Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật việt nam và pháp luật của một số quốc gia ở đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.79 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG ĐÌNH CÔNG

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG ĐÌNH CÔNG

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Phước Hiệp

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC


Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THỰC THI
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của khái niệm thực thi quyền SHTT..........6

1.1.1. Khái niệm “tài sản trí tuệ”, quyền SHTT.................................................................. 6
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SHTT và quyền SHTT............................6
1.1.1.2. Phân loại quyền SHTT..................................................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm thực thi quyền SHTT.................................................................................. 15
1.1.2.1. Định nghĩa thực thi quyền SHTT................................................................................. 15
1.1.2.2. Nguyên tắc, biện pháp thực thi quyền SHTT chủ yếu......................................... 16
1.2.

Cơ chế thực thi quyền SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp
luật của một số quốc gia ở Đông Nam Á.................................................................. 22

1.2.1. Các quy định về thể chế thực thi quyền SHTT....................................................... 23
1.2.1.1. Thể chế thực thi quyền SHTT ở Việt Nam............................................................... 23
1.2.1.2. Thể chế thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a, Ma-lai –xi-a, Xin-ga-po và
Thái Lan................................................................................................................................. 25
1.2.2. Các quy định về thiết chế thực thi quyền SHTT.................................................... 31
1.2.2.1. Thiết chế thực thi quyền SHTT ở Việt Nam............................................................ 31
1.2.2.2. Thiết chế thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po và
Thái Lan................................................................................................................................. 32

1.2.3. Yếu tố con người trong quá trình thực thi quyền SHTT..................................... 36
1.2.4. Mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành cơ chế thực thi quyền
SHTT...................................................................................................................................... 37

1


1.3.

Cơ chế giải quyết các tranh chấp về SHTT.............................................................. 38

1.3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp về SHTT theo pháp luật Việt Nam....................38
1.3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp về SHTT theo pháp luật In-đô-nê-xi-a, Ma-laixi-a, Xin-ga-po và Thái Lan........................................................................................... 40
1.4.

Vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực thi quyền SHTT trong hoàn thiện pháp .
luật và phát triển kinh tế quốc gia................................................................................ 43

1.4.1. Vị trí của quy định về thực thi quyền SHTT trong hệ thống pháp luật
quốc gia.................................................................................................................................. 43
1.4.2. Ý nghĩa của việc thực thi quyền SHTT trong hoàn thiện pháp luật và phát
triển kinh tế quốc gia........................................................................................................ 44
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM VÀ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG
NAM Á
2.1.

Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.................................... 47

2.1.1. Tổng quan về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.......47

2.1.2. Các nội dung cụ thể của việc thực thi quyền SHTT ở Việt Nam..................... 48
2.1.2.1. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của cơ quan hành chính............48
2.1.2.2. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của tòa án....................................... 52
2.1.2.3. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của hải quan.................................. 53
2.1.2.4. Các hoạt động thực thi quyền SHTT khác............................................................... 56
2.1.3. Những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực thi quyền SHTT ở Việt Nam
57
2.2.

Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a............................ 60

2.2.1. Tổng quan về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a60
2.2.2. Các nội dung cụ thể của việc thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a..............61
2.2.2.1. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của cơ quan hành chính............61
2.2.2.2. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của tòa án....................................... 63
2.2.2.3. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của hải quan.................................. 66
2.2.3. Những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực thi quyền SHTT ở

In-đô-nê-xi-a...................................................................................................................... 67

2


2.3.

Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Ma-lai-xi-a................................ 68

2.3.1. Tổng quan về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Ma-lai-xi-a .. 68
2.3.2. Các nội dung cụ thể của việc thực thi quyền SHTT ở Ma-lai-xi-a..................69
2.3.2.1. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của cơ quan hành chính............69

2.3.2.2. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của tòa án....................................... 71
2.3.2.3. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của hải quan.................................. 73
2.3.3. Những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực thi quyền SHTT ở Ma-lai-xi-a
74

2.4.

Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Xin-ga-po.................................. 75

2.4.1. Tổng quan về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Xin-ga-po......75
2.4.2. Các nội dung cụ thể của việc thực thi quyền SHTT ở Xin-ga-po....................76
2.4.2.1. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của cơ quan hành chính............76
2.4.2.2. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của tòa án....................................... 78
2.4.2.3. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của hải quan.................................. 79
2.4.3. Những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực thi quyền SHTT ở Xin-ga-po
80
2.5.

Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Thái Lan..................................... 81

2.5.1. Tổng quan về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Thái Lan........81
2.5.2. Các nội dung cụ thể của việc thực thi quyền SHTT ở Thái Lan......................82
2.5.2.1. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của cơ quan hành chính............82
5.2.2.2. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của tòa án....................................... 83
5.2.2.3. Thực thi quyền SHTT thông qua hoạt động của hải quan.................................. 84
2.5.3. Những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực thi quyền SHTT ở Thái Lan
86

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM

3.1.

Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT, thực thi quyền
SHTT...................................................................................................................................... 88

3.1.1. Đòi hỏi khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về SHTT và thực thi
quyền SHTT......................................................................................................................... 88
3.1.2. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về SHTT và nâng cao
hiệu quả thực thi quyền SHTT...................................................................................... 91


3


3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền SHTT......................... 92

3.2.1. Xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển và bảo vệ SHTT.......................... 92
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT................................................................... 93
3.2.3. Kiện toàn hệ thống các cơ quan nhà nước về SHTT............................................. 94
3.2.4. Nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT của các cơ quan hành chính.........95
3.2.5. Nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT của cơ quan tòa án........................... 97
3.2.6. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi quyền SHTT...............98
3.2.7. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về SHTT............................................. 98
3.2.8. Hoàn thiện hệ thống thông tin, tăng cường hợp tác, chia sẽ về SHTT với các
tổ chức khu vực và thiết chế quốc tế về SHTT............................................ …...100
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 103


4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

EU

: Liên minh Châu Âu

LHQ

: Liên hiệp quốc

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TAND

: Tòa án nhân dân


TRIPs

: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ

TTDS

: Tố tụng dân sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

WIPO

: Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới

WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sở hữu trí tuệ (SHTT) và thực thi quyền SHTT là một nội dung quan trọng
trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế và khu
vực. Việc nhận thức tác động to lớn của tài sản trí tuệ và những lợi ích do việc có

một cơ chế hiệu quả nhằm bảo hộ quyền SHTT trở thành một hoạt động nổi bật của
các quốc gia và các thiết chế quốc tế về bảo hộ quyền SHTT.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng khẳng định phát
triển khoa học, công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển
nhanh và bền vững… “ Hình thành hệ thống đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động
khoa học và công nghệ. Thực hiện nghiêm túc các quy định về quyền sở hữu trí tuệ,
tập trung phát triển và khai thác tài sản trí tuệ” [9, 135]. Tiếp tục thực hiện các cơ
chế hợp tác song phương và đa phương về chính trị, an ninh, kinh tế; chủ động, tích
cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh.
Trong xu thế chung của thời đại Việt Nam đã ban hành một số các văn bản
quy phạm pháp luật về SHTT nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của lĩnh
vực SHTT cũng như bảo hộ quyền SHTT theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã
cam kết. Các quy định pháp luật Việt Nam về SHTT, thực thi quyền SHTT khá đầy
đủ và tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi quyền SHTT ở
Việt Nam trong thời gian qua chưa đạt được kết quả mong muốn.
Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật
Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia ở Đông Nam Á” làm nội dung
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật quốc tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta, đặc biệt trong một vài năm trở lại đây đã có
một số công trình nghiên cứu về đề tài SHTT và các bài báo khoa học đăng trên tạp

6


chí chuyên ngành luật học như: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam – những
vấn đề lý luận và thực tiễn của PGS. TS Lê Hồng Hạnh và Th.s Đinh Thị Mai
Phương chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia năm 2004 làm rõ các quy định của pháp
luật Việt Nam về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), so sánh các quy
định về quyền tác giả, quyền SHCN trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế,

thực trạng bảo hộ, triển vọng và thách thức của pháp luật SHTT Việt Nam; Đổi mới
và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ của LS. TS Lê Xuân Thảo, NXB Tư Pháp
năm 2005 nghiên cứu về cơ chế bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền SHTT; Thực thi quyền sở hữu trí
tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế những vấn đề lí luận và thực tiễn (sách chuyên
khảo) của PGS. TS Nguyễn Bá Diến, NXB ĐHQG Hà Nội năm 2010 tập trung làm
rõ những vấn đề lí luận, thực tiễn thực thi quyền SHTT ở Việt Nam và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực thi quyền SHTT…và một số các bài
báo khoa học: Thực trạng về pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề về SHTT năm 2005 của PGS.TS Đoàn Năng; Công
ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật đăng trên tạp chí Luật học
năm 2005 của Vũ Thị Phương Lan; Một số ý kiến nhằm đẩy mạnh bảo hộ quyền tác
giả ở Việt Nam trong thời gian tới, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học (25) năm
2009 của TS. Nguyễn Lan Nguyên…
Trong các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước
ta những năm qua (giáo trình tư pháp quốc tế, giáo trình luật SHTT …) cũng mới
chỉ đề cập một cách cơ bản về SHTT với tính chất giới thiệu nội dung các quy định
của pháp luật SHTT. Nhìn chung, trong các công trình khoa học kể trên, vấn đề
SHTT được nghiên cứu một cách cơ bản theo hướng hoặc là khảo cứu những Hiệp
định liên quan đến SHTT hoặc xem xét những khía cạnh riêng biệt của quyền SHTT
và việc bảo hộ quyền SHTT mà chưa gắn quy định của pháp luật với vấn đề thực
tiễn. Mặt khác, hầu hết những công trình nêu trên ra đời khi mà cơ sở pháp lý về
quyền SHTT chưa thực sự hoàn thiện.

7


Nghiên cứu về pháp luật SHTT và thực thi quyền SHTT ở một số quốc gia
Đông Nam Á cũng được đề cập trong một số ấn phẩm khoa học của các tác giả
nước ngoài như: Intellectual property rights and enterprise development: some

policy issues and options in Asean (2004) của Thitapha Wattanapruttipaisan;
Intellectual property law in Southeast Asia: recent legislative and institutional
developments (2006) của Christoph Antons; The status and practices of intellectual
property in Malaysia (2011) của Sanjeetha Sidhu…
Những công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào những khía cạnh cụ
thể của thực thi quyền SHTT…Chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống về pháp luật và thực tiễn thực thi quyền SHTT tại một số quốc gia ở Đông
Nam Á (ASEAN) và Việt Nam.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những nội dung cơ bản về SHTT, quyền SHTT, thực thi
quyền
SHTT theo pháp luật Việt Nam và pháp luật In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po,
Thái Lan;
-

Tìm hiểu thực tiễn của việc thực thi quyền SHTT ở Việt Nam; thực tiễn

thực thi quyền SHTT ở In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan;
-

Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về SHTT và

việc thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-


Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về quyền SHTT; thực thi quyền SHTT

theo pháp luật Việt Nam; pháp luật In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po và Thái
Lan.
-

Phân tích thực trạng thực thi quyền SHTT ở Việt Nam, In-đô-nê-xi-a, Ma-

lai-xi-a, Xin-ga-po và Thái Lan.

8


4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản nhất về quyền SHTT;
thực thi quyền SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam; pháp luật In-đô-nê-xia, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po và Thái Lan. Nghiên cứu thực trạng của việc thực thi
quyền SHTT ở Việt Nam, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po và Thái Lan chủ
yếu từ năm 2005 đến nay và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
tăng cường năng lực thực thi quyền SHTT trên thực tế.
Do giới hạn về dung lượng của luận văn, tác giả không nghiên cứu pháp luật,
thực trạng thực thi quyền SHTT ở các quốc gia còn lại của ASEAN; không nghiên
cứu về quy trình, thủ tục tố tụng theo pháp luật các quốc gia.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
-

Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận Mác – Lênin về nhà nước và

pháp luật; quan điểm của Đảng, nhà nước về phát triển và hội nhập quốc tế. Phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
-


Các phương pháp khác: Phương pháp phân tích, phương pháp logic,

phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương
pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
-

Đề tài là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa

học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên ngành tư pháp
quốc tế.
-

Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho các doanh

nghiệp, cơ quan nhà nước và cá nhân trong việc nhận thức, áp dụng các quy định
của pháp luật về SHTT.

9


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục tham khảo, luận văn gồm 03
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về thực thi quyền sở hữu trí tuệ
theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia ở Đông Nam Á
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và
ở một số quốc gia Đông Nam Á
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở

hữu trí tuệ ở Việt Nam

10


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THỰC THI
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP
LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của khái niệm thực thi quyền SHTT

1.1.1. Khái niệm “tài sản trí tuệ”, quyền SHTT
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm “tài sản trí tuệ” và
quyền SHTT
Từ rất lâu, tài sản trí tuệ đã hiện hữu trong đời sống và có ý nghĩa cũng như
tác động to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người. Tùy theo cách tiếp cận và
ý chí nhà nước mà sự ghi nhận về tài sản trí tuệ có nhiều quan điểm không giống
nhau, thậm chí trái ngược nhau. Về cơ bản, khi tiếp cận khái niệm tài sản trí tuệ có
các quan điểm đáng chú ý sau:
Có quan điểm cho rằng sản phẩm sáng tạo trí tuệ cũng giống như các sản
phẩm lao động khác. Theo đó, người sáng tạo ra các sản phẩm sáng tạo trí tuệ có
quyền tư hữu và được nhà nước bảo hộ. Quan điểm khác lại chỉ ra rằng sản phẩm
sáng tạo trí tuệ thuộc về toàn xã hội và phải phục vụ cho lợi ích cũng như sự phát
triển của con người. Nhà nước không thừa nhận quyền sở hữu đối với dạng sản
phẩm sáng tạo này. Mọi nỗ lực của người sáng tạo ra sản phẩm đó được nhà nước
ghi nhận và xã hội tưởng thưởng. Quan điểm khác lại trung hòa hai quan điểm trên.
Theo cách tiếp cận này nhà nước không thừa nhận quyền sở hữu đối với sản phẩm
sáng tạo trí tuệ nhưng cũng không chính thức phủ nhận quyền đó. Đa số các nước
phát triển đi theo quan điểm thứ nhất. Ngược lại các nước chậm và đang phát triển
không phủ nhận quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ nhưng cũng không công khai

thừa nhận quyền đó, đặc biệt đối với các sản phẩm được tạo ra ở nước ngoài có giá
trị đối với nền kinh tế trong nước [25, 8]. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã
hội, xu hướng tăng tỷ trọng trí tuệ trong các sản phẩm công – nông nghiệp, thương
mại, dịch vụ, sự giao thương và xích lại gần nhau của các nền kinh tế… nhiều quốc

11


gia đã thừa nhận quyền tư hữu đối với sản phẩm sáng tạo trí tuệ và bảo hộ đối với
quyền đó.
Qua quá trình lao động và không ngừng sáng tạo, con người ngày càng tạo ra
các sản phẩm mang hàm lượng chất xám nhiều hơn. Các sản phẩm kết tinh từ trí tuệ
con người được nhà nước thừa nhận sẽ trở thành tài sản trí tuệ. Là một dạng đặc biệt
của tài sản theo cách hiểu thông thường nhưng trong nhiều trường hợp tài sản trí tuệ
lại cho giá trị vô cùng to lớn. Do đó, từ rất sớm, sản phẩm trí tuệ đã được nhà nước
ghi nhận lần đầu tiên một cách có hệ thống trong đạo luật Venice năm 1474 [12, 13].
Đạo luật này cho phép người sở hữu các sản phẩm sáng chế một uy quyền tuyệt đối
dưới hình thức văn bằng bảo hộ độc quyền. Cũng trong khoảng thời gian này sáng
chế đã được cấp cho sản phẩm máy in của Johannes Gutenberg đã đặt những viên
gạch đầu tiên cho sự ra đời của hệ thống bảo hộ quyền SHTT trên toàn thế giới.
Theo xu hướng phát triển của xã hội, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời
thay thế phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã tạo nên cuộc cách mạng trong
công nghiệp. Các sản phẩm mã điện tín của Samuel Morse; thuốc nổ của Alfred
Nobel; điện thoại của Alexander G. Bell; radio của Guglielmo Marconi… và nhiều
sản phẩm trí tuệ khác ra đời đã làm thay đổi diện mạo và cơ cấu kinh tế của các
quốc gia. Song song với điều đó, như một tất yếu đã làm cho hệ thống bảo hộ quyền
SHTT của các quốc gia phát triển. Năm 1883 và năm 1886 thế giới chứng kiến sự ra
đời của hai công ước quốc tế về SHTT lần lượt là Công ước Paris về bảo hộ quyền
SHCN và Công ước Berne về bảo hộ các sản phẩm văn học nghệ thuật. Đây chính
là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của hệ thống các quyền liên

quan đến tài sản trí tuệ.
Vậy tài sản trí tuệ là gì? Thật khó để đưa ra một khái niệm đầy đủ, bao quát
hết được những nội dung của thuật ngữ vì chính khái niệm tài sản trí tuệ - cũng
giống như các sự vật hiện tượng khác – luôn vận động và phát triển không ngừng.
Mặc dù không có khái niệm trực tiếp và chính thống về tài sản trí tuệ nhưng chúng
ta có thể định nghĩa quyền SHTT được hiểu là tập hợp các quyền đối với sản phẩm
trí tuệ là thành quả lao động sáng tạo của con người hay uy tín kinh doanh của các

12


chủ thể được pháp luật quy định bảo hộ. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của
các nước khác trên thế giới không đưa ra định nghĩa trực tiếp thế nào là SHTT mà
chỉ định nghĩa gián tiếp thông qua phân loại SHTT và quyền SHTT [15, 22].
Công ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đưa ra khái niệm
quyền SHTT theo hướng liệt kê các quyền và không giới hạn:
Quyền SHTT bao gồm các quyền liên quan tới: Các tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học; Việc thực hiện biểu diễn nghệ thuật, phát minh, phát thanh, ghi
âm, truyền hình; Các sáng chế trong lĩnh vực đời sống của con người; Các phát
minh khoa học; Kiểu dáng công nghiệp; Nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên
thương mại và chỉ dẫn thương mại; Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và
tất cả các quyền khác bắt nguồn từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp,
khoa học, văn học hay nghệ thuật.
Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT
(TRIPs/WTO) đưa ra 07 nhóm quyền sở hữu được bảo hộ, bao gồm: Quyền tác giả
và quyền liên quan; Tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa; Nhãn hiệu
hàng hóa; Sáng chế; Thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp; Thông tin bí mật;
và Kiểu dáng công nghiệp.
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, tại chương 2 điều 2, điểm 3 định
nghĩa về quyền SHTT bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền đối với

nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình đã được mã hoá, thông tin bí mật (bí mật thương mại), kiểu
dáng công nghiệp và quyền đối với giống thực vật.
Luật SHTT Việt Nam 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) khoản 1, điều 4 định
nghĩa: quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng.

13


Như trên đã chỉ ra SHTT và quyền SHTT có những điểm tương đồng so với
quyền sở hữu thông thường. Bên cạnh đó quyền SHTT có những điểm khác biệt so
với quyền sở hữu thông thường do tính chất đặc biệt của sản phẩm trí tuệ.
Thứ nhất, quyền SHTT là quyền đối với những tài sản trí tuệ có tính sáng
tạo. Những sản phẩm trí tuệ này đều mang trong nó những đặc điểm của tài sản hữu
hình và được pháp luật thừa nhận các quyền cơ bản là quyền chiếm hữu, sử dụng và
quyền định đoạt. Tuy nhiên, tài sản trí tuệ được sáng tạo chủ yếu ở dạng vô hình,
theo đó khó có thể xác định được đặc điểm vật chất của tài sản trí tuệ. Hay nói cách
khác những sản phẩm trí tuệ được bộc lộ ra bên ngoài dưới những hình thức khách
quan nhất định nhưng bản thân nó không phải là vật chất mà sản phẩm của chính sự
sáng tạo của con người [24, 32].
Thứ hai, do tài sản trí tuệ mang thuộc tính “vô hình” nên việc bảo hộ tài sản
này chỉ mang tính tương đối. Sản phẩm trí tuệ và quyền SHTT luôn bị đe dọa xâm
phạm và bị xâm phạm cao hơn các loại tài sản hữu hình khác.
Thứ ba, phần lớn quyền SHTT được pháp luật bảo hộ trong một thời hạn
nhất định. Đối với quyền sở hữu tài sản thì pháp luật bảo hộ vô thời hạn. Khi và chỉ
khi có các căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản thì quyền sở hữu của chủ thể
đối với tài sản đó mới bị chấm dứt. Tùy theo từng đối tượng của quyền SHTT cụ thể
mà pháp luật có quy định về thời hạn bảo hộ khác nhau.

Thứ tư, tài sản trí tuệ mang thuộc tính “ tích lũy”. Một sản phẩm trí tuệ mang
tính sáng tạo cao có thể là ý tưởng để phát triển các ý tưởng mới trong nhiều lĩnh
vực, thậm chí trong cùng một lĩnh vực. Do đó, tài sản trí tuệ vừa là kết quả của quá
trình sáng tạo nhưng nó đồng thời lại là nguyên nhân để tiếp tục một quá trình sáng
tạo mới.
1.1.1.2. Phân loại quyền SHTT
Quyền SHTT được phân thành ba nhóm chính: quyền tác giả và quyền liên
quan; quyền SHCN; quyền đối với giống cây trồng.

14


-

Quyền tác giả và quyền liên quan

Hiệp định TRIPs không quy định cụ thể các nội dung về quyền tác giả và
quyền liên quan mà dẫn chiếu đến công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và
nghệ thuật. Theo đó, đối tượng của quyền tác giả được bảo hộ bao gồm: tác phẩm
văn học và nghệ thuật; văn bản chính thức; sưu tập; tin tức; tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng và kiểu dáng công nghiệp [8, 30].
Điều 2, Công ước Berne quy định các tác phẩm được bảo hộ (liệt kê và
không hạn chế), bao gồm: sản phẩm nguyên gốc bất kỳ trong lĩnh vực văn học, khoa
học và nghệ thuật, không phân biệt hình thức và cách thức thể hiện; tác phẩm dịch,
phóng tác, chuyển thể âm nhạc và các tác phẩm chuyển thể từ các tác phẩm văn học
và nghệ thuật. Mỗi quốc gia thành viên có thể quy định phạm vi bảo hộ đối với các
văn bản chính thức của các văn bản pháp luật, văn bản hành chính, văn bản có tính
chất pháp lý, tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, bài giảng, diễn văn và các tác phẩm nói
khác, các tác phẩm văn hóa dân gian. Cùng với việc dẫn chiếu các quy định của
Công ước Berne, TRIPs đã thêm các đối tượng mới là chương trình máy tính và sưu

tập dữ liệu. Điều 10, TRIPs chương trình máy tính dù trong dạng mã nguồn hay mã
máy phải được bảo hộ như tác phẩm văn học theo Công ước Berne 1971. Sưu tập
dữ liệu hoặc tư liệu khác dù ở dạng đọc được bằng máy hoặc dạng khác mà việc lựa
chọn hoặc sắp xếp nội dung của chúng tạo nên những sáng tạo trí tuệ phải được bảo
hộ với tư cách như vậy. Việc bảo hộ nói trên, mà chính nó không được mở rộng đến
bản thân các dữ liệu hoặc tư liệu không được làm tổn hại tới bất kỳ bản quyền nào
đang tồn tại trong chính dữ liệu hoặc tư liệu đó.
Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hóa.
Tác giả, người thừa kế quyền tác giả có quyền cho phép hoặc cấm người
khác thực hiện các hành vi: Nhập khẩu vào nước mình các bản sao tác phẩm; phân
phối công khai lần đầu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm dưới các hình thức; cho thuê

15


bản gốc hoặc bản sao chương trình máy tính nhằm mục đích thương mại; truyền đạt
tác phẩm tới công chúng.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được tính suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau
khi tác giả qua đời. Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm nghệ thuật ứng dụng thì
thời gian bảo hộ không dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm
được công bố hợp pháp; hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác
phẩm được sáng tạo nếu tác phẩm không được công bố hợp pháp trong vòng 50
năm kể từ ngày tạo ra tác phẩm. Đối với tác phẩm mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm
nhiếp ảnh thời gian bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ thời điểm tác phẩm được sáng
tạo ra. Tác phẩm điện ảnh thời hạn bảo hộ là 50 năm từ khi tác phẩm được công bố
hoặc từ khi tác phẩm được sáng tạo nếu tác phẩm chưa được công bố. Đối với người
biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm phải kéo dài ít nhất là đến hết thời hạn 50 năm
tính từ khi kết thúc năm lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành.

Đối với các chương trình phát thanh, truyền hình của tổ chức phát thanh, truyền
hình thì thời hạn bảo hộ phải kéo dài ít nhất là 20 năm tính từ khi kết thúc năm lịch
mà chương trình phát thanh, truyền hình đó được thực hiện.
-

Quyền SHCN bao gồm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,

thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí
mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
a. Sáng chế: Sáng chế là giải pháp kĩ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy
trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự
nhiên.
Sáng chế được bảo hộ bởi bằng độc quyền sáng chế (patent). Bằng độc quyền
sáng chế được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đạt được các điều kiện:
giải pháp kĩ thuật đó phải có tính mới; có trình độ sáng tạo và phải có khả năng áp
dụng công nghiệp.
Chủ văn bằng sáng chế có quyền: Ngăn cấm người khác chế tạo, sử dụng,
chào bán, bán, nhập khẩu sản phẩm, quy trình đó khi chưa được phép của chủ văn

16


bằng sáng chế. Chủ văn bằng sáng chế có toàn quyền trong việc sang nhượng, thừa
kế, ký kết hợp đồng li – xăng. Thời hạn bảo hộ đối với bằng độc quyền sáng chế
không dưới 20 năm kể từ ngày nộp đơn. Thời hạn bảo hộ cũng có thể được kéo dài
khi cần thiết theo quy định của pháp luật quốc gia.
b. Kiểu dáng công nghiệp: kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những
yếu tố này.
Hiệp định TRIPs yêu cầu: Chủ sở hữu một kiểu dáng công nghiệp đang được

bảo hộ phải có quyền ngăn cấm những người khác sản xuất, bán hoặc nhập khẩu
những sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là bản sao chép hoặc cơ bản là
một bản sao chép của kiểu dáng đang được bảo hộ đó với mục đích thương mại mà
không được sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đó. Thời gian bảo hộ
đối với kiểu dáng công nghiệp ít nhất là 10 năm.
Các quốc gia thành viên được quy định một số ngoại lệ hạn chế đối với bảo
hộ kiểu dáng công nghiệp nhưng với điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn
với việc khai thác bình thường những kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ và
không ảnh hưởng đến các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp
đang được bảo hộ một cách bất hợp lý và lưu ý lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
c. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí): thiết kế bố trí là cấu
trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch
tích hợp bán dẫn. Người thiết kế bố trí nộp đơn cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và thiết kế đó được cấp bằng bảo hộ khi thỏa mãn các điều kiện: thiết kế bố
trí đó phải có tính nguyên gốc và có tính mới thương mại. Hiệp định TRIPs quy
định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu gồm: sao chép, dù bằng
cách thể hiện trong một mạch tích hợp hoặc bằng cách khác, một phần hoặc toàn bộ
thiết kế bố trí (trừ trường hợp hành vi sao chép phần bất kỳ không có tính nguyên
gốc). Nhập khẩu, bán hoặc các cách phân phối khác nhằm mục đích thương mại (trừ
trường hợp tại thời điểm tiếp nhận mạch tích hợp hoặc vật phẩm chứa mạch tích

17


hợp, người thực hiện hành vi đó hoặc người đặt hàng không biết và không thể biết
mạch tích hợp có chứa thiết kế bố trí mạch tích hợp đã bị sao chép bất hợp pháp).
Thời hạn bảo hộ đối với thiết kế bố trí là 10 năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký hoặc
kể từ ngày thiết kế bố trí được khai thác thương mại lần đầu tiên ở bất kỳ nơi nào
trên thế giới. Lưu ý là sau 15 năm kể từ ngày thiết kế bố trí được tạo ra thì việc bảo
hộ này sẽ bị chấm dứt.

d. Nhãn hiệu hàng hóa: nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân
biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau.
Theo TRIPs các quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, bao gồm: Chủ sở
hữu nhãn hiệu hàng hóa có quyền ngăn cản người khác không được sử dụng các dấu
hiệu trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mà mình đã đăng ký trong sản xuất,
kinh doanh, nếu việc sử dụng đó không được phép của chủ sở hữu và có nguy cơ
nhầm lẫn với nhãn hiệu của chủ sở hữu đó. Việc đăng ký ban đầu của một nhãn hiệu
hàng hóa có thời hạn ít nhất là 07 năm và có thể được gia hạn không hạn chế số lần.
Luật pháp quốc gia có thể quy định các điều kiện về cấp li –xăng và chủ sở
hữu nhãn hiệu hàng hóa phải được chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng
hóa cùng với hoặc không cùng với việc chuyển nhượng doanh nghiệp có nhãn hiệu
hàng hóa đó, không được cấp li – xăng không tự nguyện đối với nhãn hiệu hàng
hóa.
đ

Tên thương mại: tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong

hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh và khu vực kinh doanh.

Tên thương mại được bảo hộ khi đáp ứng các điều kiện sau: Tên thương mại
phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác
trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt khi đáp ứng các yêu cầu:
Chứa thành phần tên riêng (trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng);
Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người

18



khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; Không trùng
hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ
dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.
e. Chỉ dẫn địa lý: chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu được sử dụng trên sản phẩm để
chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ
thể.
Các quốc gia thành viên của hiệp định TRIPs phải đưa ra các biện pháp nhằm
ngăn ngừa: Việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu sản
phẩm nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý sản phẩm đó có xuất xứ từ một khu vực địa lý khác
với xuất xứ thực với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của nó. Và bất
kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. TRIPs
cũng bổ sung thêm các quy định bảo hộ bổ sung đối với chỉ dẫn địa lý dùng cho
rượu vang và rượu mạnh tại điều 23 của hiệp định.
g. Bí mật kinh doanh (thông tin bí mật): bí mật kinh doanh là thông tin thu
được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng
trong kinh doanh. Cá nhân, pháp nhân phải được khả năng ngăn chặn để thông tin
thuộc quyền kiểm soát của họ không bị tiết lộ hoặc sử dụng bởi người khác mà
không được sự đồng ý của cá nhân, pháp nhân trái với hoạt động thương mại trung
thực, nếu: thông tin đó không được biết đến một cách rộng rãi trong giới hoặc dễ
dàng tiếp cận được đối với những người thường quan hệ với thông tin đó như một
tổng thể hoặc dưới dạng cấu trúc chính xác và kết hợp của các thành phần của nó.
Và có giá trị thương mại vì nó là bí mật và đã được người có quyền kiểm soát hợp
pháp thực hiện những biện pháp hợp lý theo hoàn cảnh thực tế để giữ bí mật thông
tin đó.
-

Quyền đối với giống cây trồng: Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc

cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các
chu kì nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu

gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần

19


thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di
truyền được.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống
cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng
quyền sở hữu. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật
liệu nhân giống.
1.1.2. Khái niệm thực thi quyền SHTT
1.1.2.1. Định nghĩa thực thi quyền SHTT
Trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ, chính
thức về thực thi quyền SHTT. Thực thi trong Tiếng Anh (enforcement) nghĩa là bắt
tuân theo pháp luật [34, 209]. “Enforcement” có gốc Tiếng Anh là “force” với nghĩa
dùng sức mạnh (quyền lực nhà nước) bắt làm đúng quy định. Thuật ngữ này có
nghĩa buộc mọi người phải tuân theo một luật lệ để làm cho chúng có hiệu lực; là sự
thi hành nghiêm ngặt một luật lệ và được bảo đảm bằng các biện pháp chế tài.
Khái niệm thực thi quyền SHTT gần với khái niệm thực hiện pháp luật về
SHTT và khái niệm thi hành (chấp hành) pháp luật về SHTT nhưng giữa chúng có
những điểm khác nhau.
Thực hiện (implementation) có nghĩa là tự nguyện, tận tâm làm theo đúng
quy định [34, 441]; là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy tắc xử sự
chứa đựng trong các quy phạm pháp luật SHTT trở thành hành vi thực tế hợp pháp
của các chể thể pháp luật.
Thi hành (execution) có nghĩa tự mình phải làm theo lẽ phải [34, 306]; là
việc các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHTT thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
của mình trong những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu bằng hành động tích
cực.

TRIPs sử dụng thuật ngữ enforcement of intellectual property rights với
nghĩa thực thi.

20


Quy định pháp luật và thực tiễn thi hành trên phạm vi quốc tế và các quốc gia
hiện nay vấn đề thực thi quyền SHTT được tiếp cận chủ yếu theo hướng “bảo đảm
các điều kiện để phòng ngừa và ngăn chặn người thứ ba (người không nắm giữ
quyền SHTT) sử dụng, khai thác các đối tượng SHTT” [8, 52].
Cần thấy rằng để đạt được mục đích và hiệu quả của hoạt động thực thi
quyền SHTT thì đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các chủ thể liên quan và
với một phạm vi rộng, bao gồm hoạt động đăng ký, xác lập quyền; hoạt động của
chủ thể hưởng quyền; quản lý nhà nước và hoạt động bảo đảm thực thi quyền SHTT
trên thực tế.
1.1.2.2. Nguyên tắc, biện pháp thực thi quyền SHTT chủ yếu
a. Nguyên tắc thực thi quyền SHTT
* Nguyên tắc hiện đại, khoa học: Một cơ chế thực thi quyền SHTT hiện đại
và khoa học là yêu cầu đặt ra cho mỗi một quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay
kém phát triển. Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống pháp luật quốc gia phải tương thích
và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, nội dung của các điều ước quốc tế về SHTT mà
quốc gia đó ký kết, tham gia. Việc xây dựng, vận hành cơ chế thực thi quyền SHTT
phải có hệ thống, ổn định, đồng bộ nhằm thực thi quyền SHTT hiệu quả.
*

Nguyên tắc hiệu quả: Hệ thống thực thi quyền SHTT được xây dựng hiện

đại, khoa học và đồng thời hệ thống đó phải có các chế tài và biện pháp đủ mạnh,
thích hợp, thủ tục phải thuận tiện và kịp thời nhằm chống lại các hành vi xâm phạm
và có khả năng ngăn ngừa sự xâm phạm quyền trong tương lai [8, 56].

*
Nguyên tắc đúng đắn và công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi hệ
thống thực
thi quyền SHTT phải có các biện pháp đúng đắn và công bằng. Các biện pháp đó
phải được quy định cụ thể và phải được thực hiện trên thực tế và không quá phức
tạp một cách không cần thiết hoặc những yêu cầu vô lý hoặc sự chậm trễ không
được bảo đảm. Các bên tham gia phải được đối xử công bằng, phải được quyền
cung cấp các văn bản có liên quan, các quyết định, căn cứ; phải được tạo điều kiện

21


để được xem xét lại yêu cầu, điều kiện khiếu nại hoặc kháng cáo mà không được
đối xử bất bình đẳng.
*

Nguyên tắc minh bạch và không quá tốn kém: Hệ thống thực thi quyền

SHTT quốc gia phải tạo điều kiện cho các bên liên quan được tiếp cận các cơ quan
có thẩm quyền mà không được có các quy định gây phiền hà, phức tạp hoặc quá tốn
kém. Các luật, quyết định của cơ quan hữu quan về tranh chấp phải được công bố
hoặc phải được tiếp cận một cách công khai, minh bạch.
*

Nguyên tắc cân bằng lợi ích: Nguyên tắc này đòi hỏi việc bảo hộ và thực

thi quyền SHTT phải tạo được sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
quyền và sự hài hòa với lợi ích của xã hội; việc bảo hộ phải có mục đích, bảo hộ có
điều kiện, bảo hộ có chọn lọc và bảo hộ có thời hạn [15, 228]. Việc tuân thủ nguyên
tắc này trong thực tế sẽ thúc đầy sự sáng tạo, tạo ra sự công bằng và thịnh vượng;

ngược lại sẽ tạo nên sức ỳ trong sáng tạo, sự không ổn định và bất bình đẳng xã hội.
b. Các biện pháp chủ yếu thực thi quyền SHTT
Hiệp định TRIPs đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu về các biện pháp chủ yếu và
nghĩa vụ buộc các quốc gia thành viên phải thực hiện nhằm thực thi quyền SHTT
một cách hiệu quả nhất. Nghĩa vụ chính mà các thành viên là đảm bảo các biện pháp
thực thi phải được quy định tương ứng trong hệ thống pháp luật quốc gia nhằm giúp
các chủ sở hữu quyền SHTT có thể khiếu kiện có hiệu quả đối với những người vi
phạm, kể cả ngăn ngừa hành vi có thể tái diễn trong tương lai. Các biện pháp đó cơ
bản bao gồm: các biện pháp tư pháp, biện pháp hành chính và các biện pháp tạm
thời.
* Thực thi quyền SHTT thông qua các biện pháp tư pháp
Việc thực thi quyền SHTT thông qua biện pháp tư pháp được xem xét trước
hết và chủ yếu là hoạt động của tòa án và các cơ quan tư pháp khác theo thủ tục tố
tụng dân sự (TTDS), tố tụng hình sự (TTHS) và tố tụng hành chính.

22


×