Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.4 KB, 113 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN ễNG

THI HàNH án PHạT CảI TạO KHÔNG GIAM GIữ THEO
PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN ễNG

THI HàNH án PHạT CảI TạO KHÔNG GIAM GIữ THEO
PHáP LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Văn Đông


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ........................................................................... 9
1.1.

Khái niệm và các đặc điểm của thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ...................................................................................9


1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ..........................9
1.1.2. Các đặc điểm của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ............13
1.2.

Nội dung thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ theo
pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam........................................15

1.3.

Các nguyên tắc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.........22

1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa...............................................23
1.3.2. Nguyên tắc dân chủ............................................................................24
1.3.3. Nguyên tắc nhân đạo..........................................................................25
1.3.4. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật................................................26
1.3.5. Nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế..........................27
1.3.6. Nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa nghĩa vụ chấp hành bản án,
quyết định của tòa án..........................................................................28
1.3.7. Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm các quyến và tự do cơ bản của
con người và của công dân.................................................................29
1.3.8. Nguyên tắc bảo đảm sự phôi hợp giữa các cơ quan thi hành án
với các cấp chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước khác,
các tổ chức xã hội và mọi công dân trong hoạt động thi hành án......29


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA VÀ CÁC
NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA CÁC VƢỚNG MẮC TRONG
THI HÀNH 32

2.1.

Tổng quát về công tác thi hành án phạt cải tạo không giam
giữ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa....................................................32

2.1.1. Đặc điểm về địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội và hoạt động của các
loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có
liên quan đến thi hành án phạt cải tạo không giam giữ......................32
2.1.2. Thực trạng thi hành án phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa...................................................................................37
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan thi hành án hình sự ở tỉnh
Thanh Hóa..........................................................................................41
2.2.

Một số tồn tại, khó khăn trong công tác thi hành án phạt cải
tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.........................43

2.2.1. Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.......................43
2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa............45
2.2.3. Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và cơ
quan thi hành án hình sự Công an huyện, thị xã, thành phố..............47
2.2.4. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn................................................ 49
2.2.5. Công an cấp xã................................................................................... 52
2.2.6. Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến công tác thi hành án phạt
cải tạo không giam giữ.......................................................................53
2.2.7. Người bị thi hành án phạt cải tạo không giam giữ và gia đình họ.....53
2.3.

Nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn trong thi hành án


phạt cải tạo không giam giữ............................................................55
2.3.1. Một số quy định pháp luật về thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ còn bất cấp, chưa hoàn thiện...............................................55
2.3.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
án phạt cải tạo không giam giữ.......................................................... 61


2.3.3. Công tác cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức thi hành án
phạt cải tạo không giam giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
tình hình

63

2.3.4. Công tác phối hợp và tổ chức thi hành án của một số cấp ủy,
chính quyền, cơ quan chức năng chưa đồng bộ, chặt chẽ 64
2.3.5. Các cơ quan hữu quan chưa phát huy hết trách nhiệm và phối
hợp thực hiện trong công tác thi hành án

66

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
BẢO ĐẢM THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ 68
3.1.

Sự cần thiết phải bảo đảm việc thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ

68


3.1.1. Bảo đảm hiệu quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ bắt
nguồn từ những đòi hỏi của thực tiễn phải khắc phục những tồn
tại trong quá trình thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ

68

3.1.2. Bảo đảm công tác thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ bắt
nguồn từ sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
3.2.

70

Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ

73

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS liên quan đến công
tác thi hành các hình phạt cải tạo không giam giữ 73
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định của Luật Thi hành
án hình sự năm 2010

75

3.2.3. Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các
văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thi hành án hình sự có nội
dung liên quan đến thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ

76


3.2.4. Phát huy vai trò, tính chủ động của các nhà nghiên cứu khoa
học, hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức, đoàn thể, xã
hội trong việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế pháp luật 77


3.3.

Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của pháp luật về
thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ 78

3.3.1. Phát huy năng lực, trách nhiệm của các chủ thể thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ

78

3.3.2. Tiếp tục đổi mới về nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ

86

3.3.3. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ

90

3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm hành vi
vi phạm pháp luật thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ

92


KẾT LUẬN....................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................98


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

THAHS:

Thi hành án hình sự

TTXH:

Trật tự xã hội.


UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
Bảng 2.1.
Bảng 2.2.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà
nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra
thi hành trong thực tế; liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động thi hành án hình sự là khâu cuối cùng và có ý nghĩa quan
trọng trong bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý
mà Tòa án đã nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định; mặt khác, thi hành
án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi
phạm tội chính là biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của tổ chức và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân.
Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020";
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung: coi trọng việc hoàn thiện
chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng
áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại
tội phạm… Xác định rõ trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn và của cơ
quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trong việc thi

1


hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các
bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những
hình thức, thủ tục để giao tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện
một số công việc thi hành án.
Việc tăng cường áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thể hiện rõ
nét nhất chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của
luật hình sự, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không
phải cách ly khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước
trong việc giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong
cộng đồng, góp phần hiệu quả vào công cuộc phòng, chống tội phạm và các vi
phạm pháp luật khác....
Hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật về thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đã được ban hành ở những thời điểm
khác nhau nên còn bất cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được quy định

cụ thể, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên cạnh đó,
qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi
hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ
vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám
sát, nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, UBND các cấp, MTTQ và các
đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị kết án không chấp
hành hoặc chấp hành không nghiêm, có vi phạm chưa được quy định đầy đủ,
kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm; Công tác đào
tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, nâng cao trình độ cho cán bộ thực thi và cơ
sở vật chất cho công tác thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra...
Tất cả những tồn tại và hạn chế nêu trên đã làm giảm hiệu quả của công tác
thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

2


Hiện nay, khoa học tư pháp hình sự trong và ngoài nước đã có một số
công trình khoa học nghiên cứu về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
tuy nhiên chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện về lý luận
trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa về cải tạo không giam giữ.

Việc tăng cường áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, bao gồm cả
cải tạo không giam giữ, thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hóa trách nhiệm
hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, tạo điều kiện cho người
phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly khỏi xã hội; đồng thời
còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc giam giữ người phạm tội,
tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng, góp phần hiệu quả vào
công cuộc phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác....
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn

để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn và lập pháp. Đó chính là tính cấp thiết của đề tài "Thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam (trên
cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do thi hành hình phạt nói chung và thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách hình sự của mỗi quốc
gia, thể hiện được hiệu quả đạt được của cả hệ thống tư pháp, nên trong
những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức
độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về thi hành án hình
sự và hệ thống các hình phạt.
Trước hết, hoạt động thi hành án hình sự được phân tích trong một số
giáo trình và sách tham khảo như: Luật Thi hành án hình sự năm 2010; Tài
liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự, Nxb Lao Động, năm

3


2011, của GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm 2009, của tập thể
tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo: Pháp luật
thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư
pháp, năm 2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS
Nguyễn Mạnh Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo Một số vấn đề về thi hành
án hình sự, Nxb Công an nhân dân, năm 2002, của TS. Trần Quang Tiệp...
Hoặc được đề cập trong một số báo cáo, đề tài, công trình nghiên cứu
khoa học độc lập như: Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, của
Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; Đề tài khoa học Cơ sở lý
luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình

phạt không phải là tù và tử hình, của Đặng Quang Phương năm 1996; Các
căn cứ thi hành án, của Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/1998;
Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay, của
Nguyễn Trọng Hách, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2002; Thi hành án:
Bất cập từ cơ quan pháp luật, của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 7/2003; Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước từ góc nhìn của hoạt động thi hành án hình sự, của Phạm Văn Tỉnh, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; Đề tài khoa học Luận cứ khoa học và
thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới, của Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2003; Thực trạng công tác thi hành
án hình sự và những kiến nghị, của Nguyễn Phong Hòa, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 21/2006; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Về tổ chức, quản lý công tác thi
hành án và báo cáo về kết quả tọa đàm về Mô hình quản lý công tác thi hành
án một số nước trên thế giới của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương
năm 2013; Chuyên đề khoa học Công tác thi hành án hình sự và việc tổ chức,

4


quản lý công tác thi hành án hình sự - thực trạng và phương hướng hoàn
thiện mô hình quản lý của Nguyễn Ngọc Anh năm 2013..v.v...
Vấn đề thi hành hình phạt không cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội,
bao gồm cả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, còn được nhiều văn bản
pháp lý quốc tế quan trọng đề cập đến như: Công ước chống đối xử hoặc hình
phạt tàn bạo, được thông qua bằng Nghị quyết số 39/46 ngày 10/2/1984 của Đại
hội đồng Liên hợp quốc; Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các
biện pháp không giam giữ (các quy tắc Tôkyô, 1990), được thông qua bằng Nghị
quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc...v.v...


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã
có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và thi hành án
hình sự nói chung, hoặc các khía cạnh chuyên sâu về thi hành hình phạt tù, tử
hình, trục xuất, còn riêng đối với thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức hoặc chỉ mới được thể hiện một
phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về hình phạt, thi hành
án hình sự, các quy định của pháp luật có liên quan chứ chưa được triển khai
nghiên cứu độc lập, chuyên sâu, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn ở nhiều
tỉnh, trong đó có tỉnh Thanh Hóa. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không
trùng với bất kì công trình nào đã được nghiên cứu trước đây.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Thanh Hóa)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa
có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và

5


thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, từ đó luận văn đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành hình phạt cải
tạo không giam giữ trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
-


Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận khoa học và quy định của

pháp luật về thi hành án hình sự, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
về: khái niệm, đặc điểm, chủ thể, khách thể, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp, hình thức thi hành.
-

Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam

giữ, trên cơ sở có so sánh, đối chiếu với tình hình thực tiễn thi hành án trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
-

Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó

khăn trong việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa từ năm 2012 đến 2016.
-

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương

hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và
thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam

giữ trong giai đoạn 05 năm từ năm 2012 - 2016).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

6


lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học xã hội nói chung và khoa học
luật học nói riêng như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp
thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu đề tài sử dụng số liệu trong các báo cáo
của các ngành Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Ủy
ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, kết hợp với các thông tin từ các nguồn có uy
tín để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh hoạt động thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa nên sẽ cho ra những kết quả với độ tin cậy cao.
5. Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ luật học về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên cơ sở
thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa
quan trọng, góp phần giải quyết nhiều vấn đề về phương diện lý luận và thực

tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Những đóng góp cơ bản của
luận văn là:
-

Tổng hợp tri thức khoa học về thi hành hình phạt cải tạo không giam

giữ để xây dựng khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, bảo
đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời làm rõ quá trình phát triển, hoàn

7


thiện pháp luật và các đặc điểm, nội dung cơ bản của thi hành hình phạt cải
tạo không giam giữ;
-

Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về thực tiễn thi hành hình

phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; chỉ ra kết quả đạt
được cũng như những tồn tại, hạn chế trong thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ và những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó;
-

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề

xuất phương hướng và giải pháp bảo đảm các quy định về thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán

bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp
luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan thi hành án
hình sự, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan Nhà nước trong quá trình quản
lý, tổ chức thi hành án hình sự đảm bảo khách quan, đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa và những nguyên nhân cơ bản của các vướng mắc
trong thi hành.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành
hình phạt cải tạo không giam giữ.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [41, tr.1599]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện
bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực
hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên

thực tế. Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thi
hành trên thực tế. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chỉ có ý nghĩa
trên thực tế khi các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được
đưa ra thi hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Việc này một
mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của
xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là
Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Bên cạnh đó, thi
hành án hình sự còn nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án để họ không phạm
tội mới và trở thành người có ích cho xã hội, nhằm mục đích phòng ngừa
riêng; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tôi
phạm nói chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân
vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Thi hành án hình sự là giai đoạn
cuối cùng trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật,
trong đó buộc người bị xử phạt tù phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã

9


quyết định. Một bản án, quyết định của Toà án có được thi hành nghiêm chỉnh
hay không là tuỳ thuộc chủ yếu vào giai đoạn này. Nếu người chấp hành án
không tự nguyện chấp hành án hoặc bỏ trốn thì việc kết tội họ chỉ mãi là trên
văn bản, còn nếu họ tự nguyện nghiêm chỉnh chấp hành đã thể hiện trật tự kỷ
cương xã hội và quyền lực Nhà nước được tôn trọng. Do đó, thi hành án hình
sự được hiểu là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật buộc người chấp hành án phải tuân thủ, chấp hành
hình phạt, biện pháp mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ

nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng
mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
do họ gây ra; khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc
công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể
hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, nhiệm vụ của giai
đoạn này là không chỉ trừng trị người có tội mà còn giáo dục, cải tạo họ trở
thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra cũng nhằm tới mục đích giáo dục,
răn đe và phòng ngừa chung chứ không nhằm gây đau đớn, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của người phạm tội. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của
quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt
được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng
trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ
cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.
Quyết định hình phạt của Toà án sẽ chỉ dừng lại ở mức đánh giá, lên án

10


hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mà không có tác dụng giáo dục, răn
đe, phòng ngừa người phạm tội. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có những
quy định cụ thể về thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương nói
chung và Toà án nhân dân tối cao nói riêng cũng đã ban hành một số Thông tư
liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của Bộ luật hình sự, Bộ
luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi hành
nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Hình phạt cải tạo không giam giữ có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm

nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện
được rõ chính sách nhân đạo của Luật Hình sự. Hoạt động thi hành án hình sự
đối với hình phạt cải tạo không giam giữ bên cạnh những đặc điểm chung còn có
những đặc thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại
hình phạt và mục đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi
xã hội, họ được cải tạo, giáo dục, thi hành án trong môi trường sống và hoạt
động với các công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám
sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh
sống. Môi trường không giam giữ sẽ có những đặc thù riêng và mỗi hình phạt cải
tạo không giam giữ lại có thêm những đặc thù riêng.

Hiện nay còn có các quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án
hình sự nói chung, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng. Có
quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [5,
tr.8]. Có người cho rằng, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là một giai
đoạn của quá trình tố tụng và do vậy, được điều chỉnh bằng các quy phạm của
luật tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét
đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì

11


coi thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ như là luật hình sự kéo dài. Việc
xác định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là một giai đoạn tố tụng,
luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan
trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, nói chung và thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ nói riêng, mà xác định bản chất của thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ là một trong những vấn đề quan trọng của thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Bởi lẽ, xác định đúng bản chất thi

hành hình phạt cải tạo không giam giữ có ý nghĩa quan trọng trên nhiều
phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động
phù hợp nhằm bảo đảm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Tố tụng hình sự là việc giải quyết vụ án hình sự. Một vụ án chỉ có thể
được coi là được giải quyết xong khi phán quyết của Tòa án được thi hành
xong trong thực tế. Khi phán quyết của Tòa án là hình phạt cải tạo không
giam giữ thì chỉ khi thi hành xong trên thực tế thì vụ án đó mới được coi là
giải quyết xong. Như vậy, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ phải là
một giai đoạn của tố tụng hình sự. Theo quan điểm này, bản án, quyết định
của Tòa án mới chỉ xác định chân lý sự việc, xác định hành vi có tội hay vô
tội; ai là người phạm tội và cần áp dụng hình phạt gì trên văn bản. Và phán
quyết đó sẽ vô nghĩa và do vậy, vụ án vẫn chưa được giải quyết chừng nào
bản án, quyết định của Tòa án chưa được thực hiện trên thực tế. Ở đây, thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ là “giai đoạn cuối cùng” trong quá
trình tố tụng. Lập luận cho quan điểm: bản chất của thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ là một giai đoạn tố tụng, những người theo quan điểm này
cho rằng, bản án, quyết định của Tòa án, kết quả của giai đoạn xét xử là cơ sở,
là căn cứ để tiến hành hoạt động thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ dường như là sự tiếp tục của giai
đoạn xét xử và chịu sự chi phối của cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án. Quyết

12


định thi hành hình phạt, xóa án là do Chánh án Tòa án nhân dân ra quyết định,
thủ tục ở các khâu quan trọng trong thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
đều do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Việc thi hành các loại hình phạt
đều được tiến hành dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng,
thậm chí được quy định trong luật tố tụng.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi

hành hình phạt cải tạo không giam giữ như sau: Thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật buộc người chấp hành hình phạt cải tạo không giam
giữ phải tuân thủ, chấp hành các hình phạt, biện pháp mà Tòa án đã tuyên án
đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân,
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới, cũng như
phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
1.1.2. Các đặc điểm của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông qua thủ
tục xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết về
chân lý của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp
dụng đối với trường hợp này hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng
kết thúc. Nói cách khác là tố tụng hình sự xác định có hay không có quan hệ
pháp luật hình sư trong trường hợp này. Nếu có quan hệ đó thì quá trình tiếp
theo là thực hiện nội dung của pháp luật hình sự: hình phạt hoặc biện pháp tư
pháp hình sự. Thực hiện nội dung này không thể tuân theo trình tự, thủ tục tố
tụng, vì không có tranh chấp cần xét xử. Ở đây, thực chất là hoạt động quản lý
hành chính - tư pháp hình sự. Bởi lẽ pháp luật thi hành án hình sự có đối
tượng điều chỉnh là “lĩnh vực các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi
hành tất cả các loại án hình sự, trong quá trình

13


giáo dục và cải tạo người bị trách nhiệm hình sự hoặc bị án” [65, tr.143].
Điều này được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ thực chất là hoạt
động mang tính điều hành và chấp hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng
của quản lý hành chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều hành và chấp hành

đế thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất
tư pháp;
Hai là, với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ là các bản án và quyết định của Tòa án,
nhưng quá trình thi hình phạt cải tạo không giam giữ được thực hiện với
những hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là
không thuần túy là luật hình thức, mà ở đây, có thể thấy sự kết hợp giữa luật
nội dung với luật hình thức;
Ba là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành các bản án
không tước tự do để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ
phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án;
giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà
nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người công dân có ích với xã hội.
Phương pháp ở đây là thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành chính;
Bốn là, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, như cải tạo
không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo, được giao cho cơ quan thi hành án dân
sự hay cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục quản
lý hành chính. Như vậy, có thê nói trong quá trình thi hành án hình sự, pháp
luật được áp dụng chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng, mà là các quy định
pháp luật về hành chính - tư pháp;
Năm là, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trước hết là hoạt

14


động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quá
trình xã hội hóa hoạt động thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng
đang được tiến hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm khác biệt so
với hoạt động tố tụng, hoàn toàn mang tính quyền lực tư pháp chặt chẽ.

Tóm lại, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ tuy có quan hệ chặt
chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc
thù, và có mục đích trực tiếp riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng đều
nhằm đạt đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án, thì thi hành án lại nhằm
thực hiện các nội dung trong phán quyết của Tòa án. Mọi hoạt động tố tụng
hình sự đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, còn thi hành án lại được
triển khai bắt đầu từ một phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành. Hơn
nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là
tính tố tụng. Nhưng mặt khác, không thể không thấy mối quan hệ biện chứng
giữa quá trình tố tụng hình sự và thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ: tố
tụng là tiền đề, khởi đầu của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ; ngược
lại, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là thực hiện kết quả tố tụng
trong thực tế. Không có tố tụng thì không có thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ, nhưng không có thi hành án thì tố tụng trở nên vô nghĩa. Từ những
phân tích trên, có thể kết luận: thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là
hoạt động có tính hành chính - tư pháp.
1.2. Nội dung thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp
luâṭthi hành án hinhh̀ sƣ ̣ViêṭNam
Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt của Bộ luật hình sự. Xét về bản chất đây là loại hình phạt cải tạo không
giam giữ, không buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc
cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt là việc buộc một

15


người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức.
Nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm
định kỳ và có thể nộp 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước. Thời hạn

cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi
thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo,
giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội. Việc thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ có đặc điểm cơ bản là không cách ly người bị kết
án khỏi xã hội. Như vậy, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính
trong hệ thống hình phạt, tạo điều kiện cho người bị áp dụng được cải tạo, học
tập trong môi trường xã hội bình thường, khuyến khích họ cải tạo thành người
có ích, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng và xét
thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội.
Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là:
Một bộ phận của thi hành án hình sự, hiện thực hóa một trong
những hình phạt chính nhưng không nghiêm khắc hơn thi hành án
treo và có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ
chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục
pháp luật quy định, kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục,
khuyến khích, tạo điều kiện để người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ tự lao động, học tập, cải tạo trở thành người lương
thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trường cuộc
sống bình thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực
hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi
ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.

16


×