Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của tòa án cấp sơ thẩm 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.53 KB, 98 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN KIM LNG

THU THậP, NGHIÊN CứU Và ĐáNH GIá CHứNG Cứ
TRONG Tố TụNG DÂN Sự CủA TòA áN CấP SƠ THẩM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN KIM LNG

THU THậP, NGHIÊN CứU Và ĐáNH GIá CHứNG Cứ
TRONG Tố TụNG DÂN Sự CủA TòA áN CấP SƠ THẩM

Chuyờn ngnh: Lut dõn s v t tng dõn s
Mó s: 60 38 01 03

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN CễNG BèNH

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Kim Lƣợng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, NGHIÊN
CỨU, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM.................................................. 7
1.1.

KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THU THẬP, NGHIÊN CỨU, ĐÁNH


GIÁ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP
SƠ THẨM................................................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.................................................... 7
1.1.2. Ý nghĩa của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.................................................. 10
1.2.

CƠ SỞ CỦA THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG
CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM.........14

1.2.1. Cơ sở lý luận của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.....................................14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.....................................16
1.3.

KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
VỀ THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM...............18


1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989................................................18
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004................................................21
1.3.3. Giai đoạn từ 2004 đến nay..................................................................23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1...............................................................................25
Chƣơng 2:NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THU THẬP,

NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 26
2.1.

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

26

2.1.1. Điều kiện Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thu thập chứng cứ trong
tố tụng dân sự

26

2.1.2. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm trong tố
tụng dân sự 30
2.2.

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG
CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 45

2.2.1. Nội dung nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự......45
2.2.2. Thủ tục nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự........48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2...............................................................................55
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ THU THẬP,
NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN CẤP
SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ 56

3.1.

THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ
ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

56


3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm 56
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại, vƣớng mắc và nguyên nhân của những
hạn chế, tồn tại, vƣớng mắc trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thu thập, nghiên cứu, đánh
giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm 58
3.2.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU
THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN
CẤP SƠ THẨM

73

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật thu thập, nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm

73

3.2.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật thu thập, nghiên cứu, đánh giá

chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm

80

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3...............................................................................85
KẾT LUẬN....................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

:

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTPTANDTC

:

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

LSĐBSBLTTDS

:

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự

LTCTAND


:

Luật tổ chức Tòa án nhân dân

LTCVKSND

:

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

PLTTGQCTCLĐ

:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

PLTTGQCVADS

:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

TAND


:

Tòa án nhân dân

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

:

Tố tụng dân sự


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng
Bảng 3.1:


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Chứng cứ, theo quy định của Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTS)
là những gì có thật đƣợc đƣơng sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao
nộp cho Tòa án hoặc do tòa án thu thập đƣợc theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối
của đƣơng sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng nhƣ những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Về nguyên tắc, các
đƣơng sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp, Tòa án có trách nhiệm xem xét các tình
tiết của vụ án, căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu của
đƣơng sự. Tuy nhiên khi xét thấy các tài liệu chứng cứ do các đƣơng sự cung
cấp không đủ cơ sở giải quyết hoặc các đƣơng sự không thể cung cấp đƣợc
các chứng cứ cần thiết thì trong các trƣờng hợp quy định Thẩm phán sẽ tiến
hành một số biện pháp để thu thập chứng cứ. Sau khi có các chứng cứ, Tòa án
phải tiến hành nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hoạt động này giúp cho Tòa
án hiểu đƣợc bản chất của vụ việc dân sự và xác định phƣơng hƣớng giải
quyết đúng đắn vụ án dân sự
Các hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án
đƣợc quy định tại các điều từ Điều 85 đến Điều 96 của BLTTS, đồng thời
đƣợc hƣớng dẫn tại Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) hƣớng dẫn
thi hành một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ” của
BLTTDS đã đƣợc sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTS. So với các quy định về thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của
các văn bản pháp luật đƣợc ban hành trƣớc đây thì các văn bản pháp luật này

1


đã quy định về điều kiện, trình tự và cách thức Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ khá rõ ràng và đầy đủ hơn nên đã tạo thuận lợi cho các Tòa án trong

việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên qua nghiên cứu cũng nhƣ khảo sát
thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ của Tòa án cho thấy vẫn bộc lộ nhiều những vƣớng mắc bất cập
nhƣ BLTTS chƣa quy định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giới hạn
ở giai đoạn nào? Ví dụ nhƣ sau khi có quyết định xét xử Tòa án có đƣợc lấy
lời khai, định giá, xem xét thẩm định… không? Biện pháp, cơ chế nào để
nâng cao hiệu quả của biện pháp yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
cho Tòa án vì trên thực tế rất nhiều trƣờng hợp họ không hợp tác, không cung
cấp chứng cứ hoặc gây khó khăn cho Tòa án trong việc thu thập chứng cứ;
Khi thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì những
chứng cứ do thẩm phán đó thu thập trƣớc đó có đƣợc sử dụng để tiếp tục giải
quyết vụ án không? Hay quy định về đánh giá chứng cứ tại Điều 96 BLTTDS
còn mang tính nguyên tắc v.v... Đây chỉ là một số vấn đề bất cập trong vấn đề
thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án nhƣng nó cũng là những
trở ngại lớn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Từ thực tế đó, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án trong thời điểm hiện nay
vẫn rất cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” nghiên
cứu làm luận văn thạc sĩ với mong muốn qua đó sẽ làm rõ đƣợc những vấn đề
liên quan đến hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án
cấp sơ thẩm để góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc
dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, vấn đề hoạt động thu thập, nghiên cứu và chứng

2


cứ của Tòa án nói chung đã đƣợc nhiều học viên, chuyên gia pháp luật và những

ngƣời làm thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu có đề
cập đến vấn đề này đã đƣợc công bố nhƣ luận văn thạc sĩ luật học “Chứng cứ
và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Vũ Trọng
Hiếu bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 1998, Luận văn thạc sĩ luật
học “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt nam” của
tác giả Nguyễn Minh Hằng bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2002;
Luận án tiến sĩ luật học "Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam"
của tác giả Nguyễn Minh Hằng bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm
2007; đề tài "Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự thực trạng và giải pháp", Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện
khoa học xét xử của Toà án nhân dân tối cao năm 2002; bài “Chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh, đăng trên số Đặc san
góp ý Dự thảo BLTTDS Tạp chí Luật học năm 2004; bài “Chế định chứng minh
và chứng cứ trong BLTTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình, đăng trên Tạp chí
Nhà nƣớc và Pháp luật 2/2004; bài “Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương
sự” của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2002; bài
“Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Dƣơng Quốc Thành
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2004; bài “Tập quán nguồn luật hay
nguồn chứng cứ” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân
dân số 9/2004; bài “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được
quy định trong BLTTDS” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng, đăng trên Tạp chí Tòa
án nhân dân số 20/2004; bài “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ
luật tố tụng dân sự - những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện” của tác giả Nguyễn
Văn Cƣờng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2010; bài “Một số bất cập và
vướng mắc của Bộ luật tố tụng dân sự chưa được hướng dẫn thi hành” của tác
giả

3



Trần Văn Trung trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2011; bài “Bàn về điều 92
Bộ luật tố tụng dân sự về định giá tài sản” trên Tạp chí Tòa án nhân dân số
20/2012 .v.v. Những công trình nghiên cứu này đã làm sáng tỏ đƣợc nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc thu thập, nghiên cứu và đánh
giá chứng cứ của Tòa án. Tuy vậy, những công trình nghiên cứu này đƣợc
thực hiện chủ yếu vào thời điểm trƣớc và sau khi BLTTS đƣợc ban hành đến
nay điều kiên kinh tế, xã hội đã có nhiều thay đổi. Do vậy, việc nghiên cứu đề
tài “Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa
án cấp sơ thẩm” trong lúc này là công việc rất có ý nghĩa và có tính thời sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là vấn đề về lý luận, các quy định của
pháp luật TTDS về thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật TTDS về thu thập, nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ của các Tòa án cấp sơ thẩm.
Hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân
sự của Tòa án cấp sơ thẩm là một hoạt động tố tụng dân sự cơ bản và có ý
nghĩa rất lớn. Do vậy, đề tài "Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm" có rất nhiều nội dung khác
nhau. Trong khuôn khổ và điều kiện thời gian nghiên cứu đề tài luận văn thạc
sĩ tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề về lý luận cơ bản, nội dung
các quy định của pháp luật Việt nam hiện hành về thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm và thực tiễn thực hiện chúng tại
các Tòa án trong những năm gần đây.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích là làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự; nội
dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thu

4



thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự đồng thời nhận
diện những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về
thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của các Tòa án cấp sơ thẩm trên cơ
sở đó tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của các Tòa án cấp sơ thẩm.
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên
cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận lý luận cơ bản
về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ; phân tích làm rõ nội dung các
quy định của pháp luật Việt nam hiện hành về thu thập, nghiên cứu và đánh
giá chứng cứ và khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đƣợc hoàn thành trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam
về cải cách tƣ pháp và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống nhƣ phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh… để thực hiện đề tài.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý toàn diện và có hệ
thống về thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm.
Nội dung của luận văn thể hiện các kết quả nghiên cứu sau:
-

Phân tích làm rõ khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của việc pháp luật quy

định thu thập nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm.
-


Phân tích làm rõ nội dung và đánh giá đƣợc các quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.

5


-

Trình bày đƣợc những vấn đề về thực tiễn thu thập, nghiên cứu, đánh

giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập
của quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện.
-

Đề xuất đƣợc một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện các quy định

của pháp luật về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu thập, nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.
Chương 2: Nội dung các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự Việt
nam hiện hành về thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
của Tòa án cấp sơ thẩm.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt nam về thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
của Tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, NGHIÊN CỨU,
ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THU THẬP, NGHIÊN CỨU, ĐÁNH
GIÁ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

1.1.1. Khái niệm thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong
tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
Về nguyên tắc, khi tham gia tố tụng các đƣơng sự phải có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp, do vậy các đƣơng sự phải thu thập các chứng cứ để cung cấp cho Tòa
án, Tòa án có trách nhiệm xem xét các tình tiết của vụ án, căn cứ vào quy định
của pháp luật để giải quyết yêu cầu của đƣơng sự. Tuy nhiên khi xét thấy các
tài liệu chứng cứ do các đƣơng sự cung cấp không đủ cơ sở giải quyết hoặc
các đƣơng sự không thể cung cấp đƣợc các chứng cứ mà có yêu cầu thì theo
quy định của BLTTDS Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Sau khi có các
chứng cứ, thì Tòa án phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ trƣớc khi sử dụng.
-

Trong nghiên cứu khoa học pháp lý nhiều tác giả đã đƣa ra những

khái niệm khác nhau về thu thập chứng cứ nói chung và của Tòa án nói riêng.
Theo tác giả Tƣởng Duy Lƣợng, “Thu thập chứng cứ là một hành vi tố tụng

của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ do
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp, hoặc do chính Tòa án trực
tiếp sử dụng các biện pháp để thu thập” [16, tr.12]. Đề cập ở phạm vi rộng và
khái quát hơn tác giả Nguyễn Minh Hằng cho rằng:

7


Hoạt động thu thập chứng cứ đƣợc hiểu là hoạt động tố tụng
dân sự của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi nhận,
thu giữ và bảo quản chứng cứ bằng các phƣơng pháp, biện pháp
theo một trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định [10,
tr.64].
So sánh hai quan điểm trên thấy rằng các tác giả đều có những điểm
chung về khái niệm thu thập chứng cứ, đó là: Thu thập chứng cứ là hoạt động tố
tụng dân sự của các chủ thể chứng minh; đƣợc tiến hành theo trình tự thủ tục
đƣợc pháp luật tố tụng dân sự quy định. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt
Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà nội thì “Thu thập chứng cứ là việc phát hiện
tìm ra các chứng cứ, tập hợp, đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh
giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự” [2, tr.164]. Khái niệm này đã đề cập
đến đƣợc bản chất của biện pháp thu thập chứng cứ cũng nhƣ mục đích của hoạt
động thu thập chứng cứ nhằm để “nghiên cứu”, “đánh giá và sử dụng” trong hoạt
động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy nhiên khái niệm trên chƣa chƣa
làm nổi bật lên đƣợc vấn đề chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ trong trƣờng
hợp này là Tòa án và tiến hành thu thập chứng cứ qua việc áp dụng một số biện
pháp thu thập chứng cứ trong những trƣờng hợp và điều kiện do pháp luật tố
tụng dân sự quy định, và thông qua việc áp dụng thủ tục, trình tự cũng nhƣ điều
kiện chặt chẽ do pháp luật quy định nhƣ vậy thì các chứng cứ mà Tòa án thu
thập đƣợc mới có giá trị pháp lý và đƣợc sử dụng vào việc giải quyết vụ việc
dân sự. Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện

hành thì ở các Tòa án việc thu thập chứng cứ không phải do bất kỳ ai đảm nhiệm
mà do Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ việc đảm nhiệm. Từ những vấn đề
nêu trên có thể kết luận về khái niệm thu thập chứng cứ nhƣ sau: "Thu thập
chứng cứ của Tòa án là hoạt động của thẩm phán trong việc tiến hành các biện
pháp pháp lý theo quy định của

8


pháp luật nhằm tập hợp các chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đã được
Tòa án thụ lý để xây dựng, hoàn thiện hồ sơ, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự".
-

Nghiên cứu chứng cứ là hoạt động tiếp theo của quá trình cung cấp,

thu thập chứng cứ và nằm trong quá trình chứng minh. Nghiên cứu chứng cứ
là một chuỗi hoạt động của quá trình nhận thức đƣợc chủ thể chứng minh tiến
hành thông qua việc xem xét, tìm hiểu chứng cứ trong hồ sơ vụ việc dân sự
cũng nhƣ tại phiên tòa để chấp nhận hoặc không chấp nhận các tình tiết, sự
kiện đƣợc xem xét, xác định là chứng cứ của vụ việc. Mục đích của hoạt động
nghiên cứu chứng cứ là xác định giá trị chứng minh của chứng cứ để làm tiền
đề cho việc đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc
dân sự. Hoạt động nghiên cứu chứng cứ đƣợc thực hiện trong suốt quá trình
chứng minh, trong từng giai đoạn tố tụng. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật
ngữ “nghiên cứu” đƣợc giải thích là “xem xét, làm cho nắm vững vấn đề
nhận thức, tìm ra cách giải quyết” [37, tr.7]. Tuy nhiên đây chỉ là khái niệm
chung về nghiên cứu. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: “Nghiên cứu chứng cứ là việc Tòa án trực tiếp
thụ cảm, xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ” [2, tr.88]. Có thể thấy rằng

hoạt động nghiên cứu chứng cứ trong tố tụng dân sự có nhiều chủ thể tham
gia, đó là các chủ thể có quyền, nghĩa vụ chứng minh làm rõ sự thật khách
quan của vụ việc dân sự. Trong đó, Tòa án là một chủ thể nghiên cứu chứng
cứ toàn diện nhất và có vai trò quan trọng nhất. Ở Tòa án, việc nghiên cứu
chứng cứ trƣớc phiên tòa do Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ việc
thực hiện, việc nghiên cứu chứng cứ tại phiên tòa do các thành viên của Hội
đồng xét xử thực hiện. Khi nghiên cứu chứng cứ Tòa án phải tiến hành đọc,
quan sát, xem xét và tìm hiểu chứng cứ. Từ đó, có thể kết luận về khái niệm
nghiên cứu chứng cứ nhƣ sau: "Nghiên cứu chứng cứ của Tòa án là việc
thẩm phán, các thành

9


viên của Hội đồng xét xử đọc, quan sát, xem xét, tìm hiểu chứng cứ có trong
hồ sơ vụ việc dân sự và chứng cứ bổ sung tại phiên tòa để xác định mức độ
phản ánh chính xác của chứng cứ về những tình tiết, sự kiện cần phải chứng
minh cũng như những tình tiết, sự kiện cần thiết khác cho việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự".
-

Thuật ngữ “đánh giá” trong Đại từ điển tiếng Việt đƣợc giải thích là

“nhận xét, bình phẩm về giá trị”. Nếu nhƣ nghiên cứu chứng cứ là việc trực
tiếp thụ cảm, xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ nhằm nhìn nhận chứng cứ
để bƣớc đầu xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ, thì đánh giá
chứng cứ là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ và tính hiệu
quả của chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ. Để xác định đƣợc giá trị
chứng minh của chứng cứ thì Tòa án phải đánh giá chứng cứ. Việc đánh giá
chứng cứ đƣợc Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ việc tiến hành trƣớc

phiên tòa và các thành viên của Hội đồng xét xử tiến hành tại phiên tòa. Có
thể nói đánh giá chứng là một quá trình tƣ duy logic, là hoạt động suy luận
dựa trên cơ sở nhận thức và tri thức của ngƣời đánh giá về đối tƣợng đánh
giá. Từ đó, có thể kết luận: "Đánh giá chứng cứ của Tòa án là hoạt động tư
duy logic của Thẩm phán và các thành viên của Hội đồng xét xử tiến hành
trên cơ sở những hiểu biết về những tình tiết, sự kiện đã thu thập được, dựa
trên cơ sở các quy định pháp luật và niềm tin nội tâm để xác định độ tin cậy
và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như tất cả các chứng cứ trong
vụ việc dân sự nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ việc dân sự một cách khách
quan toàn diện".
1.1.2. Ý nghĩa của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong
tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
1.1.2.1. Ý nghĩa của thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm
-

Đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án:

10


Trong thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án thì tỷ lệ
số vụ việc dân sự đƣợc giải quyết dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh
của các đƣơng sự là rất ít, phần lớn các vụ việc dân sự đƣợc giải quyết đều do
Tòa án chủ động, tích cực xác minh thu thập chứng cứ, việc pháp luật TTDS
quy định cho Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm khi thỏa mãn những điều kiện nhất định sẽ
có tác dụng to lớn trong việc xây dựng hồ sơ vụ việc, củng cố các chứng cứ
quan trọng của vụ việc dân sự phải giải quyết, Tòa án sẽ có thêm cơ sở, căn
cứ pháp lý để giải quyết vụ việc, công tác xét xử của Tòa án thông qua đó
đƣợc khách quan chính xác và triệt để hơn.

Đƣơng sự khi tham gia tố tụng dân sự xuất phát từ quyền, lợi ích của
mình vì thế chứng cứ mà các bên đƣơng sự cung cấp sẽ thiên lệch về phía
mình hơn. Tòa án với vị trí là ngƣời đứng ra phân xử vụ việc cần phải có cái
nhìn khách quan, toàn diện về vụ việc cần phải giải quyết, ngoài ra đối với
những vụ việc đặc thù nhƣ chia tài sản là đất đai, nếu Tòa án chỉ căn cứ và lời
khai của đƣơng sự và các giấy tờ cũng nhƣ sơ đồ mà các đƣơng sự cung cấp
để chia thì bản án, quyết định của Tòa án có thể không phù hợp với thực địa
và sẽ không thể thi hành án đƣợc. Chẳng hạn nhƣ trƣờng hợp diện tích đất
trong giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn diện tích
trên thực tế, trên đất có cây lâu năm và tài sản khác mà sơ đồ không thể hiện
đƣợc….
-

Đối với với việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự:

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đƣơng sự bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của mình trƣớc Tòa án thì việc pháp luật quy định các đƣơng sự có
quyền yêu cầu Toà án hỗ trợ thu thập chứng cứ khi đƣơng sự tự mình không
thể thực hiện đƣợc là rất càn thiết. Hiện nay BLTTDS quy định nghĩa vụ
chứng minh thuộc về đƣơng sự là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự. Tuy

11


nhiên BLTTS chƣa quy định tạo ra đƣợc cơ chế để các bên đƣơng sự có thể
làm tốt nghĩa vụ chứng minh của mình, đặc biệt là những khó khăn đƣơng sự
gặp phải trong quá trình thu thập chứng cứ. Điều này ảnh hƣởng trực tiếp đến
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự trƣớc Tòa án. Vì vậy,
sự hỗ trợ của Tòa án đối với các đƣơng sự thu thập chứng cứ trong một số
trƣờng hợp sẽ có tác dụng giúp các đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ chứng

minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
-

Đối với xã hội:

Tòa án là một cơ quan trung tâm trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp có
chức năng xét xử để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm pháp luật
đƣợc thi hành nghiêm chỉnh, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội và tạo ra
môi trƣờng pháp lý lành mạnh cho các quan hệ pháp luật nội dung phát triển.
Việc Tòa án trợ giúp đƣơng sự thu thập chứng cứ thể hiện chức năng xã hội
của nhà nƣớc nhằm duy trì sự ổn định xã hội, thiết lập nên những thiết chế để
xã hội đƣợc vận hành một cách có trật tự.
1.1.2.2. Ý nghĩa của hoạt đông nghiên cứu chứng cứ của Tòa án cấp
sơ thẩm
Là một giai đoạn trong quá trình chứng minh trong tố tụng dân sự, việc
nghiên cứu chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu
chứng cứ Tòa án sẽ hiểu rõ đƣợc bản chất vụ việc dân sự.
Ngay từ khi khởi kiện các đƣơng sự đã thực hiện việc thu thập chứng
cứ để cung cấp cho Tòa án chứng minh bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Tuy nhiên đây là những chứng cứ đƣợc xuất trình riêng rẽ mà chƣa
đặt trong tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ vụ, việc dân sự. Vì vậy sau khi
nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự do đƣơng sự hoặc
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cung cấp Tòa án sẽ phát hiện
đƣợc các chứng cứ, tài liệu cần thu thập thêm để làm rõ các tình tiết, sự kiện
của vụ việc dân sự.
12


Kết quả của việc nghiên cứu chứng cứ giúp Tòa án giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự và xác định đƣợc phƣơng hƣớng giải quyết vụ việc dân sự,

Tòa án có cơ sở xem xét các căn cứ để ra các quyết định khác nhƣ quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ việc, quyết định chuyển vụ án cho Tòa án khác giải
quyết, quyết định hòa giải, quyết định đƣa vụ án ra xét xử… khi Tòa án thấy
đủ căn cứ. Do vậy có thể nhận định rằng nghiên cứu chứng cứ là một hoạt
động cơ bản của việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm.
1.1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm

Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh.
Là một hoạt động nhận thức, đánh giá chứng cứ là giai đoạn phức tạp nhất
trong toàn bộ quá trình chứng minh vụ việc dân sự. Đây không phải chỉ công
việc đƣợc tiến hành trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa mà còn đòi hỏi đƣợc
tiến hành ở toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự.
Đánh giá chứng cứ là một quá trình logic nhằm xác định giá trị chứng
minh và sự phù hợp giữa các chứng cứ, tình tiết, sự kiện đã thu thập đƣợc và
nghiên cứu ở những giai đoạn trƣớc. Thông qua đánh giá chứng cứ, Tòa án có
thể xác định đối tƣợng chứng minh và sắp xếp các giữ liệu theo một trình tự
nhất định, trên cơ sở của những vấn đề đã đƣợc làm rõ Tòa án tìm ra bản chất
vụ việc dân sự, rút ra đƣợc kết luận phù hợp với vụ việc đó. Nhƣ vậy đánh
giá chứng cứ là kết quả của quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu chứng
cứ. Hoạt động thu thập chứng cứ là tiền đề cho việc đánh giá và sử dụng
chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng khép lại quá trình chứng
minh. Trên cơ sở kết quả của đánh giá chứng cứ, Tòa án mới sử dụng chứng
cứ xác định các tình tiết khách quan của vụ việc dân sự, giải quyết vụ việc dân
sự. Vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ có ảnh hƣởng, ý nghĩa quyết định
đối với kết quả giải quyết vụ việc dân sự.

13


1.2. CƠ SỞ CỦA THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

1.2.1. Cơ sở lý luận của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
-

Tố tụng dân sự Việt Nam thể hiện rõ nét tính chất pha trộn giữa tố

tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi nhƣng yếu tố xét hỏi nổi trội hơn. Thẩm
phán đƣợc phân công giải quyết vụ án là ngƣời trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ
án, trên cơ sở hồ sơ này để giải quyết vụ án. Quá trình xác minh thu thập
chứng cứ cũng chính là quá trình xây dựng hồ sơ vụ án dân sự, do vậy hồ sơ
vụ án dân sự là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết vụ án.
Ngoài việc phải đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự khách quan, công bằng
đúng pháp luật Thẩm phán còn phải có trách nhiệm giải quyết đúng thời hạn.
Tòa án là cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá toàn bộ chứng cứ để
giải quyết đúng đắn vụ án, việc đánh giá chứng cứ có đúng đắn khách quan,
toàn diện hay không phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy
đủ, đúng pháp luật hay không. Trách nhiệm của Thẩm phán là phải đảm bảo
trong hồ sơ vụ án có đầy đủ chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.
Do vậy mặc dù ghi nhận nguyên tắc các đƣơng sự có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết vụ án, tuy nhiên để giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án phải xác định xem trong vụ việc dân sự
phải chứng minh làm rõ những vấn đề gì? Các tài liệu, chứng cứ do đƣơng sự
và ngƣời tham gia tố tụng cung cấp có đủ để giải quyết vụ việc dân sự chƣa?
Cần phải thu thập bổ sung những tài liệu chứng cứ nào? Vì vậy mặc dù đề cao
vai trò chứng minh của đƣơng sự nhƣng cần phải nhận thức rằng trong điều
kiện của nƣớc ta hiện nay thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn giữ
vai trò tiền đề quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Thẩm phán là ngƣời trực tiếp thụ lý giải quyết vụ việc dân sự là ngƣời


14


tiếp xúc, nghiên cứu, trực tiếp đánh giá các chứng cứ, tiếp xúc với các đƣơng
sự, nghe các đƣơng sự trình bày yêu cầu cũng nhƣ lý lẽ chứng minh của
mình. Từ đó bằng sự hiểu biết pháp luật và nghiệp vụ của mình Thẩm phán
hiểu rõ những vấn đề khúc mắc cần làm rõ trong vụ việc để yêu cầu đƣơng sự
hoặc tự mình chủ động thu thập chứng cứ, do vậy hiệu quả chứng minh sẽ cao
hơn, tránh tình trạng thu thập chứng cứ tràn lan, không trọng tâm dẫn đến
chứng cứ thu thập không có giá trị chứng minh.
-

Tòa án là cơ quan tƣ pháp thực hiện vai trò là cơ quan bảo vệ công lý,

do vậy hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ giúp Tòa án thực
hiện vai trò bảo vệ công lý của mình.
Trong nhà nƣớc pháp quyền, Tòa án luôn là ngƣời đại diện và ngƣời
thực thi công lý. Vấn đề thực thi công lý của Tòa án gắn liền với việc bảo đảm
quyền tiếp cận công lý của công dân. Tòa án Việt nam ngoài nhiệm vụ xét xử
các vụ án theo quy định của pháp luật thì trong phạm vi chức năng của mình,
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nƣớc, của
tập thể; bảo vệ tính mạng tài sản, danh dự nhân phẩm của công dân. Trong
giải quyết vụ việc dân sự thì đặc thù của TTDS là quyền của bên này thƣờng
tƣơng ứng với nghĩa vụ của bên kia, lợi ích của các bên đƣơng sự thƣờng đối
lập nhau nên sẽ có việc bên nguyên đơn cung cấp chứng cứ gây bất lợi cho bị
đơn và ngƣợc lại. Hành vi này nhiều khi làm sai lệch một vụ án nếu Tòa án
không công tâm, nếu không có các biện pháp thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ chính xác, công tâm. Chính vì vậy cơ sở của việc quy định hoạt

động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là để giúp cho Tòa án giữ vai
trò bảo vệ lễ phải, bảo vệ công lý.
-

Hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của Tòa án xuất

phát từ việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân.

15


Pháp luật TTDS là một phƣơng tiện bảo đảm thực tế cho các quyền và
lợi ích về dân sự của cá nhân, tổ chức. Xuất phát từ bản chất đặc biệt của quá
trình tố tụng nên những quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, trong đó có
các quy định điều chỉnh hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
của Tòa án phải xuất phát từ yêu cầu của hoạt động tố tụng dân sự. Hoạt động
TTDS trong thời kỳ hiện nay phải vừa là phƣơng tiện để ngƣời dân có thể sử
dụng trong việc bảo vệ quyền lợi cho mình, vừa là công cụ hữu hiệu để điều
chỉnh các quan hệ xã hội đã, đang và sẽ phát sinh trong đời sống xã hội. Do
vậy việc xây dựng các quy định về thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
phải gắn với các yêu cầu bảo vệ công lý, bảo đảm các quyền tố tụng của
đƣơng sự.
Việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân luôn gắn với vấn đề
thực thi công lý của Tòa án. Khi có tranh chấp không tự hòa giải đƣợc, ngƣời
dân phải tìm đến Tòa án để phân giải đúng sai, khi có vi phạm thì Tòa án là
nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở công lý. Quá trình yêu cầu Tòa
án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của công dân, quá trình
đó bắt đầu từ nhu cầu đƣợc tiếp cận công lý và kết thúc là phán quyết và thực
hiện phán quyết của Tòa án. Để tiếp cận đƣợc với công lý ngƣời dân phải
đƣợc biết và có khả năng để biết công lý nằm ở đâu? Đến với công lý bằng

con đƣờng nào và với phƣơng tiện gì? Nhƣ vậy những quy định về hoạt động
thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tạo điều kiện để ngƣời dân biết đƣợc
để thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự của mình, tạo điều kiện
cho để Tòa án tìm ra sự thật khách quan, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân
sự công bằng thuyết phục, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng
cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
-

Với đặc thù là một nƣớc có nền kinh tế đang phát triển, mặt bằng

16


kinh tế của ngƣời dân nói chung còn thấp, sự hiểu biết và tiếp cận pháp luật
còn chƣa cao nên mặc dù đề cao vai trò chứng minh của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự, nhƣng vẫn chƣa thể xóa bỏ vai trò của Tòa án trong việc chứng
minh nhƣ pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc. Sở dĩ nhƣ vậy vì nếu
đƣơng sự tự mình thu thập toàn bộ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình thì sẽ gặp khó khăn do bản thân họ hiểu biết pháp luật còn hạn chế ,
không xác định đƣợc chứng cứ nào cần thiết cho vấn đề mình cần chứng
minh, đồng thời nhiều tài liệu chứng cứ do cá nhân cơ quan tổ chức quản lý
nếu để đƣơng sự tự thu thập sẽ có nhiều trở ngại. Trong điều kiện nƣớc ta
hiện nay khả năng tự bảo vệ của các đƣơng sự trong vụ việc dân sự còn rất
yếu, sự hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế, nhất là các đƣơng sự ở khu
vực nông thôn vùng sâu vùng xa nhƣng họ không có khả năng để mời luật sƣ
bảo vệ quyền lợi cho mình. Mặt khác đội ngũ Luật sƣ, trợ giúp viên pháp lý ở
nƣớc ta còn thiếu nhiều và chủ yếu tập trung ở các Thành phố, Thị xã do vậy
phần lớn các đƣơng sự không có khả năng kinh tế sẽ khó tìm đƣợc sự hỗ trợ
về mặt pháp lý trong quá tố tụng cung cấp chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ

quyền lợi của mình. Trong khi đó điều kiện kinh tế xã hội của nƣớc ta chƣa
cho phép chúng ta quy định việc tham gia tố tụng của Luật sƣ là bắt buộc, nên
nếu quy định nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về đƣơng sự sẽ dẫn đến
tình trạng đƣơng sự không có khả năng chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
BLTTDS quy định các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án là rất
cần thiết nó xuất phát từ thực tiễn về điều kiện kinh tế xã hội, trình độ dân trí


nƣớc ta. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sẽ giúp đƣơng sự trong

việc định hƣớng nguồn chứng cứ, thu thập những chứng cứ mà đƣơng sự
không có khả năng thu thập. Căn cứ vào yêu cầu của các đƣơng sự Tòa án ra
các quyết định thu thập chứng cứ để hỗ trợ các đƣơng sự trong việc thực hiện

17


×