khi
những ngƣời phạm tội đƣợc đƣa vào cơ sở giam giữ, họ phải đối mặt thêm những
thách thức khác, là hậu quả trực tiếp của việc bị bỏ tù và khó khăn của việc chuyển
giao họ về cộng đồng [61]. Thêm vào đó là một số thách thức trong thực tiễn sau
khi ngƣời phạm tội đƣợc ra tù, bao gồm việc tìm thấy chỗ ở hợp lý với rất ít tiền
bạc, quản lý tài chính với số tiền tiết kiệm rất ít hoặc thậm chí không có, cho đến
khi họ bắt đầu kiếm đƣợc thu nhập hợp pháp, đánh giá những nhu cầu cần thiết
hàng ngày, đánh giá dịch vụ và những hỗ trợ cho những nhu cầu cụ thể của họ.
Giáo dục và đào tạo hướng nghiệp
Không có khả năng kiếm sống trong cộng đồng, những ngƣời phạm tội
thƣờng quay lại với những hoạt động phạm tội. Lý giải về những nhu cầu có sức ép
nhất đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội chính là ở nhu cầu về giáo dục và đào
tạo việc làm. Trong quá trình giải quyết nhu cầu của những ngƣời phạm tội chƣa
15


thành niên, nhu cầu về giáo dục và đào tạo nghề để có thể cung cấp cho thị trƣờng
lao động là cấp bách nhất. Thất bại trong việc giải quyết yêu cầu này sẽ tác động bất
lợi tới việc hòa nhập cộng đồng của ngƣời phạm tội.
Những ngƣời phạm tội chƣa thành niên trong độ tuổi đi học bắt buộc có
quyền đƣợc hƣởng nền giáo dục phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ, đƣợc
thiết kế nhằm chuẩn bị cho họ trở lại cộng đồng. Những ngƣời đã qua tuổi đi học
bắt buộc và có mong muốn đƣợc học tiếp, đƣợc cho phép và khuyến khích đi học,
và cần có những cố gắng để cung cấp cho họ khả năng tiếp cận những chƣơng trình
giáo dục phù hợp. Việc giáo dục cũng phải do những giáo viên có đủ phẩm chất
thông qua chƣơng trình có sự liên thông với hệ thống giáo dục thông thƣờng, để
những ngƣời chƣa thành niên sau khi đƣợc thả có thể tiếp tục quá trình học tập mà
không gặp khó khăn. Các chƣơng trình giáo dục cho ngƣời phạm tội thành niên
cũng rất quan trọng. Tất cả những ngƣời phạm tội mù chữ hoặc gặp khó khăn trong

việc học tập cần đƣợc tham gia vào các chƣơng trình giáo dục đặc biệt hay dành
riêng cho ngƣời chậm hiểu.
Ngƣời phạm tội đƣợc quyền tham gia vào sự đào tạo hƣớng nghiệp những
nghề nghiệp có thể chuẩn bị cho họ một công việc có thu nhập. Trong phạm vi nhất
định, họ có thể đƣợc quyền lựa chọn loại đào tạo hƣớng nghiệp mà họ đƣợc nhận.
Trong những trƣờng hợp cụ thể, các chƣơng trình đào tạo hƣớng nghiệp cần thiết
kế để cung cấp cho những ngƣời phạm tội những kĩ năng có thể phù hợp với những
cơ hội nghề nghiệp hiện có trong cộng đồng nơi họ hòa nhập.
Nghề nghiệp
Điểm mấu chốt trong mọi trƣờng hợp tái hòa nhập thành công của ngƣời phạm
tội nằm ở khả năng của họ trong việc đảm bảo và duy trì công việc có thu nhập.

Nghề nghiệp cung cấp không chỉ thu nhập cần thiết để hỗ trợ
những điều kiện đầy đủ về vật chất, mà còn cung cấp một cấu trúc và
công việc làm hằng ngày. Nó tạo các cơ hội để mở rộng mạng lƣới xã
hội của một ngƣời tới những thành viên hữu ích của xã hội. Thêm vào
đó, nghề nghiệp còn đóng góp vào việc tăng cƣờng lòng tự trọng và sức
khỏe tâm lý khác.
Những nỗ lực để tìm ra nghề nghiệp phù hợp với ngƣời phạm nhân trong một

16


cơ sở giam giữ cần đƣợc bắt đầu trƣớc khi họ mãn hạn tù. Việc này bao gồm đánh
giá những kĩ năng hiện tại của họ, nhận diện những cơ hội nghề nghiệp, đem lại sự
giáo dục thích hợp và đào tạo hƣớng nghề để tăng cƣờng khả năng đƣợc tuyển
dụng của họ trƣớc khi họ đƣợc phóng thích. Điều quan trọng nữa là những dịch vụ
nghề nghiệp cần đƣợc cung cấp liên tục từ thời điểm ngƣời phạm tội vào tù cho
đến khi họ trở lại cộng đồng...
Chăm sóc sức khỏe tinh thần

Những phạm nhân chƣa thành niên đang bị ảnh hƣởng bởi bệnh tâm thần
thƣờng gặp vấn đề khi hòa nhập cộng đồng. Họ phải trải qua những sự cô lập với xã
hội cực kì khắc nghiệt cũng nhƣ thƣờng có nguy cơ rối loạn do lạm dụng ma túy.
Họ cũng thƣờng xuyên đối mặt với những khó khăn, đặc biệt trong việc hòa nhập
với gia đình mình cũng nhƣ các cơ hội nghề nghiệp hoặc giáo dục phù hợp. Những
thách thức từ những bệnh tâm thần của ngƣời chƣa thành niên phạm tội đòi hỏi sự
phát triển của những mô hình điều trị dựa vào cộng đồng trong việc tiếp tục chăm
sóc nhằm giải quyết những rủi ro, nhu cầu và khả năng dễ bị tổn thƣơng của nhóm
ngƣời phạm tội này.
Liên hệ với gia đình và cộng đồng
Trong quá trình bị giam giữ, ngƣời chƣa thành niên phạm tội có quyền đƣợc
liên hệ với gia đình của họ. Trên thực tế, việc tái hòa nhập thành công thƣờng phụ
thuộc vào việc duy trì, và đôi khi là sự cải thiện mối quan hệ của ngƣời phạm tội
với ngƣời thân và những thành viên của cộng đồng. Sự hỗ trợ từ gia đình sẽ là một
trong những sức mạnh giúp tái hòa nhập thành công. Gia đình và cộng đồng có thể
và nên đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp ngƣời phạm tội chuẩn bị quay trở lại
cộng đồng. Nguồn động viên, giúp đỡ từ gia đình và cộng động là điều lí tƣởng cho
việc tƣ vấn và hỗ trợ trong việc lên kế hoạch trả tự do cho những ngƣời phạm tội
trẻ tuổi cũng nhƣ tái hòa nhập vào cộng đồng.
Một phƣơng pháp khác giúp cho việc tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn là
cho phép những cuộc thăm nhà hay tạm rời khỏi nơi giáo dục. Điều đó cho phép
ngƣời phạm tội giữ đƣợc mối liên hệ với gia đình, tăng cƣờng sự chuyển tiếp dần
dần từ cuộc sống nơi giáo dục tới cộng đồng.
Việc ân xá sớm có thể đƣợc bảo đảm nhƣ là một phần của các chƣơng trình
17


phóng thích sớm hay chƣơng trình có điều kiện với sự giám sát của cộng đồng. Việc
này có thể bao gồm sự giám sát, các nhóm nhỏ tổ chức những hoạt động thể thao
hoặc hoạt động văn hóa nghỉ ngơi xa nhà với các nhân viên của cơ sở giam giữ, hay

là việc tạm thả cá biệt cho phép ngƣời phạm tội về thăm gia đình, đến trƣờng hay
tham gia các khóa đào tạo hƣớng nghiệp hoặc tìm hiểu các cơ hội nghề nghiệp bên
ngoài cơ sở giam giữ.
1.5. Pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người chưa thành niên
phạm tội mãn hạn tù
1.5.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ
Việc tái hòa nhập thành công của ngƣời chƣa thành niên phạm tội phải bắt
đầu ngay trong khi họ đang trong trại giam. Vì mỗi ngƣời chƣa thành niên phạm tội
không giống nhau nên những chƣơng trình và sự can thiệp phải dựa trên kế hoạch
riêng cho từng ngƣời. Do đó, các cơ quan nên đề ra những chƣơng trình và sự giúp
đỡ đối với những nhu cầu của các cá nhân phạm tội này. Khi xác định đƣợc những
nhu cầu của ngƣời phạm tội, sự giúp đỡ, giáo dục hoặc những chƣơng trình việc
làm để họ có thể mở rộng cánh cửa cho việc tái hòa nhập xã hội đƣợc thành công.


nhiều quốc gia, các cơ sở giam giữ thực hiện điều này bằng cách thuê

những ngƣời quản lý ca (quản lý từng vụ). Những ngƣời quản lý ca đánh giá toàn
diện những nhu cầu và rủi ro đối với từng phạm nhân vào thời điểm họ nhập trại
giam. Dựa vào sự đánh giá này, ngƣời quản lý ca sau đó phát triển, giám sát, cải tạo
và có kế hoạch tái hòa nhập cộng đồng cho từng phạm nhân. Kế hoạch đƣa ra phải
dựa vào những điểm mạnh ngƣời phạm tội, các nhân tố nguy hiểm, những nhu cầu
chính và nó là chiến lƣợc nhằm giúp đỡ ngƣời phạm tội giải quyết những vấn đề
của chính mình khi họ trong trại giam.
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tƣ tƣởng
chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội, theo đó tại
Điều 3 có quy định về nguyên tắc xử lý nhƣ sau: "Đối với người bị phạt tù thì buộc
họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành
người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành
hình phạt" [36]. Bên cạnh đó Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích

của hình phạt nhƣ sau: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
18


giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [36, Điều 27].
Theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của trại giam thì: Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù, có
nhiệm vụ quyền hạn "tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm
nhân" [40]. Trại giam có phân trại, khu giam giữ, nhà giam, các công trình phục vụ
việc quản lý giam giữ, phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục cải tạo phạm
nhân; các công trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại giam. Tổ chức bộ
máy quản lý của trại giam gồm có Giám thị, Phó giám thị, Trƣởng phân trại, Phó
trƣởng phân trại, Đội trƣởng, Phó đội trƣởng; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân, viên chức. Giám thị, Phó giám thị, Trƣởng phân
trại, Phó trƣởng phân trại, Đội trƣởng, Phó đội trƣởng phải là ngƣời đã tốt nghiệp
đại học cảnh sát, đại học an ninh, đại học luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn
khác theo quy định của Chính phủ.
Quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân là quá trình kiểm soát, tổ chức và hƣớng
dẫn các loại hình hoạt động và giao tiếp của ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện một cách
có mục đích, có kế hoạch trong những điều kiện cụ thể của trại giam trên cơ sở quy
định của pháp luật. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp do những hành vi thói
quen xấu, nhất là những ngƣời đã bị ảnh hƣởng và chi phối bởi những quan điểm, tƣ
tƣởng sai lầm, nhân cách lệch lạc, suy thoái đến mức trầm trọng. Những ngƣời phạm
tội đã mang trong họ những phẩm chất tâm lý tiêu cực nhƣ: triết lý sống thấp hèn, thói
quen vô đạo đức, tính hung bạo, nhẫn tâm, tàn ác, tham lam, ích kỉ, cục cằn, thiếu văn
hóa, lối sống tự do, bừa bãi, vô kỉ luật của phạm nhân là khá phổ biến và không thể
ngày một ngày hai có thể thay đổi đƣợc. Tuy nhiên, dù nhân cách của ngƣời phạm tội
có suy thoái, vô đạo đức đến mức nào thì ở mỗi con ngƣời vẫn còn tính nhân bản, trong

sâu thẳm tâm hồn của họ, ít nhiều vẫn còn lƣơng tri, nỗi niềm trắc ẩn, điều mà có thể
khơi dậy đƣợc. Trại giam là nơi tiếp nhận ngƣời phạm tội, sau đó tổ chức quản lý giam
giữ và giáo dục cải tạo phạm nhân. Đầu tiên ngƣời phạm tội sẽ đƣợc phân loại để quản
lý, giáo dục, hƣớng nghiệp, dạy nghề cho phù hợp với từng loại đối tƣợng, phạm nhân
mới đến trại giam đƣợc học chƣơng

19


×