Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố hải phòng luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ HƢỜNG

TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ HƢỜNG

TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải


HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Đinh Thị H-ờng

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
1

MỞ ĐẦU


Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ

8

HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI

1.1.

Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

8

1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ

14

1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ

20

1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi được trả
tự do khỏi cơ sở giam giữ

27

1.2.


Các chương trình tái hòa nhập xã hội

31

1.3.

Các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm một số nước

34

Chương 2: THỰC TRẠNG, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC, NGUYÊN NHÂN

41

VÀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG

2.1.

Thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội của thành phố Hải Phòng

41

2.2.

Những kết quả đạt được công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm của thành phố Hải Phòng


43

2.3.

Nguyên nhân và những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã
hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng

52

4


2.3.1. Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội của thành phố Hải Phòng

52

2.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong công
tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố
Hải Phòng

66

Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG

81

CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI TỘI PHẠM


3.1.

Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội
đối với người phạm tội

81

3.2.

Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa
nhập xã hội đối với người phạm tội

85

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

85

3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội

88

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công
tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

91


3.2.4. Các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cộng đồng trong
việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

98

3.2.5. Giải pháp mang tính nghiệp vụ

102

3.2.6. Giải pháp mang tính xã hội

106

3.3.

Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các
quy định về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

111

KẾT LUẬN

117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

120

5



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê số liệu tái hòa nhập xã hội tại Hải Phòng từ

44

bảng
2.1

năm 2008 đến năm 2012
2.2

Số liệu về đặc xá từ 2010 đến 2012 tại Hải Phòng

47

2.3

Bảng số liệu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm của thành

63

phố Hải Phòng


6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một công tác gắn liền
với việc thực thi các biện pháp hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội sau
khi được trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho
những người đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình
thường đồng thời giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Hạn chế tối đa những trường hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà
còn được thể hiện rất rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nhấn mạnh: "Đối xử nhân đạo với
người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc
làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng" [18].
Bên cạnh đó, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được thực
hiện dựa trên nguyên tắc của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo đó: "Chế độ
giam giữ, thi hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với tù
nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội" [38].
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một hoạt động có liên
quan đến nhiều cơ quan, ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 Điều 39 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010 quy định:
Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa
phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân
tích cực học tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng
của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm

nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hòa nhập
cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù [32].

7


Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền
vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đưa người
phạm tội trở lại cuộc sống lương thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại
địa phương, minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội
cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị:
Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ
Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án.
Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tình, thành phố
trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực
hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc
xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi
hành án [21].
Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lượng
người phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hướng gia tăng, do đó việc tái
hòa nhập xã hội cho các đối tượng này cần được quan tâm một cách đúng đắn.
Việc tiếp nhận số lượng các đối tượng đã bị cách ly với xã hội trong một thời
gian dài là một thách thức không nhỏ trong công tác tái hòa nhập xã hội.
Trong những năm vừa qua thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội có
những biến chuyển tích cực và đạt được một số thành tích nhất định. Tuy
nhiên, tái hòa nhập xã hội được xác định là công tác mang tầm quốc gia và

lâu dài do đó dù nhiều chương trình tái hòa nhập đã được thực hiện và đạt
được những hiệu quả nhất định thì còn những mặt hạn chế và những tồn tại,
chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và tham gia của toàn xã hội. Thời gian
chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn chế tự do, cách ly người bị kết án

8


khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại trại giam, việc hạn chế lâu
dài các chức năng xã hội bình thường của một con người đồng thời gây ra sự
lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ như học tập, làm việc, quan hệ
cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp. Do đó việc khôi phục lại các chức
năng xã hội này là một việc rất khó khăn và tương đối phức tạp. Mặt khác
hiện nay các văn bản về tái hòa nhập xã hội còn chưa đồng bộ và thống nhất.
Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như
luật hình sự, luật thi hành án phạt tù hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị
quyết của Chính phủ và ngành Công an như Chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm, chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy. Ngoài ra
công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội chưa thực sự được quan tâm
đúng mức cũng góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội chưa thực sự
phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giáo dục, cảm hóa người phạm tội
để khi mãn hạn tù họ trở thành những người có ích cho xã hội. Theo số liệu
thống kê của của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, tính từ năm 2009
đến năm 2012 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là khá cao. Thành phố
Hải Phòng là một trong những thành phố lớn với tình hình tội phạm về cả
mức độ phức tạp và số lượng tội phạm trong cả nước và do vậy việc tìm hiểu
và nghiên cứu về công tác tái hoà nhập xã hội đối với người phạm tội của Hải
Phòng là một việc làm cần thiết và đáng quan tâm hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Tái hòa nhập xã

hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng" làm luận văn Thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái
hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, người mãn hạn tù và cả những người
cai nghiện và người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể là các công trình như:

9


Giáo dục, giúp đỡ người tù tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, của
Nguyễn Quốc Nhật, Nguyễn Trung Hòa và Trần Hải Âu, năm 2001; Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời
gian cải tạo, giam giữ, của tập thể tác giả Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu
Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn
Quang Hưng. Một số bản báo cáo của vụ pháp luật hình sự - hành chính như:
Báo cáo đánh giá, kiến nghị về tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2010; Rà soát, đánh giá pháp
luật, chính sách và thực tiễn tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2007; Thực tiễn tái hòa nhập
xã hội của người mãn hạn tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, của
Đàm Thanh Thế; Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý, giúp đỡ
người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng,
của Nguyễn Lợi; Bài học thực tiễn của quá trình hòa nhập xã hội từ trại giam
đến nơi cứ trú của những người mãn hạn tù, của Nguyễn Văn Cảnh; Chương
trình giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam - bước chuẩn bị cho quá
trình tái hòa nhập xã hội, của Phạm Đức Chuẩn. Hay một số bài viết của Võ
Khánh Vinh, Nguyễn Ngọc Hòa, Hồ Sĩ Sơn v.v… trong Hội thảo khoa học
"Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở
Việt Nam và Na Uy". Một số giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học

chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện
An Ninh, Học viện Cảnh sát nhân dân…) cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt
khác, tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội chưa đáp ứng hết những đòi
hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề
phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm
hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khái niệm được xem xét
ở rất nhiều khía cạnh khác nhau và ở phạm vi rộng, tính từ khi một người là bị

10


can, bị cáo trong các vụ án đến khi có bản án, quyết định của Tòa án và giai
đoạn chấp hành án cũng như sau khi chấp hành án xong. Do vậy có rất nhiều
tên gọi khác nhau ở từng giai đoạn, đó là bị can, bị cáo, người bị kết án, người
tù tha, người chấp hành án, người mãn hạn tù v.v... Công tác tái hòa nhập đối
với người phạm tội được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau với những đối
tượng khác nhau, nhưng đều được gọi chung là người phạm tội. Phạm vi đề
tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái hòa nhập xã hội đối
người phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và sau khi chấp hành án xong trên
địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm trở lại đây (2007 - 2012).
Luận văn còn đi sâu nghiên cứu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
sau khi mãn hạn tù để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng công tác tái hòa
nhập hiện nay trên địa bàn thành phố. Đồng thời, từ những quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động tái hòa nhập xã hội của
Hải Phòng, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như nâng cao hiệu quả của công
tác tái hòa nhập xã hội của thành phố nói riêng và cả nước nói chung trong
thời gian tới.

Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung
năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án năm 2010,
các văn bản hướng dẫn thi hành và một số văn bản hướng dẫn của các cơ
quan chuyên môn về công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và
những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hòa nhập xã hội nói
chung và đi sâu phân tích công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội

11


của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2008 - 2012), luận văn
đánh giá được thực trạng của công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một trong những địa phương điển hình
của cả nước về tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải
pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu quả
vào công tác tái hòa nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này
trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đưa ra một vài kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này.
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa
nhập xã hội như: Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội; các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các
luật có liên quan về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội.
Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội của
thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót,

tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của
vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội hiện nay.
5. Cơ sở khoa học của đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội đối với người
phạm tội của thành phố Hải Phòng. Ngoài ra luận văn còn dựa trên các công
trình nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu của các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt
Nam về lĩnh vực này.

12


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng
khoa học kết hợp với một số phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp
điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu,
so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và một số
phương pháp bổ trợ khác.
7. Điểm mới của đề tài
Luận văn không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm, học thuật hoặc
chuyên khảo mà chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật
cũng như thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của
thành phố Hải Phòng một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội của thành
phố Hải Phòng nói riêng, một địa phương điển hình trong cả nước về tình
hình tội phạm và cả nước nói chung, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm

hoàn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái hòa nhập xã hội đối với người
phạm tội.
Chương 2: Thực trạng, kết quả đạt được, nguyên nhân và tồn tại trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa
nhập xã hội đối với tội phạm.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI

1.1. KHÁI NIỆM TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI

Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay, vấn đề tái hòa nhập xã hội
chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hình sự, hành chính mà bị cách
ly khỏi cộng đồng xã hội trong một thời gian. Hệ thống chế tài về hình sự và
hành chính của Việt Nam đã đưa ra các đối tượng bị cách ly khỏi xã hội bao
gồm những đối tượng sau: thứ nhất là người bị kết án tù có thời hạn, tù chung
thân; thứ hai là người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; thứ ba là
người bị đưa vào trường giáo dưỡng (áp dụng đối với người chưa thành niên).
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là quá trình tính từ khi một người
trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù. Tuy nhiên đối
tượng mà luận văn đi sâu nghiên cứu thuộc đối tượng thứ nhất đó là những

người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân và tính từ khi còn là bị can, bị cáo
cho đến khi mãn hạn tù hay hay là các đối tượng tù tha và trở về địa phương.
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1, Điều 49 Bộ luật Tố
tụng hình sự); bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử (Khoản 1 Điều 50
Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về người bị
kết án, tuy nhiên lại đề cập khá nhiều về người bị kết án khi quy định về việc
chấp hành hình phạt. Như vậy có thể hiểu người bị kết án là người đã có bản
án có hiệu lực của Tòa án và đang trong thời gian chấp hành án. Người chấp
hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực
pháp luật. Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân (khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Có
rất nhiều quan điểm khác nhau về người mãn hạn tù (hay còn gọi là đối tượng
tù tha). Đa số các quan điểm đều cho rằng người mãn hạn tù bao gồm tất cả

14


các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định
được tha về địa phương. Tuy nhiên quan điểm này chưa phân biệt rõ được đối
tượng tù tha với các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung như
cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cai nghiện được tha về
địa phương. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối
tượng "hết thời hạn chấp hành hình phạt tù" về địa phương. Đây là những đối
tượng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Tòa án nhân dân quyết định, được
tha về địa phương [26, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm này cũng chưa thật đầy
đủ, bởi lẽ nếu xác định như vậy đối tượng mãn hạn tù chỉ bao gồm những đối
tượng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết thời gian cải
tạo theo quyết định của Tòa án được tha về địa phương, như vậy theo cách
hiểu này thì số đối tượng tù tha được giảm thời hạn chấp hành án, được đặc
xá không nằm trong diện đối tượng tù tha. Theo Từ điển Nghiệp vụ phổ thông

thì tù tha về là những kẻ phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc
chưa hết hạn nhưng được ân xá, ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối
tượng tù tha về và cần bố trí công ăn việc làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ
làm ăn lương thiện. Nếu hiểu theo quan điểm này thì đối tượng mãn hạn tù
bao gồm số đối tượng bị phạt án tù giam được tha kể cả số đã hết thời hạn
nhưng ân xá, ân giảm tha về do có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo. Khái
niệm này đã có cái nhìn toàn diện hơn so với những quan điểm trên về đối
tượng mãn hạn tù, tuy nhiên chưa phân định được rõ số tù giam có thời hạn
với số tù chung thân được tha về và cũng chưa đề cập tới vấn đề đối tượng tù
tha được đặc xá. Để có được khái niệm đầy đủ về người mãn hạn tù, Điều 2
Quyết định của Chủ tịch nước số 35/QĐ-CTN ngày 23/2/2000 về đặc xá năm
2000 cũng chỉ rõ: "Đối tượng được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân
đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản
lý, kể cả những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc
hoãn thi hành án phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định" [25].
Theo đó thì đối tượng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án

15


phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng và quản lý có
nhiều tiến bộ được tha trước thời hạn; Phạm nhân trong thời gian được tạm
đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn thi hành án phạt tù;
Những người bị kết án tù trong thời gian được hoãn thi hành án phạt tù có
nhiều tiến bộ được miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan điểm trên thì
người mãn hạn tù hay còn gọi là đối tượng tù tha:
Là những người có hành vi phạm tội đã bị Tòa án nhân dân
kết án bằng bản án tù chung thân hoặc có thời hạn, phải chấp hành
hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống xã hội nay đã
chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó được tha ra

khỏi trại, được trở về với đời sống xã hội cộng đồng [26, tr. 13].
Quan điểm này đưa ra cái nhìn tương đối phù hợp và toàn diện về
người mãn hạn tù, do đó người mãn hạn tù chỉ bao gồm số đối tượng phạm tội
đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân ở các trại giam,
trại tạm giam, hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng
chính sách khoan hồng và được tha về địa phương. Số đối tượng đang chấp
hành án phạt tù trong các trại giam được xét giảm án, đặc xá cũng là đối
tượng mãn hạn tù. Riêng đối tượng được đặc xá cần phân biệt rõ, chỉ những
phạm nhân đang chấp hành án trong các trại giam được giảm án tha về địa
phương mới được coi là mãn hạn tù. Số đối tượng đang được tạm hoãn thi
hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù không bị giam giữ, quản lý
trong trại giam mà ở ngoài xã hội do có nhiều tiến bộ được hưởng chính sách
khoan hồng và được xét đặc xá, thì không coi là mãn hạn tù. Các đối tượng bị
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo Điều 20 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính như: Cải tạo ở các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở
chữa bệnh được về địa phương không phải là đối tượng mãn hạn tù. Các đối
tượng chấp hành các hình phạt của Tòa án nhưng được cải tạo ở ngoài xã hội
như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất đã hết thời hạn cải
tạo và số bị áp dụng các hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp khác như:

16


Cấm cứ trú, quản chế, tước một số quyền công dân và kể cả án treo (trừ
trường hợp đối tượng đã chấp hành xong án phạt tù phải áp dụng hình phạt bổ
sung) thì không phải đối tượng mãn hạn tù. Qua những phân tích nêu trên có
thể hiểu người mãn hạn tù là những đối tượng có hành vi phạm tội, vi phạm
pháp luật hình sự, đã có quyết định của Tòa án về việc áp dụng hình phạt tù
có thời hạn hoặc tù chung thân. Họ bị xử lý, bị cách ly khỏi xã hội và được
quản lý, giam giữ giáo dục trong trại giam hoặc các trại tạm giam trong một

thời gian nhất định theo quyết định của Tòa án, nay họ đã hết thời hạn giam
giữ, cải tạo hoặc chưa hết thời hạn nhưng có tiến bộ, được hưởng chính sách
khoan hồng được tha về địa phương. Đây là những đối tượng đã bị kết án tù
giam hoặc tù chung thân đã chấp hành án ở các trại giam và được tha về.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập xã hội và
tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Một số quan điểm cho rằng tái
hòa nhập xã hội là "tái hoàn lương" trở lại đối với cuộc sống đời thường mà
những người vi phạm, những người lầm lỗi đã mất đi. Cũng có ý kiến cho
rằng tái hòa nhập xã hội thực chất là các biện pháp quản lý của cộng đồng đối
với những người phạm tội. Bên cạnh đó đa phần các quan điểm đều cho rằng
tái hòa nhập xã hội là "quay lại lần thứ hai" hòa nhập với cộng đồng xã hội
đối với những người có quá khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách ly khỏi xã
hội, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên có thể hiểu tái hòa nhập xã hội như sau: Tái
hòa nhập xã hội là xóa đi những quá khứ tội lỗi và mặc cảm của người phạm
tội, tạo cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng
đồng nơi cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của gia đình,
cộng đồng xã hội [26, tr. 24]. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp
đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi mọi mặc
cảm của bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để họ có thể trở về
là người dân lương thiện với đúng nghĩa của nó. Có thể hiểu tái hòa nhập xã
hội là khái niệm thường đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội được thiết
kế riêng biệt để giúp người phạm tội được tha từ một cơ sở giam giữ và để

17


giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về với cộng
đồng. Tái hòa nhập không có nghĩa chỉ là việc đưa đối tượng lầm lỡ từ các cơ
sở tập trung trở về nơi cư trú cũ, về với gia đình họ và cộng đồng dân cư nơi
họ sống trước đây. Tái hòa nhập xã hội cần được hiểu ở mức độ và phạm vi

rộng hơn, đây thực chất là quá trình giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện để những
con người vi phạm sau một thời gian cách ly trở về với cuộc sống của cộng
đồng, là người công dân lương thiện được thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể đến các
chương trình và sáng kiến nhằm giúp người phạm tội đã được đưa vào các cơ
sở giam giữ. Mục đích của nó là giúp người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng
thành công sau khi chấp hành bản án cải tạo. Thông thường có hai loại
chương trình: Thứ nhất là, hỗ trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trước khi
phóng thích của người phạm tội, nhằm giúp người phạm tội giải quyết các
vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi phạm tội của họ, trang
bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình và
chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng. Đây là quá trình tác động từ bên ngoài
đối với đối tượng để đối tượng tiến bộ hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng
chính là các biện pháp của chính quyền, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội và
thân nhân gia đình đối với đối tượng mãn hạn tù nhằm quản lý, giáo dục giúp
đỡ họ.Và chương trình thứ hai là, những chương trình dựa trên cộng đồng,
thường được gọi là chương trình "hậu chăm sóc" nhằm tạo thuận lợi cho hòa
nhập xã hội của người phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở giam giữ. Rất
nhiều các chương trình sau này bao gồm cả một số hình thức giám sát cũng
như hỗ trợ tại cộng đồng. Có thể nhận thấy đây là các biện pháp tác động
hướng thiện chủ quan từ nội tâm, tự bản thân đối tượng phấn đấu để tái hòa
nhập xã hội. Như vậy có thể hiểu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
được xét ở hai khía cạnh: Với cá nhân đối tượng thì tái hòa nhập xã hội chính
là quá trình tự bản thân họ nhận thức điều chỉnh tư duy và hành vi cho phù
hợp với quy định của pháp luật và chuẩn mực của cộng động, đồng thời thông

18


qua lao động và giao tiếp, họ dần dần thích nghi với các sinh hoạt chung của

cộng đồng; Bên cạnh đó các chủ thể là nhà nước và xã hội, thông qua các hoạt
động hỗ trợ cụ thể, tạo các điều kiện cần và đủ cho đối tượng tạo lập cuộc
sống bình thường trong cộng đồng và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau để
chuẩn bị cho người phạm tội những điều kiện cần thiết và tâm lý, kỹ năng
sống khi trở về với xã hội sau một thời gian bị cách ly [26, tr. 23- 25].
Tái hòa nhập xã hội bao gồm nhiều giai đoạn bắt đầu từ việc chuẩn bị
cho người phạm tội bị cách ly khỏi xã hội những điều kiện cần thiết về nhận
thức, tâm lý và một số kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình giáo dục, cải
tạo tại nơi giam giữ và kết thúc khi họ được hỗ trợ các yếu tố cần thiết để tạo
lập được một cuộc sống bình thường trong xã hội, do đó có thể phân chia quá
trình tái hòa nhập xã hội theo thành nhiều giai đoạn như sau: giai đoạn thứ
nhất là quá trình chuẩn bị tái hòa nhập của người phạm tội tại các cơ sở cải
tạo, giam giữ. Ở giai đoạn này họ được giáo dục về văn hóa, pháp luật, giáo
dục về đạo đức, tư tưởng cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn
bị cần thiết cho sự thích ứng nhanh chóng của đối tượng với môi trường bên
ngoài cơ sở cải tạo, giam giữ; giai đoạn thứ hai là quá trình hòa nhập vào gia
đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất mà đối tượng phải
hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng đồng. Kết thúc quá trình này là
người thân chấp nhận họ trở lại là một thành viên bình thường của gia đình,
quan tâm đùm bọc họ; giai đoạn thứ ba là quá trình hòa nhập vào cộng đồng
xã hội tại địa phương mà đối tượng trở lại sinh sống, đây là quá trình thích
nghi và điều chỉnh hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy
tắc đạo đức tại địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của đoàn
thể xã hội, của chính quyền địa phương, của những người xung quanh với
những tiến bộ của họ; giai đoạn thứ tư là quá trình khẳng định vị trí của đối
tượng tại cộng đồng, quá trình này thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong
việc xây dựng một cuộc sống lương thiện, từng bước hoàn thiện nhân cách,
nâng cao kiến thức văn hóa và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này

19



những đóng góp của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng
đồng [24, tr. 10]. Công tác tái hòa nhập xã hội là sự kết hợp tổng thể của
nhiều biện pháp tư pháp, tâm lý, tư tưởng, hướng nghiệp, giáo dục văn hóa,
pháp luật v.v…Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là vấn đề phức tạp
đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thông
qua nhiều chính sách và mô hình cụ thể, đóng vai trò hỗ trợ, đảm bảo, tạo
điều kiện nâng cao năng lực thích nghi cho đối tượng và đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Như vậy
từ những phân tích nêu trên, theo tác giả có thể hiểu: Tái hòa nhập xã hội đối
với người phạm tội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý
nghĩa một bản án hình sự; là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau có
nội dung bao gồm các biện pháp, cách thức và chương trình hòa nhập xã hội
được thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người phạm tội trở về với xã hội
trở thành những người có ích sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự
tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng
đồng xã hội; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời
góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm.
1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội, theo đó tại Điều 3 của Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau:
"Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại
giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có
nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt" [29]. Bên cạnh đó
Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích của hình phạt như sau:
"Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [29]. Theo quy

định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền hạn,

20


cơ cấu tổ chức của trại giam thì: Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù, có
nhiệm vụ quyền hạn "tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm
nhân". Trại giam có phân trại, khu giam giữ, nhà giam, các công trình phục vụ
việc quản lý giam giữ, phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục cải tạo
phạm nhân; các công trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại
giam. Tổ chức bộ máy quản lý của trại giam gồm có Giám thị, Phó giám thị,
Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân, viên chức. Giám
thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội
trưởng phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát, đại học an ninh, đại học
luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác theo quy định của Chính phủ.
Quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân là quá trình kiểm soát, tổ chức
và hướng dẫn các loại hình hoạt động và giao tiếp của người phạm tội được
thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch trong những điều kiện cụ thể
của trại giam trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây là một quá trình khó
khăn, phức tạp do những hành vi thói quen xấu, nhất là những người đã bị ảnh
hưởng và chi phối bởi những quan điểm, tư tưởng sai lầm, nhân cách lệch lạc,
suy thoái đến mức trầm trọng. Những người phạm tội đã mang trong họ
những phẩm chất tâm lý tiêu cực như: triết lý sống thấp hèn, thói quen vô đạo
đức, tính hung bạo, nhẫn tâm, tàn ác, tham lam, ích kỉ, cục cằn, thiếu văn hóa,
lối sống tự do, bừa bãi, vô kỉ luật của phạm nhân là khá phổ biến và không thể
ngày một ngày hai có thể thay đổi được. Tuy nhiên, dù nhân cách của người
phạm tội có suy thoái, vô đạo đức đến mức nào thì ở mỗi con người vẫn còn
tính nhân bản, trong sâu thẳm tâm hồn của họ, ít nhiều vẫn còn lương tri, nỗi

niềm trắc ẩn, điều mà có thể khơi dậy được. Trại giam là nơi tiếp nhận người
phạm tội, sau đó tổ chức quản lý giam giữ và giáo dục cải tạo phạm nhân.
Đầu tiên người phạm tội sẽ được phân loại để quản lý, giáo dục, hướng
nghiệp, dạy nghề cho phù hợp với từng loại đối tượng, phạm nhân mới đến

21


trại giam được học chương trình "đầu vào" và sắp ra trại được học chương
trình "đầu ra". Phạm nhân mù chữ được học văn hóa để xóa mù chữ, phạm
nhân là người chưa được thành niên được học để phổ cập tiểu học. Các
chương trình giáo dục công dân cho phạm nhân bao gồm cả giáo dục truyền
thống, pháp luật, đạo đức và kĩ năng sống. Tuy nhiên hiện nay cả Luật Thi
hành án hình sự và quy chế trại giam cũng như các văn bản hướng dẫn chưa
có quy định cụ thể về vấn đề này để áp dụng thống nhất tại các trại giam.
Ngoài ra các trại giam còn tổ chức sản xuất, hướng nghiệp dạy nghề cho
phạm nhân, có rất nhiều người sau khi từ trại giam trở về đã trở thành những
ông chủ lớn. Trại giam thực hiện việc liên kết với các trường dạy nghề, các
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức đào tạo, thi và cấp chứng chỉ
nghề cho phạm nhân. Đây được coi là một trong những nội dung quan trọng
nhất chuẩn bị cho việc tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội. Có rất nhiều
phạm nhân khi vào trại giam không biết lao động, không có nghề nghiệp,
nhưng khi trở về với xã hội họ đã có nghề nghiệp, làm ăn sinh sống, góp phần
giảm bớt tỉ lệ tái phạm. Mặt khác các trại giam thường xuyên thực hiện công
tác tuyên truyền, phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật cho phạm nhân kết
hợp với đẩy mạnh các hoạt động giáo dục bổ trợ như: văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, vui chơi giải trí cho phạm nhân, tạo bầu không khí để phạm
nhân yên tâm học tập, rèn luyện tiến bộ. Các trại giam thường xuyên tổ chức
các sự kiện văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại trại. Trong các hoạt động
đó, phạm nhân khi cởi bỏ bộ đồ kẻ sọc, khoác lên mình những chiếc áo cầu

thủ bóng đá hay trang phục biểu diễn văn nghệ, thi đấu hay biểu diễn hết
mình như bất kỳ đội bóng, đội văn nghệ nào ngoài xã hội. Những hoạt động
đó giúp phạm nhân vơi đi mặc cảm, quyết tâm rèn luyện, phấn đấu để sớm
được trở về đoàn tụ với gia đình.
Cùng với đó các trại giam còn chuẩn bị khâu "đầu ra" cho các phạm
nhân tái hòa nhập xã hội. Với cách thức được thực hiện thống nhất như sau:
Số phạm nhân sắp chấp hành xong hình phạt tù được tập trung giam giữ tại

22


một khu vực riêng trong trại giam, được bố trí với những điều kiện thuận lợi
hơn về sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, thăm gặp thân
nhân. Tổ chức cho những phạm nhân này học tập những kiến thức cần thiết về
pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, học tâm lý để tránh
mặc cảm, tự ti và giáo dục kỹ năng sống, nhất là kỹ năng tìm kiếm việc làm,
kỹ năng phòng tránh, từ chối những tác động tiêu cực của xã hội, cung cấp
thông tin, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương cho phạm
nhân khỏi lạc hậu trước khi trở về. Sau khi tiếp nhận phạm nhân, trại giam
tiến hành quản lý, giam giữ phạm nhân. Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày
15/12/2011 của Chính phủ đã quy định khá rõ về tổ chức quản lý phạm nhân
và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Chế độ ăn,
mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân được thực hiện theo quy
định tại các Điều từ Điều 8 đến Điều 15 Nghị định 117. Bên cạnh đó trại giam
còn có nhiệm vụ "thông báo cho thân nhân của phạm nhân về việc tiếp nhận
phạm nhân và tình hình chấp hành án của người đó". Hai tháng trước khi
phạm nhân hết hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại có văn bản thông báo
kết quả chấp hành hình phạt tù và những thông tin cần thiết khác về phạm
nhân cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi phạm
nhân về sinh sống để quan tâm, giúp đỡ họ tạo lập cuộc sống bình thường,

tránh tái phạm tội. Đúng ngày phạm nhân hết thời hạn chấp hành hình phạt tù,
Giám thị trại giam cấp "Giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù" và
giới thiệu họ về Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, đơn vị nơi họ cư trú
hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc trước khi bị bắt, đồng thời cấp tiền tàu
xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và quần áo thường để họ trở về nơi họ cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc. Những trường hợp người chấp
hành xong hình phạt tù có khó khăn về nơi cư trú, không rõ quê quán, không
còn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận và bản thân họ
cũng không có chỗ ở khác thì trại giam chủ động liên hệ với chính quyền địa
phương, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tiếp nhận họ làm việc, sinh

23


sống. Phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù tại các trại giam, trại tạm
giam phải được tư vấn, trợ giúp về tâm lý nhằm định hướng và nâng cao khả
năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của bản thân khi chấp hành
xong án phạt tù. Các trại giam, trại tạm giam phải bố trí phòng tư vấn có trang
bị những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc tư vấn; bố trí cán bộ có khả
năng thực hiện việc tư vấn cho phạm nhân hoặc có thể mời người có khả năng
tư vấn kết hợp với cán bộ trại tổ chức tư vấn cho phạm nhân. Ngoài ra phạm
nhân còn được định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm kiếm việc
làm khi họ sắp chấp hành xong án phạt tù: Trại giam, trại tạm giam có trách
nhiệm kiểm tra, đánh giá kết quả, năng lực nghề nghiệp từng phạm nhân để có
kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề, định hướng tìm kiếm việc làm cho họ
sau khi chấp hành xong án phạt tù. Sau đó, căn cứ vào khả năng của phạm
nhân, thị trường lao động và điều kiện cụ thể, các trại giam, trại tạm giam tổ
chức bồi dưỡng nâng cao tay nghề và tổ chức dạy những nghề phổ thông, đơn
giản cho người chưa có nghề; phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng tổ
chức dạy nghề, bồi dường nghề cho phạm nhân trước khi họ chấp hành xong

án phạt tù (Điều 8 Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/09/2011 của Chính
phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chấp hành xong án phạt tù). Các phạm nhân được giam giữ ở các khu giam
khác nhau để thuận tiện cho việc quản lý và giam giữ, theo đó: khu giam giữ
đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc
loại tái phạm nguy hiểm; khu giám giữ đối với phạm nhân có mức án tù từ 15
năm trở xuống, phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả chấp
hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm.
Các phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người
nước ngoài; phạm nhân là người có bênh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm;
phạm nhân có dấu hiệu bị tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ
quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế

24


trại giam được chia ra thành các khu giam giữ riêng. Phạm nhân được chia
thành các đội, tổ để lao động, học tập và sinh hoạt.
Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy
định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc
y tế đối với phạm nhân đã quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể về: chế độ ăn
đối với phạm nhân (Điều 8), chế độ ở của phạm nhân (Điều 9), chế độ mặc và
cấp phát tư trang đối với phạm nhân (Điều 10), chế độ ăn, mặc và cấp phát nhu
yếu phẩm đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha,
mẹ trong trại giam (Điều 11), chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân (Điều 12),
chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Điều 13), chế độ đối với phạm nhân
là người chưa thành niên (Điều 14), chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế
đối với phạm nhân là người nước ngoài. Như vậy các chế độ và việc giam giữ
người phạm tội tại trại giam đối với phạm nhân được quy định khá chi tiết và

cụ thể tại nhiều văn bản khác nhau, tuy nhiên cần có một văn bản thống nhất
để thuận tiện cho việc các trại giam áp dụng các quy định này. Bên cạnh việc
các chế độ về ăn, phạm nhân còn được sắp xếp theo các buồng giam tập thể,
chỗ nằm tối thiểu đối với mỗi phạm nhân là 02 mét vuông, có bệ gạch men, ván
sàn hoặc giường. Đối với phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm
tối thiểu là 03 mét vuông, có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường. Phạm nhân ở
trong buồng giam theo thời gian quy định và chỉ được ra khỏi buồng giam theo
nội quy trại giam hoặc khi có lệnh của Giám thị trại giam, trại tam giam, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Trước và sau khi phạm
nhân ra, vào buồng giam, cán bộ, chiến sĩ được giao trách nhiệm phải điểm
danh, kiểm diện. Các cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trại giam và người không có
nhiệm vụ không được vào khu vực giam giữ, không được tiếp xúc với phạm
nhân khi chưa được phép của Giám thị trại giam. Ngoài chế độ ăn, ở các phạm
nhân tại trại giam còn được quan tâm về chế độ mặc, sinh hoạt, y tế và cấp phát
tư trang v.v... Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (Điều 44) và Nghị định số
117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản

25


×