Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở việt nam luận văn ths luật 5 05 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.61 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THU NGA

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT DÂN SỰ

HÀ NỘI, 2004


Mục lục

Mở đầu

Ch-ơng 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân
1.4. Thi hành án dân sự một số n-ớc trên thế giới

Ch-ơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
án dân sự

2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự
2.2. Thực tiễn thi hành án dân sự

Ch-ơng 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu qu


hành án dân sự

3.1. Những giải pháp tr-ớc mắt nhằm tháo gỡ những

v-ớng mắc trong thi hành án dân sự (từ nay đến

3.2. Giải pháp lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thi hàn
(bắt đầu từ năm 2007)
Kết luận

91

Danh mục tài liệu tham khảo

93


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp
hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực
tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân
dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước

ta đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách
nhiệm của các cơ quan thi hành án" [1]. Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác
định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã
đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công
tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được
một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính
phủ là: "Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước,
công tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước
đầu" [35]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn đang
đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập
đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự

1


chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi
của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự đảm bảo
được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là
tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa
có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Tính đến hết năm 2002 trong tổng số
trên 450 ngàn vụ việc phải thi hành, thì có trên 173 ngàn vụ việc không có
điều kiện thi hành, chiếm gần 39% với tổng số tiền lên tới 8.000 tỷ đồng.
Riêng năm 2002 trong số 276.749 việc có điều kiện thi hành thì chỉ có
247.000 việc các Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành được, chiếm
89.23% nhưng số vụ việc thi hành xong hoàn toàn chỉ đạt 160.061 vụ, chiếm
57.83%, chưa kể số vụ việc chưa có điều kiện thi hành.

Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện
nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp
luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các
nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu
kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan
bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ
sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện,
hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự chưa đầy đủ, chậm được
bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không
hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi
hành án dân sự nói riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả
thi hành án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều
mặt: Kinh tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ...
Nhưng trong khuôn khổ luận văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu
những vấn đề liên quan đến pháp luật.

2


Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam" làm luận
văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi
hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành
án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và
thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu
Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì
thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi

hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì
thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư
pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của
Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và
công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác
giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi
hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của
tác giả Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn
thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê
Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"...

Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật
Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên
các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân
sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng

3


đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn
diện, chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực

tiễn cho việc đưa ra các giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác thi hành
án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần
phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
3.2. Nhiệm vụ
-

Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và thi hành án dân sự.

Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về thi hành
án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự.
-

-

Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.

Đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả
thi hành án dân sự.
-

4. Phạm vi nghiên cứu
"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự


Việt Nam" là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú

và phức tạp. Vì vậy, trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập
trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án và thi hành án dân
sự; đánh giá thực trạng thi hành án dân sự và từ đó rút ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án

dân sự trong điều kiện mới của đất nước ta.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

4


-

Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
-

Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp

nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
-

Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về

khái niệm thi hành án và thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của
thi hành án và thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho
hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án.
-


Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án dân sự, tác giả đã

đưa ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật thi hành án dân sự.
-

Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích

những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự và thực tiễn thi
hành án dân sự.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án
Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án
nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án
(nhất là thi hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn

khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và
cách tiếp cận khác nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm
cơ bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi
thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp [27].
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của
quá trình tố tụng. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong
quá trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét
xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai
đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ
duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu
lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện


việc khẳng định xét xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành

án, vai trò và trách nhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể
hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có
sai sót hoặc sai lầm về số liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành
án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời
gian luật định, hay "xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ
quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự

6


này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành
án của cơ quan thi hành án.
Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình
tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán

quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án
chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã
xác định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai
đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn
tố tụng, bởi vì "thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là
quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó
đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi
hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34, tr.21].
Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi
hành án:
Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [39, tr.
8]. Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi
hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo
mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các
cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết
định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức và người có
thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng qua
cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tổ
chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án (nhất là
thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính

7


-


tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan

của Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào
không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó.
Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp [38, tr.
11]. Theo tác giả thì không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói
chung", là hoạt động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần
xem xét đến bản chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp
luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo
đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được thực hiện bởi
nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy
định là hoạt động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng
hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính
chất của việc thi hành án, thì tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của
Trọng tài đều có tính chất tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc
xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên
thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng tư pháp.
Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chínhtư pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hành án không chỉ đơn thuần
là hoạt động mang tính tư pháp, hay là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng, cũng không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa không truyền thống như quan
điểm thứ tư để coi thi hành án là hoạt động tố tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành
án thể hiện cả hai đặc điểm rất rõ đó là tính hành chính và tính tư pháp trong hoạt
động của mình. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính
-

Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa


án. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để

8


tiến hành các hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động
xét xử thì không có hoạt động thi hành án. Là một dạng hoạt động hành chính
nhà nước, thi hành án thể hiện tính chấp hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá
trình thi thành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều
nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định
của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật" [34].
-

Trong quá trình thi hành án, Cơ quan thi hành án tác động tới đối

tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp
dụng các biện pháp buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong
bản án, quyết định của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật.
Qua đó, giáo dục họ và những người xung quanh về ý thức tôn trọng pháp
luật, tôn trọng lợi ích của tập thể và cá nhân, kỷ cương của Nhà nước. Để thực
hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ
chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là những tính chất của hoạt động quản lý.
-

Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết

nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc
trưng (đặc biệt là trong thi hành án hình sự).
Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà
nó còn thể hiện tính hành pháp.

* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động tư pháp
-

Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành.

Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong
việc tổ chức thi hành án các bản án và quyết định phức tạp. Nhưng thực tế đã
chứng minh vai trò của các cơ quan tư pháp là hết sức quan trọng. Trong hoạt
động thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án là Phòng Thi hành án thuộc Sở
Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc phòng Tư pháp..... Ngoài ra còn có sự phối
hợp của các cơ quan, tổ chức khác như Công an, tài chính...

9


-

Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của

các cá nhân như Chấp hành viên, Giám thị viên... những người được Nhà
nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi
hành nhiệm vụ họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ. Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động
nghiệp vụ thi hành án.
-

Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Bao gồm các quy định

của pháp luật (được thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các
bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp

luật (văn bản áp dụng pháp luật).
-

Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các

bản án, quyết định nói trên được thực thi trên thực tế.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi
hành án là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan
Nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định,
nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định
khác của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể
hiểu thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do
cơ quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm
bảo thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định
khác của cơ quan có thẩm quyền.
Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế
nào về "dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để
đưa ra ý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật dân sự năm 1995

10


cho rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản
phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự
trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng
dân sự, về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất

dân sự).
Ý

kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiều

nước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về
nội dung là luật tư (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao động) được
thực hiện theo một thủ tục chung qui định trọng bộ luật tố tụng dân sự [24].

Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật
Việt Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là:
Những bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế; bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; quyết định của Trọng tài nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết
định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu
tiền, tài sản, thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về
hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về
hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương mại
Việt Nam (Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
*

Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã

hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có một
ý

nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua hoạt động


thi hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí
của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá
trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án

11


được thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không được
quan tâm và không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn
bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi
phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho
nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, một bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho thấy sự
thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài
trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền lôi
kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
*

Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và

hoạt động tư pháp khác
Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết
định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi
hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của
công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án
được đảm bảo. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm

qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng
và hiệu quả của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất,
hiện thực khách quan, có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi
hơn những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật,
không phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc
đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều

12


nơi không phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì không đồng tình với
quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn việc thi hành án.
* Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân

Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ
động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ
đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan
và sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách
nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án không chỉ
là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và
mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua công tác thi hành án, ý thức pháp
luật của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng lên.
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ VIỆT NAM

Dưới thời Pháp thuộc, thi hành án dân sự hình thành với tên gọi Thừa
phát lại. Nhưng đến khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công
tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng đã có sự thay đổi căn
bản về chất.

Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án
dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chúng ta có thể chia thành các giai
đoạn sau:
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Là giai đoạn mà tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự chưa được dựa
trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành (Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Giai đoạn này, công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của

13


Tòa án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý nhà nước và hình thức tổ chức thi hành
án dân sự có những thay đổi nhất định qua các thời kỳ: 1945 - 1949, 1950 1980, 1981 - 1989.
* Thời kỳ 1945 - 1949
Sau Cách mạng tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, hệ thống tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc
lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc giữ tạm thời các
luật, lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật
chung thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy "không trái với những
nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa",
chế định Thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày
01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng giám đốc Hộ vụ được thành lập,
trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ quản lý Thừa phát lại. Cũng theo
tinh thần Sắc lệnh 10/10/1945 nói trên, những quy định về thủ tục thi hành án
dân sự tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu hoạt động tư pháp trong những
năm đầu của chính quyền cách mạng [6]. Ngày 20/11/1994, Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh số 13 về tổ chức các
Tòa án và các ngạch thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi
hành án dân sự Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh qui định: Ban tư

pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong
những năm đầu Cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình
thức là: Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án,
nhưng việc thực hiện thi hành án do Thừa phát lại hay Ban tư pháp xã tiến
hành, đều thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bởi sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước. Điều này được thể hiện tại Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1945
của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều thứ nhất của Sắc
lệnh này quy định: "Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh

14


do các phòng Lục sự phát cho các đương sự để thi hành bản án, hoặc mệnh
lệnh của các Tòa án hộ đều có thể thức thi hành, ấn định". "Vậy, Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu
cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý, và Biện lý kiểm sát
việc thi hành án, Cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật
yêu cầu".
Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã qui định cụ thể những
nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án. Thông tư đã xác định trách nhiệm thi hành án của
Thừa phát lại, Ban tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của ủy ban nhân dân cấp
xã và các cơ quan liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án.
* Thời kỳ 1950 - 1980
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" tạo nên sự thay đổi có tính chất bước
ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và thi hành án dân sự nói
riêng. Tại Điều 9 Sắc lệnh qui định: "Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của

biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thường hay bồi
hoàn và các án Hộ mà chính Tòa án huyện và Tòa án trên đã tuyên". Theo quy
định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện
trước đây được thay thế bằng thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Chánh án. Điều này đã làm thay đổi căn bản cơ chế tổ chức, hoạt động thi
hành án dân sự.Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã
trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà
không chờ yêu cầu của người được thi hành án [16], [17], [18], [19].
Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội ban hành Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 1960. Tại Điều 24 của Luật xác định: "Tại các Tòa án nhân dân địa
phương có nhân viên thi hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết

15


định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết
định hình sự". Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án
được xác định rõ trong luật tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/CT về tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên.
Nhà nước không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặt
Chấp hành viên tại các Tòa án nhân dân địa phương để thực hiện chuyên trách
việc thi hành án dân sự. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án,
quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường,
hoàn trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa
án nhân dân đôn đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân
cấp dưới. Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án
Tòa án nhân dân nơi mình công tác. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Chấp
hành viên có quyền định cho đương sự một thời hạn để thi hành án, áp dụng

biện pháp cưỡng chế mà pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận của
Chánh án nơi Chấp hành viên công tác, yêu cầu lực lượng bảo vệ trật tự trị an
giúp sức khi cần thiết, đề nghị Tòa án cấp có thẩm quyền hoãn, tạm đình chỉ
thi hành án. Đồng thời, Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ và
nhanh chóng bản án, quyết định của Tòa án (Điều 4, Điều 5 Quyết định số /
86/ TC ngày 13/10/1972).
Ngoài ra, pháp luật còn quy định trách nhiệm của ủy ban hành chính
xã, phường cùng các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức hỗ trợ thi hành
án.Viện kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân (Điều7 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân).
* Thời kỳ 1981 - 1989

16


Hiến pháp 1980 ra đời đã tạo tiền đề cho sự ra đời các văn bản pháp
luật khác. Trong đó có các Đạo luật về tổ chức của bộ máy nhà nước, nhằm
kiện toàn bộ máy nhà nước, phân tích rõ chức năng của từng loại cơ quan,
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật. Theo qui định tại Điều
16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì việc quản lý Tòa án nhân dân
địa phương về mặt tổ chức được giao cho Bộ Tư pháp. Nghị định số 143
/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã qui
định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt
tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý công tác thi hành án dân sự.
Sau khi thực hiện việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự, ngày
18/7/1982, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký Thông tư liên ngành
số 472 về "quản lý công tác thi hành án trong thời kỳ trước mắt" đã qui định:



địa phương tại các Tòa án cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu

bộ máy của Tòa án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; ở các Tòa
án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự
chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ của
Chấp hành viên vẫn do Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp đảm nhiệm. Cơ
chế thi hành án này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tư pháp
và Tòa án từ Trung ương đến địa phương.
1.3.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 - 30/6/1993
Ngày 28/8/1989 Pháp lệnh thi hành án dân sự ra đời, đặt nền móng
cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên
cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên được ban hành kem theo Nghị định số
68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của các
văn bản nói trên, thì chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước đây việc thi
hành án, ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện).

17


Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên
theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương.
Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự
với sự chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát
triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Điều đó được thể hiện bằng việc
quy định: người phải thi hành án phải có đơn yêu cầu thi hành án thì Tòa án
có thẩm quyền mới tiến hành việc thi hành án (Điều 14 Pháp lệnh); Cơ quan
thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án trong những trường hợp nhất
định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi hợp pháp của tập
thể và công dân như đối với những bản án, quyết định phạt tiền, tịch thu tài

sản và án phí, bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa…
Để hướng dẫn và cụ thể hóa Pháp lệnh 1981, hàng loạt những văn bản
pháp luật đã được ban hành như: Thông tư liên ngành số 06-89/ TTLN ngày
17/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp; Thông tư liên ngành số 07-89/TTLN ngày 10/12/1989 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ... Cùng với sự hoàn
thiện hơn về pháp luật, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng được
củng cố và tăng cường, được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng
và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa
án.
Tuy vậy, sự điều hành chỉ đạo công tác thi hành án vẫn chưa được thay
đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án
trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo trước cấp trên về
kết quả hoạt động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi
hành án đều thuộc thẩm quyền của Chánh án, Chấp hành viên với trách nhiệm
là "người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án" thực ra chỉ là những người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không
có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác,
Chánh án với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét

18


xử lại là người chỉ đạo việc thi hành những phán quyết của Tòa án nên không
khách quan và quá tải về công việc. Đội ngũ cán bộ thi hành án luôn bị xáo
trộn, không được qui hoạch, đào tạo bồi dưỡng thường xuyên. Cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ hoạt động thi hành án hầu như không được trang bị làm
ảnh hưởng đến công tác thi hành án.
1.3.3. Giai đoạn từ 1993 đến nay
Để khắc phục hạn chế nói trên, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX

ngày 06/10/1992 đã thông qua nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành
án từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh thi
hành án dân sự 1993 thay thế Pháp lệnh dân sự năm 1989 đã tạo bước ngoặt
lớn về tổ chức và hoạt động thi hành án, đưa công tác này sang một giai đoạn
mới, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thì kỳ đổi mới. Theo đó, công tác thi
hành án dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của
Chính phủ. Mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự được thiết lập với hai
loại cơ quan: Cơ quan quản lý thi hành án dân sự và Cơ quan thi hành án dân
sự. Địa vị pháp lý của Chấp hành viên, quyền tự định đoạt của đương sự tiếp
tục được khẳng định. Ngoài ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 cũng có
những qui định nhằm xác lập cơ chế phối hợp của các ngành, cấp trong công
tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, do được ban hành trong điều kiện khẩn
trương nhằm kịp thời triển khai thi hành nghị quyết về bàn giao công tác thi
hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ, nên
những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là rất
khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào sự chuyển đổi cơ chế thi hành án, mà không
có sự sửa đổi, bổ sung về mặt trình tự, thủ tục thi hành án. Do đó việc sửa đổi,
bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là nhu cầu cấp bách nhằm
đáp ứng thực tiễn đòi hỏi.
Ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh
thi hành án dân sự năm 2004, với 8 chương, 70 điều. So với Pháp lệnh năm
1993, đã tăng thêm 1 chương, 20 điều. Về mặt nội dung, Pháp lệnh năm 2004

19


đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, có nhiều nội dung đã được phát
triển thêm, có nhiều nội dung hoàn toàn mới được bổ sung cho phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư
pháp và cải cách hành chính hiện nay.

1.4. THI HÀNH ÁN DÂN SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.4.1. Về tổ chức thi hành án dân sự
Tùy theo đặc điểm về truyền thống pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội
từng quốc gia mà tổ chức thi hành án dân sự được pháp luật qui định là một
tổ chức công, bán công hoặc là do tư nhân đảm nhiệm [21].


*


Thi hành án công
mô hình này tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan

thuộc bộ máy nhà nước, các Chấp hành viên và công chức, viên chức hưởng
lương từ Ngân sách Nhà nước. Mô hình tổ chức thi hành án công có thể phân
làm hai loại: Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án và các
cơ quan hành chính tư pháp hoặc cơ quan thuế.
-

Cơ quan thi hành án nằm trong Tòa án

Tổ chức thi hành án ở các nước này là một bộ phận nằm trong cơ cấu
tổ chức của Tòa án, Chấp hành viên là công chức đặt tại Tòa án do Chánh án
hoặc Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dưới
sự giám sát chỉ đạo của Chánh án Tòa án địa phương hoặc thẩm phán thi hành
án. Mặc dù vậy, hoạt động thi hành án được tiến hành theo một thứ tự chặt
chẽ cho Chấp hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật.
Điển hình là Trung Quốc. Tòa án đảm nhiệm việc thi hành án dân sự,
bản án, quyết định dân sự và phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự đã

có hiệu lực pháp luật do Tòa án nhân dân sơ thẩm thi hành. Những bản án,
quyết định mà pháp luật qui định do Tòa án nhân dân thi hành sẽ do Tòa án
nhân dân nơi người phải thi hành án cư trú hoặc nơi có tài sản của người phải

20


thi hành án tiến hành. Công tác thi hành án do Thi hành viên đảm nhiệm. Căn
cứ vào yêu cầu thực tế, Tòa án nhân dân cơ sở, Tòa án nhân dân trung cấp có
thể lập cơ quan thi hành án. Chức trách của cơ quan thi hành án do Tòa án
nhân dân Tối cao quy định.
-

Cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế

Các cơ quan thi hành án loại này được chia làm hai dạng sau:
Một là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành
một hệ thống từ Trung ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của
các cơ quan quản lý hành chính tư pháp.
Ví dụ như Thái Lan: Tổ chức cơ quan thi hành án bao gồm: Ban thư
ký, Ban tài chính, Ban thi hành án dân sự, Ban thực hiện dịch vụ theo chỉ định
các vụ phá sản; Trung tâm nhận giữ tài sản, Ban kết toán thi hành án và nhận
giữ tài sản của các khu vực và tỉnh thành.
Hai là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành
một hệ thống từ Trung ương đến khu vực đặt dưới sự quản lý của Hội đồng
thuế quốc gia.
Ví dụ như ở Thụy Điển, các cơ quan thi hành án thuộc hệ thống các cơ
quan nhà nước. Ở cấp Trung ương có cơ quan thi hành án trực thuộc Bộ tài
chính, ở địa phương tương đương với 10 khu vực hành chính có 10 cơ quan
thi hành án khu vực. Trong mỗi cơ quan thi hành án có Giám đốc, Chấp hành

viên, nhân viên thanh tra với nhân viên hành chính.
* Tổ chức thi hành án bán công
Tổ chức thi hành án bán công là tổ chức thi hành án mà do công chức
thực hiện đối với một số việc thi hành án nhất định như thu thuế, thi hành án
đối với bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt
tiền... vừa cho viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn công việc thi hành án

21


dân sự trên nguyên tắc lấy thu bù đắp chi phí thi hành án. Tương tự như tổ
chức thi hành án công, tổ chức thi hành án bán công cũng có thể nằm trong cơ
cấu tổ chức của Tòa án, hoặc các cơ quan hành chính.
Ví dụ ở Đức: Việc thi hành án dân sự do Tòa án khu vực đảm nhiệm.


Tòa án này có thẩm phán, nhân viên Tòa án, Chấp hành viên và nhân viên

thi hành án. Chấp hành viên chịu sự giám sát trực tiếp của Chánh án Tòa án
cấp khu vực. Tuy là công chức nhưng Chấp hành viên thực hiện công việc của
mình một cách độc lập, có con dấu riêng, được hưởng một khoản lương cố
định. Chấp hành viên không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòng
riêng và được quyền tuyển nhân viên giúp việc. Chấp hành viên được hưởng
lương, được hưởng 15% lệ phí thi hành án các khoản tiền thanh toán chi phí
khác như: đi lại, sao chụp tài liệu.
* Tổ chức thi hành án tư nhân
Là mô hình tổ chức chủ yếu theo quy chế Thừa phát lại. Thừa phát lại
do Nhà nước bổ nhiệm, là người hành nghề theo quy chế tự do, Nhà nước
không trả lương mà hưởng thù lao theo luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện
chức năng công quyền (lập văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện) và chức năng

trợ giúp khác cho người được thi hành án.Thừa phát lại - tổ chức nghề nghiệp,
không phải là cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc thi hành án có sự giám sát
của Tòa án, trực tiếp là thẩm phán thi hành án. Trong quá trình thi hành án,
nếu có các vấn đề tranh chấp phát sinh, thì thẩm phán thi hành án giải quyết.
Thừa phát lại không phải là công chức nhà nước mà là người được Nhà nước
bổ nhiệm để thực hiện sứ mệnh công, nhưng theo qui chế của người hành
nghề tự do, không ăn lương Nhà nước mà tự hạch toán. Điển hình cho mô
hình này là Cộng hòa Pháp.
1.4.2. Thủ tục thi hành án dân sự một số nƣớc trên thế giới
Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thủy, thì thủ tục thi hành
án dân sự của một số nước trên thế giới được thể hiện qua những vấn đề sau:

22


* Về quyền yêu cầu thi hành án
Hầu hết ở các nước đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đương
sự, điều đó được thể hiện bằng việc pháp luật qui định về quyền yêu cầu thi
hành án. Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành, thì người được
thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Cơ
quan thi hành không được từ chối yêu cầu của người được thi hành án nếu
không có lý do đã được pháp luật qui định, cho dù cơ quan thi hành án là một
cơ quan nhà nước hay hoạt động với tính chất là tổ chức Thừa phát lại.
*

Về lệ phí thi hành án

Pháp luật nhiều nước (Pháp, Nhật, Thụy Điển...) đều cho phép cơ
quan thi hành án thu lệ phí thi hành án. Tùy điều kiện của mỗi nước mà mức
lệ phí có khác nhau, nhưng về nguyên tắc mức lệ phí đó thu đủ để chi phí cho

hoạt động thi hành án. Lệ phí thi hành án được tính trên cơ sở mức lệ phí tối
thiểu (người yêu cầu phải nộp khi nộp đơn yêu cầu thi hành án) và lệ phí trên
giá trị tài sản thi hành án (được tính theo phần trăm giá trị tài sản thi hành
được). Ngoài ra, ngân sách nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho hoạt động thi
hành án, chủ yếu là việc chi trả lương cho Chấp hành viên, thẩm phán thi
hành án nếu đó là thiết chế thuộc bộ máy nhà nước (Cộng hòa Liên bang
Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Singapore…).
Các chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án chịu,
trường hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ thì có thể do người
được thi hành án chịu.
*

Việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải

thi hành án


nhiều nước, pháp luật qui định người được thi hành án có nghĩa vụ

cung cấp các thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
cũng như đề nghị biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để cơ quan thi
hành án thực hiện (Thụy Điển, Nhật Bản…). Ở các nước này, việc quản lý thu

23


×