Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

khoa luan tot nghiep ve dao duc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.99 KB, 82 trang )

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa................................................................................................................i
Lời cam đoan................................................................................................................ii
Lời cảm ơn...................................................................................................................iii
Mục lục.........................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................4

Chương 1
TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN
1.1 Tầm quan trọng của đạo đức ...............................................................................10
1.1.1. Khái niệm đạo đức ................................................................................10
1.1.2. Vai trò của đạo đức................................................................................11
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về Thanh niên và giáo dục đạo đức
thanh niên....................................................................................................................14
1.2.1 Khái niệm thanh niên.............................................................................14
1.2.2 Vai trò và nhiệm vụ của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.....17
1.2.3. Hồ Chí Minh luôn đứng trên quan điểm toàn diện để đánh giá
về thanh niên..............................................................................................................21
1.2.4. Những nội dung giáo dục đạo đức thanh niên trong tư tưởng
Hồ Chí Minh..............................................................................................................22
1.2.5. Phương châm và phương pháp giáo dục đạo đức thanh niên................30
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN THÀNH PHỐ CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP
HIỆN NAY
2.1 Đặc điểm của Thành phố Cao Lãnh.....................................................................38
1


2.2 Khái quát thực trạng đạo đức thanh niên Thành Phố Cao Lãnh
trong giai đoạn hiện nay.............................................................................................39
2.2.1 Thực trạng đạo đức thanh niên Thành Phố Cao Lãnh............................39
2.2.2 Những kết quả đạt được trong công tác giáo dục thanh niên
Thành Phố Cao Lãnh .................................................................................................46
2.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc giáo dục đạo đức
thanh niên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp ......................................................50
2.3.1. Nguyên nhân đạt được thành tựu..........................................................50
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế...............................................................51
2.4 Những vấn đề đặt ra cho công tác giáo dục đạo đức thanh niên thành phố
Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp hiện nay............................................................................52
2.4.1 Vấn đề đặt ra trong công tác của Đoàn...................................................52
2.4.2 Mặt trái của kinh tế thị trường ...............................................................53
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
THÀNH PHỐ CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.1 Các nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên Thành phố Cao Lãnh
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay..................................................................55
3.1.1 Giáo dục tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho thanh niên .....55
3.1.2 Giáo dục ý thức cộng đồng ,cố kết gia đình – dòng họ, lối xóm............56
3.1.3 Giáo dục tinh thần năng động, thông minh, sáng tạo trong học tập
và lao động cho thanh niên.........................................................................................57
3.1.4 Giáo dục lòng nhân ái khoan dung, ứng xử có văn hóa
với mọi người.............................................................................................................58
3.1.5 Giáo dục thanh niên hành động học tập theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh và theo pháp luật..................................................................................60
3.1.6 Giáo dục cho thanh niên tinh thần vượt khó, ham học hỏi, cầu tiến
trong cuộc sống và trong công việc...........................................................................61
3.1.7 Giáo dục cho thanh niên biết kết hợp tinh thần dân tộc và đoàn kết

quốc tế.........................................................................................................................62
3.2 Một số hình thức giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Cao Lãnh
2
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay...................................................................64
3.2.1 Thông qua hình thức hoạt động xã hội...................................................64
3.2.2 Thông qua các Đoàn thể , khu phố.........................................................65
3.2.3 Thông qua hình thức nêu gương người tốt việc tốt, những tấm gương
điển hình trong học tập và lao động............................................................................66
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức cho thanh niên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
trong giai đoạn hiện nay.............................................................................................67
3.3.1 Làm công tác giáo dục tư tưởng chính trị...............................................67
3.3.2 Kết hợp giáo dục đạo đức truyền thống và những giá trị
đạo đức mới................................................................................................................70
3.3.3 Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên, tổ dân phố..........71
3.3.4 Xây dựng môi trường lành mạnh............................................................75
3.3.5 Gắn giáo dục đạo đức với hoạt động kinh tế, mang lại hiệu quả cao.....76
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................81
PHẦN PHỤ LỤC
3
PHẦN MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất,
nhà văn hóa lớn của dân tộc và thời đại. Người đã để lại những di sản vô giá cho thế
hệ sau, trong đó có một kho tàng riêng về mặt giáo dục, bồi dưỡng thanh niên vì sự
nghiệp độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đặc biệt quan tâm nhiều
đến vấn đề đạo đức và có những cống hiến trong việc phát triển tư tưởng đạo đức
mới, Người coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của

cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, công cuộc xây dựng con người mới và đặc
biệt là giáo dục đạo đức thanh niên, sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã
dành cho thanh niên Việt Nam tình cảm thân thương và sự quan tâm sâu sắc. Người
thường xuyên động viên thế hệ trẻ phải ra sức rèn luyện tinh thần, tu dưỡng đạo đức,
không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà.
Người nhắc nhở Đảng và chính quyền các cấp phải đặc biệt quan tâm đến việc đào
tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Trước khi vĩnh biệt chúng ta, trong “Di chúc”, Người khẳng định và căn dặn “
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần
thiết”[24, tr.13].
Đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu
từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội. Đầy nhiệt
huyết, có sức sống tràn trề và năng lực sáng tạo..., đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi
trẻ. Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là
những người chủ tương lai của nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có
trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp
4
người đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, Hồ Chí Minh khẳng định, thanh
niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc trong công cuộc kháng chiến và
kiến quốc, phải là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,... là người
xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội”[20, tr. 488].
Hiện nay trên con đường thực hiện toàn cầu hóa. Nước ta đã trở thành thành

viên của tổ chức Thương mại thế giới, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu
rộng với nền kinh tế thế giới. Cơ cấu xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi, phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội diễn ra phức tạp. Tình hình trên đã và đang tác động
đến thanh niên về ý thức chính trị, tâm trạng đạo đức lối sống,… Trong quá trình
công nghiệp hóa đất nước, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đang làm cho những tác
động đó càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Một số thanh niên chạy theo lối sống thực
dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xuất hiện một bộ
phận thanh niên tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, coi
đồng tiền là trên hết. Xuất hiện tình trạng thanh niên phạm vào các tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật, suy đồi về đạo đức, nhạt phai lí tưởng, sống giả dối, khoe khoang,
lười biếng, xa xỉ, kiêu căng. Những biểu hiện đó là do thiếu sự quan tâm giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên trước những biến đổi to lớn của đất nước. Vì vậy tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức thanh niên ngày càng trở nên có
ý nghĩa hơn bao giờ hết, từ đó đòi hỏi cần phải nâng cao việc giáo dục đạo đức, lối
sống cho thanh niên hiện nay và đây chính là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của các đoàn thể, nhà trường của cả gia đình và của toàn xã hội. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc giáo dục đạo đức thanh niên nói chung và giáo dục đạo đức thanh
niên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp nói riêng nên chúng tôi chọn đề tài “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức thanh niên- học sinh, sinh
viên trên địa bàn thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”
để nghiên cứu.
II. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên đã được một số tác giả đi
sâu tìm hiểu, nghiên cứu. Nhưng việc tìm hiểu và đánh giá thực trạng đạo đức, từ đó
đề ra các biện pháp, hình thức giáo dục cho thanh niên - học sinh, sinh viên Thành
5
Phố Cao Lãnh là một vấn đề hoàn toàn mới. Để làm rõ vấn đề đó, chủ đề tài đã kế
thừa và phát triển một số nội dung phù hợp với thực tế của Thành Phố Cao Lãnh
trong một số tài liệu và công trình nghiên cứu sau:
Văn Tùng (1999), Tìm hiểu Tư Tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên,

Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách này đề cập đến những nhận thức, tư duy, quan
điểm lý luận, phương pháp, phương châm...cơ bản của Bác Hồ về các vấn đề: nhìn
nhận, đánh giá, dự báo tình hình, vai trò vị trí của thanh niên trong các giai đoạn cách
mạng, các thời kỳ lịch sử. Đường lối, nội dung, phương thức bồi dưỡng, giáo dục,
đào tạo thanh niên trở thành lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng tổ chức Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Chính sách đào tạo bồi dưỡng, phát huy nhân tài và nguồn lực thanh niên qua các
phong trào cách mạng.
Dương Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay, Nhà
xuất bản Thanh Niên. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích sơ lược về những đặc
điểm của thanh niên trong giai đoạn hiện nay qua cách tiếp cận giá trị nhân cách của
thanh niên, từ đó tìm hiểu thực trạng và sự chuyển đổi về định hướng giá trị đạo đức
và đề ra những biện pháp để giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên.
Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, Nhà xuất bản Thanh Niên. Tác giả muốn cung cấp cho bạn
đọc những thông tin chính xác về thực trạng của việc giác ngộ lý tưởng cách mạng
của thế hệ trẻ Việt Nam, thực trạng của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế
hệ trẻ, cùng một số những dự báo và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công
tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới...
GS, TSKH. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn
sách này, tác giả đã phân tích sơ lược những lí luận về lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội và những nhân tố tác động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xác định thực trạng, đề ra những phương hướng, quan điểm, giải pháp xây
dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội.
Trần Quy Nhơn (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong
cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh Niên. Tác giả đã làm rõ được tư tưởng của
Hồ Chí Minh về thanh niên từ cơ sở hình thành đến những quan điểm cơ bản về vai
6
trò thanh niên trong những điều kiện cụ thể của lịch sử dân tộc, quá trình Đảng Cộng

sản Việt Nam vận dụng tư tưởng của Người về vai trò thanh niên trong lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
Những tài liệu và công trình nghiên cứu trên đây là cơ sở để chủ đề tài tham
khảo, kế thừa và phát triển những nội dung phù hợp với mục đích của công trình
nghiên cứu.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức thanh niên và việc
vận dụng những tư tưởng ấy để giáo dục đạo đức thanh niên – học sinh, sinh viên
thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức thanh niên trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
- Tìm hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên – học sinh,
sinh viên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường giáo dục đạo đức cho thanh niên
– học sinh, sinh viên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
- Vấn đề đạo đức của thanh niên – học sinh, sinh viên Thành phố Cao Lãnh
2. Phạm vi nghiên cứu
- Thanh niên- học sinh, sinh viên Thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp hiện
nay
V. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
1. Cơ sở lí luận của đề tài
- Là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giáo dục đạo đức
cho thanh niên
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức thanh niên
- Nội dung giáo dục đạo đức của Trung Ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ

Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam.
7
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
- Là kết quả tìm hiểu, điều tra về các khía cạnh liên quan tới đạo đức của thanh
niên – học sinh, sinh viên Thành phố Cao Lãnh.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời còn sử dụng kết
hợp một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp logic- lịch sử…..
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác
VI. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
- Xác định thực trạng đạo đức và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức
thanh niên, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng của
việc giáo dục đạo đức thanh niên nói chung và thanh niên – học sinh, sinh viên thành
phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp nói riêng trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay.
- Trên cơ sở một số giải pháp đề xuất có thể được các cấp, các cơ quan ban
ngành đoàn thể, các tổ chức Đoàn thanh niên sử dụng nhằm phát huy những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, khắc phục những hạn chế về đạo đức ở một bộ phận thanh niên
– học sinh, sinh viên thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay
- Đề tài thực hiện thành công sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn đoàn
viên thanh niên và những ai muốn quan tâm tìm hiểu.
VII. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài được chia làm ba chương:

Chương 1: Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức và tầm quan trọng
của giáo dục đạo đức thanh niên
Chương 2: Thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp hiện nay
8
Chương 3: Một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố
Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp hiện nay
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
9
TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN
1.1 Tầm quan trọng của đạo đức trong đời sống của con người và xã hội
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Trong lịch sử đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức, nhưng với
khuynh hướng tư tưởng chủ đạo thì đạo đức luôn được xem xét trong mối quan hệ
chặt chẽ với đời sống xã hội, là những quy tắc, chuẩn mực chung được dùng để điều
chỉnh các mối quan hệ. Cùng với sự phát triển của xã hội, đạo đức cũng không ngừng
vận động và phát triển. Ban đầu, nó chỉ là những chuẩn mực có tác dụng tối thiểu
dùng để ngăn cấm mỗi thành viên không được vi phạm, tiếp đến giai đoạn phát triển
cao hơn, những chuẩn mực đạo đức mới được bổ sung có thêm tác dụng khuyến
khích con người tích cực phấn đấu, tự giác hành động vì cái thiện để mang lại lợi ích
cho cộng đồng, nhân đạo hóa đời sống xã hội.
Đạo là đường đi, hướng đi, lẽ phải trong lối sống, làm việc hay ăn ở của con
người. Còn đức là những biểu hiện tốt đẹp trong tính cách, hành xử của con người với
nhau. Đạo đức: Là những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan hệ trong gia
đình, cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi. Đạo đức quy định hành vi, quan
hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội nói chung, là những nguyên lý
(nguyên tắc) phải tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã

hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ chính trị và kinh tế xã hội nhất định.
Từ góc độ triết học, đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội được tạo
nên bởi “tổng số các nguyên tắc, các chuẩn mực mà con người phải tuân theo trong
hành vi của mình” hoặc “đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người
trong mối quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”[2, tr.8].
Như vậy, đạo đức là sản phẩm của hoạt động xã hội của con người. Trong hoạt
động đó, con người là chủ thể của hoạt động có ý thức, nên tư tưởng và hành vi đạo
đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vậy, với quan niệm chung nhất của
nó, đạo đức cần được nhận thức là một hiện tượng xã hội thuộc lĩnh vực đời sống xã
hội để điều chỉnh hành vi ứng xử của con người (giữa người với người, giữa cá nhân
với cộng đồng, giữa con người với tự nhiên…) được thực hiện bởi sức mạnh của
10
phong tục, tập quán, dư luận xã hội và lương tâm của mỗi người cho phù hợp với lợi
ích xã hội, hạnh phúc của con người và tiến bộ của toàn nhân loại [2, tr.11-12].
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội:
Những quan niệm về đạo đức xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người
và thường được trộn lẫn với tư tưởng triết học của các triết gia đương thời chính vì
vậy mà các nhà triết gia lúc bấy giờ chưa có cái nhìn nhận đúng về đạo đức. Ở
phương Đông mà cụ thể là triết học phương Đông cổ đại thì Đạo là năm mối quan hệ
cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ: Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè
gọi chung lại là Ngũ thường. Trong đó ba mối quan hệ quan trọng nhất theo thứ tự sẽ
là vua – tôi, cha – con, vợ - chồng. Được gọi là Tam cương. Còn “Đức” theo khổng
Tử là trí, nhân, dũng. Ở phương Tây, thuật ngữ đạo đức xuất phát từ phạm trù “luân
lí”. Thoạt đầu phạm trù “luân lí” bao quát toàn bộ các nguyên tắc hoạt động và ứng
xử của con người trong cộng đồng. Đạo đức gắn liền với thói quen, tập quán sống nên
ý nghĩa của nó thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát triển của nhân loại.
Là người kế tục một cách xuất sắc những tư tưởng về đạo đức của Mác,
Ănghhen, Lênin, đồng thời Hồ Chí Minh còn tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa

đạo đức nhân loại chứa đựng trong các học thuyết của Nho giáo, Phật giáo,Thiên
chúa giáo. Đó là điều nhân,và đạo tu nhân của Nho giáo, là tư tưởng từ bi, cứu khổ,
cứu nạn của Phật giáo, là tư tưởng bác ái của đức chúa Giêsu. Những giá trị truyền
thống của dân tộc như nhân đức, thủy chung, sống có tình có nghĩa… Cũng được Hồ
Chí Minh tiếp thu một cách xuất sắc. Chính hoạt động thực tiễn càng củng cố và làm
vững chắc hơn cơ sở lý luận ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây
dựng nền đạo đức mới – đạo đức cách mạng Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời
mình cho dân tộc, cho nhân dân và cho toàn nhân loại. Người đã trở thành một tấm
gương đạo đức mẫu mực, trọn vẹn và trong sáng tuyệt vời. Người đã reo lên sung
sướng khi bắt gặp luận cương của Lênin và lệ người đã rơi trên chữ của Lênin Người
hạnh phúc khi đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc đưa dân tộc thoát khỏi
kiếp nô lệ. Sinh thời, Người chỉ có một mơ ước: “tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh luôn đưa nội
dung giáo dục đạo đức lên hàng đầu và coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng “cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn, cây
11
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng,
không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo nhân dân”.
Bởi vì theo Hồ Chí Minh cuộc cách mạng của nhân dân ta tiến hành “là công việc to
tát nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ”. Cho nên không có đạo đức cách mạng thì
không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng to lớn. Người nói: “Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì bỏ đi”.
Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con người,
đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân
và cộng đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về
những vấn đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt
động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát
triển của chính mình và cộng đồng.
Trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy cho cùng nhân tố kinh

tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái “chủ yếu” này thành cái
“duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ
của xã hội, sự phát triển của xã hội không thể thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội
loài người có giai cấp, có áp bức, có bất công, chiến đấu cho cái thiện đẩy lùi cái ác
đã trở thành ước mơ, khát vọng, đã trở thành chất men, thành động lực kích thích, cổ
vũ nhân loại vượt lên, tiến lên. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động
lực để phát triển xã hội.
Ngày nay để xây dựng xã hội mới, chúng ta đang cần có những con người
mới. Những con người phát triển toàn diện cả đức và tài. Tuy nhiên, cần chú ý trong
quan hệ giữa đức và tài hôm nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý, nhắc nhở
chúng ta phải coi trọng cả tài và đức nhưng phải lấy đức là gốc. Bởi lẽ tài năng chỉ có
thể phát triển lâu bền trên nền của đức và tài năng chỉ có thể hướng thiện trên gốc của
đức.
Giả như con người không có nền đạo đức nào làm chuẩn mực để hướng dẫn
những hành vi của mình thì con người cũng giống như bao nhiêu sinh vật khác vậy,
không hơn không kém. Con người khác với con vật là ở chỗ, con người có tình yêu
thương được thể hiện trong quan hệ giữa người với người. Những tiêu chuẩn hướng
dẫn hành vi giúp con người sống đúng với hữu thể có lý trí và linh hồn. Một xã hội
mà trong đó con người không tôn trọng nhau, nghĩa là không được xây dựng trên
12
những giá trị đạo đức thì xã hội ấy không còn là xã hội đúng như tên gọi của nó nữa.
Một xã hội trong đó mọi người tôn trọng nhau, cư xử với nhau có trên có dưới thì xã
hội đó mới thực là xã hội của con người.
“Đạo đức là cốt ở sống hợp với bản tính của con người. Các triết gia không
đồng ý với nhau, khi cần phải định bản tính của con người là gì, điều này tùy thuộc
vào quan niệm siêu hình của từng môn phái, nhưng tất cả đều đồng ý mà quả quyết
rằng đời sống đạo đức là cốt ở sự thực hiện cứu cánh của con người đúng theo chân
bản tính của nó. Như thế đạo đức không phải là gò ép con người và làm cho nó suy
giảm, trái lại đạo đức là làm nảy nở tất cả những gì có giá trị nơi con người. Vậy đạo
đức rất là quan trọng, không có đạo đức, người ta có thể làm một kỹ sư hay một

thương gia tài giỏi, nhưng không có đạo đức thì không thể trở nên một con người
hoàn hảo và không thể phát triển tất cả những gì cao quý tốt đẹp của bản thân chúng
ta ”[4, tr.19].
Có thời kỳ lịch sử vai trò của đạo đức rất mạnh, nó có thể vượt lên trên cả
pháp luật, tiền bạc. Thậm chí con người có thể chết nhưng không để mất danh dự,
mất phẩm chất. Trước đây, thời thủ công con người lao động chủ yếu bằng chân tay
với công cụ thô sơ, đơn giản. Cộng đồng người quây quần theo thôn xóm, làng xã.
Cuộc sống như vậy đã tạo ra một môi trường giao tiếp rất thuận lợi: gần gũi và trực
tiếp. Câu nói: tối lửa tắt đèn có nhau cũng thể hiện rất rõ quan hệ gần gũi, thân thiết
đó. Người ta lo giúp nhau trong cưới xin, ma chay, xây nhà dựng cửa. Như vậy thử
hỏi có câu chuyện vui buồn nào của một thành viên mà làng quê không biết, để mà
chia sẻ, để mà khen chê. Bấy giờ nhu cầu vui chơi giải trí công cộng chưa cao, những
cuộc cúng lễ hội hè nơi làng quê thì cũng là giữa những người quen biết. Môi trường
cuộc sống như vậy đạo đức có thể phát huy cao giá trị và tác dụng của mình. Mỗi
thành viên phải luôn tự điều chỉnh hành vi của mình mới mong tồn tại, mới mong hoà
nhập được với cộng đồng vững chắc đó.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nhiều chiến sĩ cách mạng cho dù
không còn liên lạc được với tổ chức, với cấp trên, cho dù bị tra tấn, tù đày nhưng họ
vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, bảo vệ sự trong sáng của mình. Đó là đạo đức. Có
tình cảm nào gắn bó tha thiết hơn tình mẫu tử, nhưng người mẹ vẫn tiễn con ra chiến
trường, vào chỗ sinh tử. Đó là đạo đức. Trong chiến tranh nhiều người phụ nữ còn ra
chiến trường để bảo vệ đất nước. Đó là đạo đức. Như vậy có thể thấy được rằng đạo
13
đức có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người và xã hội, những tư tưởng cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam
hợp lại thành cơ sở lí luận khoa học vững chắc để hướng dẫn hoạt động nhận thức và
thực hành đạo đức mới cho mỗi người. Những quan điểm đó cũng chính là những
định hướng cho việc thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho mỗi người đặc biệt là
thanh niên.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Thanh niên và giáo dục đạo đức

thanh niên
1.2.1 Khái niệm thanh niên:
Thanh niên là đối tượng được nhiều bộ môn khoa học quan tâm nghiên cứu
trong đó đáng chú ý là sinh lý học, tâm lý học, xã hội học.. Ở mỗi thời kỳ trong đời
sống con người, sự phát triển về thể chất và tâm lý và cả nhân cách có quy luật riêng.
Thanh niên là thời kỳ kế tiếp của lứa tuổi thiếu niên nhưng đây là giai đoạn phát triển
rất cao về thể chất và có nhiều diễn biến tâm lý…
Các nhà sinh học coi tuổi thanh niên là một giai đoạn trong tiến trình tiến hóa
của cơ thể trong đó thấy rõ sự tráng cường về thể lực, sự phát triển về trí tuệ, trưởng
thành về sinh dục, tính dục.
Các nhà tâm lý học quan tâm tới các quy luật phát triển tâm lý của lứa tuổi
thanh niên mà đặc trưng là sự tự ý thức, tự khẳng định, sự hăng say hoạt động và sáng
tạo….
Các nhà xã hội học coi thanh niên là một giai đoạn của quá trình xã hội hóa,
chuyển biến từ tuổi thơ lệ thuộc sang giai đoạn hoạt động độc lập, từng bước hình
thành ý thức trách nhiệm công dân, chuẩn bị và tự nâng cao kiến thức để lao động,
cống hiến.
Về mặt kinh tế - chính trị, các nhà nghiên cứu nhìn nhận thanh niên là một lực
lượng lao động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ sung cho đội ngũ lao
động trên mọi lĩnh vực, là bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, rất năng
động, gắn bó với tiến trình phát triển xã hội, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo
mới, tham gia xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng các lực lượng vũ trang.Thanh
niên được hiểu như là một lực lượng lao động dự trữ, một tiềm năng vô giá, một tài
nguyên lớn của quốc gia, dân tộc. Nghị Quyết Ban Chấp Hành TW4 khóa VII đã
14
khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, có tiềm năng hùng hậu, kế thừa
tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành quả của cách mạng. Thanh niên có
mặt mạnh cơ bản là trình độ học vấn cao hơn trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời
cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng mau chóng đưa đất nước vượt qua nghèo nàn
lạc hậu, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh. Thanh niên

đồng tình ủng hộ và hăng hái tham gia sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, đã và đang xuất hiện nhiều tài năng trẻ, nhiều tấm gương trong sản
xuất kinh doanh, bảo vệ chủ quyền và an ninh đất nước, trong học tập và hoạt động
khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật và thể thao, trong công tác xã hội”.
Những nét đặc trưng của thanh niên hoàn toàn không giống với các nhóm xã
hội khác. Thanh niên được phân chia theo độ tuổi, gắn với giai cấp, các tầng lớp xã
hội. Tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà ở mỗi nước cách tính độ tuổi thanh
niên có khác nhau. Ở nước ta tuổi thanh niên hiện nay là 16 – 30 tuổi.
Tùy theo môi trường hoạt động, đặc điểm nghề nghiệp, người ta chia thanh
niên thành các nhóm đối tượng khác nhau: thanh niên công nhân, thanh niên nông
thôn, thanh niên học sinh - sinh viên, thanh niên tri thức, thanh niên các lực lượng vũ
trang….
Thanh niên là lớp người có sự phát triển cao về thể chất, được coi là lứa tuổi
phát triển hoàn thiện về thể chất. Sự hoàn thiện về thể chất của lứa tuổi thanh niên thể
hiện trên tất cả các mặt: chiều cao, cân nặng, sự hoàn thiện về hệ xương, hệ cơ, hệ
thần kinh cũng như các chức năng sinh lý khác. Sau tuổi thanh niên, giai đoạn kế tiếp
là trung niên. Trong thực tế giai đoạn trung niên không còn sự phát triển nào đáng kể
mà con người có những mặt đã dần đi vào thời kỳ lão hóa (về sinh học). Khoa học đã
kết luận là sự phát triển của các nơ - ron thần kinh ở lứa tuổi thanh niên đạt tới đỉnh
cao nhất.
Trong cuộc đời của mỗi người, không có thời kỳ nào đạt được sức sống mạnh
mẽ và cơ thể đẹp như thanh niên. Sự phát triển về thể chất là điều rất có ý nghĩa để từ
đó thấy được sức mạnh, vai trò của họ trước yêu cầu của đời sống tự thân cũng như
gia đình và xã hội, nhất là những khả năng và nhiệm vụ mà họ phải đảm đương.
Thanh niên là lớp người có sự phát triển mạnh về trí tuệ và nhân cách.
Tuy nhiên, bên cạnh những khả năng to lớn, sự mạnh dạn, lòng dũng cảm, tinh thần
15
dám nghĩ, dám làm, trong cả thế hệ thanh niên cũng như trong từng cá thể, sự hạn chế
và các nhược điểm về mặt thiếu kinh nghiệm, thiếu từng trải, tính bồng bột, thậm chí
có lúc còn phiêu lưu, liều lĩnh… luôn phải được cảnh giác, phải được khắc phục bằng

chính sự rèn luyện, phấn đấu không ngừng của bản thân thanh niên và có sự hướng
dẫn, giúp đỡ của các chủ thể xã hội.
Như vậy có thể hiểu thanh niên là một nhóm xã hội nhân khẩu đặc thù bao
gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có sự phát triển nhanh chóng về thể
chất, tâm lý, trí tuệ, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, có mối quan hệ
gắn bó mật thiết với tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, là lực lượng xã hội to
lớn đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển trong tương lai của mỗi quốc gia,
dân tộc.
Suốt nửa thế kỷ giáo dục, tổ chức, rèn luyện các thế hệ thanh niên nước ta
thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp vẻ vang của Đảng, dân tộc,
chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã đưa ra nhiều khái niệm thanh niên mang tính xã
hội, nhân văn sâu sắc. Người nói rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà”. Bác giải thích khái niệm đó trên cơ sở khẳng định: “Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và thanh niên phải “Tham gia ý
kiến vào công việc của chính phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện ngay
từ bây giờ để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác việc trọng đại của nước
nhà”. “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội”. Bác chỉ ra thanh niên là thời kỳ đẹp nhất, sống động nhất như mùa
xuân trăm hoa đua nở, tràn đầy nhựa sống, mùa xuân của những cánh én ngang dọc
bầu trời. Đó là hình ảnh nói lên sức trẻ có thể đào núi và lấp biển mà cả xã hội và dân
tộc luôn kỳ vọng, tin yêu.
Bác dạy: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người phụ trách thế hệ thanh niên tương lai”. Đây là một khái niệm về
vai trò và vị trí của thanh niên, về một quy luật của quá trình “bàn giao thế hệ”. Từ
khái niệm thanh niên này Bác muốn nhắc nhở, căn dặn một điều mà trước khi đi xa
Người đã ghi lại trong bản di chúc thiêng liêng. Điều ấy vô cùng quan trọng quyết
định vận mệnh của dân tộc, vận mệnh của giai cấp công nhân, của Đảng.
16
1.2.2 Vai trò và nhiệm vụ của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc xây dựng bảo vệ Tổ Quốc và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

1.2.2.1 Vai trò và nhiệm vụ của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc xây dựng bảo vệ Tổ Quốc
Ở bất kì quốc gia nào cũng vậy để phát triển đất nước thì bên cạnh nguồn lực
về tự nhiên thì các quốc gia cần phải chú trọng nguồn lực về xã hội. Trong nguồn lực
xã hội thì yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong đó thanh niên là lực lượng có vị trí,
vai trò quan trọng nhất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập nhiều đến thanh niên. Các
ông cho rằng mỗi thế hệ tuổi trẻ có sứ mệnh lịch sử và vai trò, vị trí của họ đối với
dân tộc mình và thời đại mình.
Mác nói: “ Bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công nhân ý thức rõ rằng
tương lai của giai cấp họ và do đó tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc
vào việc giáo dục công nhân đang lớn lên”[4, tr. 8].
Lênin thì kêu gọi Đảng hãy cộng tác, hãy lôi kéo mạnh mẽ hơn nữa thanh niên
về phía mình, vì họ là một lực lượng to lớn luôn tìm đến với những tư tưởng tiến bộ,
Lênin nói: “ Nhiệm vụ thực sự sáng tạo ra xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của
thanh niên…”[4, tr.8]. Đánh giá đúng bản chất và khả năng cách mạng của thanh
niên, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã thấy rõ vai trò vị trí của thanh niên Việt Nam trong
tiến trình cách mạng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, "tuổi trẻ là mùa
xuân của cuộc đời", tuổi trẻ là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát
triển của đất nước. Người sớm phát hiện được và tin tưởng ở tiềm năng, sức mạnh to
lớn của thế hệ trẻ trong cuộc đấu tranh cách mạng và sự phát triển xã hội. Người nhận
thấy tuổi trẻ Việt Nam là lực lượng đông đảo, hùng hậu, dũng cảm; có những ưu thế
nổi trội: trẻ, khoẻ, chiếm số đông trong xã hội, hăng hái nhiệt tình, nhanh nhạy trong
tiếp thu cái mới. Thế hệ trẻ tiêu biểu cho sức sống, sức phát triển của dân tộc, nếu
được chăm sóc, rèn luyện có thể đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Nhưng, Người cũng nhận thấy, trong quá trình thống trị Đông Dương và Việt
Nam, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách ngu dân, áp đặt nền văn hoá nô dịch đã
làm tàn tạ, mê muội thế hệ trẻ Việt Nam. Đó là điều hết sức nguy hiểm. Vì thế, trong
tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm 1925, Người đã viết:

17
"Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi
của Người không sớm hồi sinh."

.Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chỉ có thể giành
độc lập dân tộc khi giác ngộ được quần chúng nhân dân, mà trước hết là thức tỉnh,
giác ngộ thanh niên, hướng cuộc đấu tranh của họ đi đúng quỹ đạo của cách mạng vô
sản, từ đó thức tỉnh dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm thấy được sức mạnh
của tuổi trẻ trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Ngay trong ngày khai trường đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã tin tưởng
gửi gắm vào thế hệ trẻ, rằng tương lai của non sông Việt Nam phụ thuộc "một phần
lớn ở công học tập của các cháu."
Người cũng chỉ rõ, hạt nhân để tập hợp thanh niên, giáo dục thanh niên là
Đoàn thanh niên Cộng sản. Bác chỉ ra rằng: "Đoàn thanh niên là cánh tay và đội hậu
bị của Đảng, là người phụ trách dìu dắt nhi đồng". Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên,
Đoàn thanh niên cần phải thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đoàn vững
mạnh, Đoàn phải tìm ra nhiều phương thức hoạt động để tổ chức, tập hợp rộng rãi
thanh niên. Đảng phải chăm lo giáo dục cho họ, đào tạo họ trở thành người kế thừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh thanh niên là một bộ phận không
thể thiếu, một lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước qua chín
năm kháng chiến chống Pháp và hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ. Ngay
trong thời kì đất nước còn chìm trong đêm nô lệ, phần đông thanh niên ta mù chữ và
bị đầu độc, Hồ Chủ Tịch đã mạnh mẽ khẳng định vai trò và lực lượng của thanh niên
trong cách mạng. Đối lập với cách nhìn tiêu cực của nhiều sĩ phu yêu nước về thanh
niên, người nêu lên quan điểm muốn thức tỉnh một dân tộc thì trước hết phải thức tỉnh
thanh niên. Khi cách mạng tháng Tám mới thành công, Hồ Chủ Tịch tiếp tục khẳng
định vai trò to lớn của thanh niên trong mối quan hệ tồn vong, hưng thịnh của nước
nhà, Người chỉ ra cho thanh niên và nhân dân ta thấy: “… non sông Việt Nam có trở
nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai cùng các cường

quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu…”.
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử của dân tộc, chúng
ta phải chống lại kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn gấp nhiều lần. Vừa kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện thống nhất nước nhà, vừa tiến hành xây dựng
18
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc- một công việc hết sức mới mẻ và phức tạp đòi hỏi cần
có sự nổ lực phi thường của cả dân tộc, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh toàn
Đảng, toàn dân. Thanh niên là lớp người có tinh thần quả cảm, đứng mũi chịu sào,
dám nghĩ dám làm kể cả những việc khó khăn gian khổ nhất “đâu cần thanh niên có,
việc gì khó có thanh niên”, và đây chính là lực lượng đóng vai trò xung kích trên hai
mặt trận chiến lược đó. Trong những thời điểm khốc liệt, đen tối, Hồ Chí Minh vẫn
tin tưởng vào sự vươn lên mãnh liệt của lớp trẻ miền Nam trong cuộc đối đầu trực
tiếp này. Người nói: “Các cháu thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên trong hai cuộc
đấu tranh yêu nước, đã rèn luyện thành một thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ, thông
minh không sợ gian khổ, hy sinh, quyết chiến, quyết thắng”[26, tr.78].
Việc nhìn nhận đúng vai trò quyết định của thanh niên trên mỗi chặng đường
phát triển của dân tộc qua những gì mà lực lượng thanh niên đã làm, Hồ Chí Minh
hoàn toàn lạc quan vào tiền đồ tươi sáng của đất nước: “Bác rất tự hào, sung sướng,
và thấy mình như trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ
vang”. Niềm tin đó được dựa trên cơ sở khoa học “với một thế hệ thanh niên hăng hái
kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, thống
nhất nước nhà”.
1.2.2.2 Vai trò của thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
Như đã nói dù ở bất kì lúc nào con người vẫn luôn là lực lượng quan trọng
nhất trong đó thanh niên là một phận không thể thiếu. Trong hai cuộc trường kì kháng
chiến để bảo vệ quốc gia, dân tộc thanh niên ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà
Đảng, Tổ quốc và nhân dân giao phó. Hiện nay khi đất nước đã bước vào thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì thanh niên vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc

trường chinh mới của dân tộc. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình thay đổi cơ
bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý, là quá trình
chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động với trang bị máy móc, công cụ,
phương tiện công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến, tạo nên năng suất lao
động xã hội cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đổi mới công nghệ mà còn thúc
đẩy mở thị trường ngày càng lớn để có thể áp dụng rộng rãi sản xuất lớn với dây
chuyền sản xuất hàng loạt nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hóa đã được tiêu
19
chuẩn hóa. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi nước tùy thuộc vào đặc
thù về nguồn lao động và tài nguyên của nước đó. Yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta đã đặt thanh niên vào vị trí quan trọng hàng đầu. Thanh niên, nếu
được đào tạo và rèn luyện tốt, sẽ là lực lượng xung kích trong quá trình chuyển đổi
căn bản và toàn diện của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý trên
toàn xã hội. Nói cách khác, sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại với
đất nước tùy thuộc rất lớn vào chất lượng đào tạo của thanh niên vì thanh niên là
nguồn nhân lực tích cực, năng động và sáng tạo trong quá trình sản xuất, xây dựng
đất nước, là lực lượng đi đầu trong cách mạng khoa học kỹ thuật, đưa tiến bộ công
nghệ mới vào trong sản xuất, quản lý, kinh doanh, tạo ra hiệu quả kinh tế lớn. Nghị
quyết Trung ương IV (khóa VII) đã khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to
lớn, có tiềm năng hùng hậu, kế thừa tinh hoa truyền thống của cả dân tộc và những
thành quả cách mạng. Thanh niên có mặt mạnh là trình độ học vấn cao hơn trước, tầm
nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng mau chóng đưa
đất nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh”[11, tr.27]. Trên thực tế, thanh niên hiện nay rất tích cực tham gia vào
công cuộc đổi mới đất nước. Họ ủng hộ đường lối cách mạng của Đảng, sẳn sàng đi
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng tình chấp nhận chính sách mở cửa để đưa
đất nước hòa nhập trong khu vực và cộng đồng quốc tế, nhằm phát triển nhanh nền
kinh tế xã hội, hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh”, đó là sự định hướng lý tưởng của tuổi trẻ và là cương lĩnh hành động của

thanh niên hiện nay.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước là nhiệm vụ lịch sử hết
sức to lớn và mới mẻ. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự thành công
không xa của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì chúng ta có một lực lượng
thanh niên hùng hậu, nhanh nhạy trước thời cuộc, trước những biến đổi của xã hội, có
khả năng tiếp thu cái mới, những kiến thức của khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, hiện đại, vận dụng những kiến thức, hiểu biết ấy vào trong quá trình sản suất để
cải tạo và phát triển đất nước. Sức mạnh của một quốc gia, một dân tộc thể hiện ở lực
lượng thanh niên, là rường cột của nước nhà, là mùa xuân của nhân loại. Xác định
được vị trí, vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí
20
Minh đã chỉ rõ: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh, phần lớn là do các thanh niên” [19, tr.185].
1.2.3 Hồ Chí Minh luôn đứng trên quan điểm toàn diện để đánh giá về
thanh niên
Theo Hồ Chí Minh, nhìn nhận thanh niên phải toàn diện, bao gồm cả ưu
điểm, nhược điểm. Một mặt Hồ Chí Minh đánh giá rất cao thanh niên coi họ là “bộ
phận quan trọng của dân tộc”, là “lực lượng nồng cốt xây dựng xã hội mới”, nhưng
đồng thời, Người cũng chỉ ra những mặt yếu kém, nhược điểm của thanh niên. Đó là
sự thiếu từng trải trong cuộc sống, một số chưa chịu khó học tập, mắc bệnh thành tích
cá nhân, tự cao tự đại. Bác đã yêu cầu thanh niên chống tự tư, tự lợi chỉ lo cho lợi ích
riêng và sinh hoạt riêng của mình, chống tâm lí ham sung sướng và tránh khó nhọc,
chống thói coi khinh lao động, nhất là lao động chân tay, chống lười biếng xa xỉ,
chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang…..
Phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt yếu kém là con đường đi đến sự hoàn
thiện của con người trong đó có thanh niên. Theo Hồ Chí Minh nhìn nhận thanh niên
phải theo quan điểm phát triển, theo từng hoàn cảnh và điều kiện kinh tế, xã hội của
từng giai đoạn. Là bộ phận quan trọng của dân tộc, do đó lợi ích của thanh niên
không thể tách rời lợi ích của dân tộc, mà là gắn liền với lợi ích của dân tộc. Đất nước
bị nô dịch hay giành được độc lập tự do hạnh phúc có quan hệ mật thiết đến những

quyền cơ bản và nhu cầu chính đáng để thanh niên phát triển. Người nói: “Dân tộc bị
nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng thì thanh niên mới được
giải phóng”; “Từ cách mạng tháng Tám đến nay, thanh niên có cơ hội phát triển rộng
rãi và nhanh chóng hơn”. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, Người nói: “Phải
quan tâm đến đời sống công tác và học tập của thanh niên, đó là cách tốt nhất để củng
cố và phát triển Đoàn”.
Theo Hồ Chí Minh thanh niên là lớp người đang trong quá trình trưởng thành,
do đó phải nhìn nhận họ một cách biện chứng, không được xem thường, thành kiến,
hẹp hòi. Người nói: “Không nên xem xét thanh niên một cách cứng nhắc trước sao,
nay vậy”. Người căn dặn những người làm công tác thanh niên, cần phải đi sâu vào
đời sống, hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ, giải quyết một cách
thiết thực” để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
21
Từ sự đánh giá đúng đắn khả năng cách mạng của thanh niên, Bác đã truyền
niềm tin yêu ấy đến cho toàn dân. Bác khẳng định: “Với một thế hệ thanh niên hăng
hái, kiên cường”, Bác “thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ
vang”… Đây không phải chỉ là tình cảm, là lòng mong mỏi của Bác mà là một luận
điểm khoa học của Bác về sự đánh giá thanh niên ta [12, tr. 7].
1.2.4 Những nội dung giáo dục đạo đức thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
1.2.4.1. Giáo dục đạo đức cách mạng và đạo đức lối sống cho thanh niên:
Xuất phát từ sự nhìn nhận, đánh giá đúng đắn khách quan vai trò và vị trí của
thanh niên trong cách mạng, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm vấn đề giáo
dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên. Trước hết, theo Người, việc giáo
dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho tuổi trẻ là nhằm giúp họ trở thành những công
dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người chủ xứng đáng của đất nước và
là người cách mạng chân chính…Đó là những con người “vừa có đức vừa có tài”
hoặc “vừa hồng vừa chuyên”. Đạo đức và tài năng là hai nội dung không thể thiếu
được trong bồi dưỡng giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Người nói: "Dạy
cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Vậy thì

cái bản chất nhất, cốt lõi nhất trong đạo đức cách mạng là gì?. Đó là… “Quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất…[27, tr.62].
Từ điều “chủ chốt nhất”, Người nêu lên những nội dung cụ thể của quá trình tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên là :
Người nói rằng: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó đấu
tranh bền bỉ hằng ngày mà phát triển củng cố”. Đạo đức cách mạng là ra sức phấn
đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng… Tuyệt đối không thể lưng chừng, cách mạng là
sự nghiệp lâu dài đầy khó khăn, thử thách của nhiều thế hệ. Trong mỗi chặng đường
của cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định những mục tiêu cụ thể để từ đó
phấn đấu đạt tới mục tiêu chung.
Người căn dặn mỗi đoàn viên thanh niên dù ở bất cứ cương vị nào cũng cần ra
sức góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước giao phó,
phải coi đó là trách nhiệm của bản thân. Mục tiêu của Đảng không gì khác hơn là đem
lại hạnh phúc trong cuộc sống cho nhân dân ta. Ngày nay mục tiêu đó là dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Bác dạy rằng: “tuyệt đối không thể lưng
22
chừng” dù khó khăn đến mấy, khi đã xác định rõ mục tiêu thì phải thực hiện đến nơi
đến chốn. Đó chính là bản chất của đạo đức cách mạng, là điều mà mọi người cách
mạng phải ra sức phấn đấu để đạt được.
Đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chổ dù khó khăn đến mức nào đi nữa cũng
kiên quyết làm đúng chính sách và Nghị quyết của Đảng. Chính sách, nghị quyết,
nghị định của Đảng và Nhà nước là sự thể hiện mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng,
toàn dân ta qua hệ thống thể chế, cơ chế mà mọi người buộc phải tuân thủ để làm việc
có hiệu quả, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích của từng cá nhân.
Người thường căn dặn cán bộ Đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu trong việc thực
hiện chính sách và Nghị quyết của Đảng, Nhà nước. Đảng ta phấn đấu vì lợi ích chính
đáng của giai cấp và dân tộc. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân cho
nên các chính sách của Đảng và Nhà nước bao giờ cũng xuất phát từ mục tiêu phục
vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước. Đạo đức cách mạng được đánh giá qua suy
nghĩ và hành động của các cán bộ Đảng viên, đoàn viên, thanh niên trong quá trình

thực hiện các chính sách, nghị quyết của Đảng, Bác dạy rằng :… “ tự do hành động
trái với tổ chức và kỷ luật của Đảng, dù muốn hay không muốn, hành động của
những đồng chí ấy làm giảm sút uy tín và ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở
bước tiến của cách mạng”. Chính vì vậy đoàn viên, thanh niên phải thực hiện đúng
quy định đó chính là đạo đức của người cách mạng. Đạo đức cách mạng là hòa mình
với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến
của quần chúng. Trong cuộc sống trong công tác và học tập hằng ngày không ai có
thể tránh được khuyết điểm, sai lầm. Người dạy rằng “chúng ta không sợ sai lầm, chỉ
sợ sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng
nghe quần chúng phê bình và thật thà phê bình” Người phê phán những kẻ: “tự cho
mình cái gì cũng giỏi, xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ
muốn làm thầy quần chúng”. Bác khẳng định rằng những kẻ đó đã “mắc bệnh quan
liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ”.
Bác căn dặn cán bộ “tuyệt đối không được lên mặt quan cách mạng, ra lệnh, ra oai”.
Những lời chỉ dẫn hết sức sâu sắc này về đạo đức cách mạng thật cần thiết đối với
thanh niên một bộ phận quan trọng đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
23
Đạo đức cách mạng luôn đối lập với chủ nghĩa cá nhân và phải chiến thắng
chủ nghĩa cá nhân. Người dạy rằng : “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi
ích riêng của mình…. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nét xấu như lười biếng, suy
bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô. Bác dạy rằng : “Chủ nghĩa cá nhân
là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng”. Người còn căn dặn thanh niên : “phải thật
thà, ngay thẳng, phải chí công vô tư và coi tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của
tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ”.
Ngày nay, Đảng ta đang chủ trương tiến hành cuộc vận động đấu tranh chống tham
nhũng, coi đây như là quốc nạn làm mất lòng dân. Cán bộ, đoàn viên, thanh niên bất
kỳ ở cương vị công tác nào cũng phải ra sức góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
trên.
Học tập đạo đức cách mạng là học tập tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư. Thanh niên phải cần cù say mê, sáng tạo trong học tập, lao động và bảo vệ Tổ
quốc, thanh niên phải tiết kiệm, sống và sinh hoạt lành mạnh, không xa hoa lãng phí,
đua đòi mà quên đi nhiệm vụ, phai nhạt lý tưởng của mình. Thanh niên sống ngay
thẳng, trong sáng sẵn sàng đấu tranh chống cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng, cái thiện.
Thanh niên luôn đặt cho mình phải cống hiến gì cho Tổ quốc chứ không phải đòi hỏi
Tổ quốc đãi ngộ những gì cho mình. Thanh niên ngày nay phải vươn lên rất nhiều,
bộc lộ chính kiến, thể hiện bản lĩnh và phẩm chất của mình trong công việc với trí tuệ
cao. Thanh niên có tinh thần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu diễn biến hoà bình
của các thế lực thù địch, đấu tranh để chiến thắng mọi sự cám dỗ thấp hèn của tiêu
cực và tệ nạn xã hội.
Trước xu thế hội nhập, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường đem lại, nhiều
lối sống lệch lạc, xa rời đạo lí của dân tộc và những tệ nạn xã hội đang xâm nhập,
tiêm nhiễm vào lớp trẻ (như thực dụng, tôn thờ đồng tiền, quay lưng lại với truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, nghiện hút, cờ bạc,…). Đứng trước tình hình đó, việc xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh đối với thế hệ thanh niên là việc cần thiết,
với mục đích tạo ra sân chơi lành mạnh, góp phần nâng cao đạo đức lối sống, môi
trường sinh hoạt, rèn luyện tốt để thanh niên, sinh viên phát triển hài hòa và toàn diện,
cường tráng về thể lực, phong phú về tâm hồn.
24
Với thực trạng hiện nay, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc bài trừ các tệ
nạn xã hội, làm trong sạch môi trường sống, đặc biệt là môi trường học đường. Cần tổ
chức rộng rãi, thường xuyên các hình thức nói chuyện, báo cáo chuyên đề, hội thảo,
tọa đàm về các nội dung như: tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy trong thanh niên, coi
đó là sự thách thức lớn với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuyên
truyền sâu rộng hơn nữa dưới hình thức quảng cáo, đặc biệt là ở những vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa để thanh niên có nhận thực nhất quán là: đẩy lùi không cho
ma túy, cờ bạc xâm nhập vào thôn bản và đặc biệt là không để cho nó xâm nhập vào
học đường. Tổ chức cho thanh niên, sinh viên ký cam kết không mua bán, tàng trữ, sử
dụng các chất ma túy và không sa vào các tệ nạn xã hội.
Tích cực đấu tranh chống các hủ tục lạc hậu như: mê tín dị đoan, văn hóa

phẩm độc hại bằng cách cung cấp cho thanh niên, sinh viên những món ăn tinh thần
bổ ích. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên phối hợp với các cơ quan chuyên môn để đẩy
mạnh tuyên truyền những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc, của các vùng miền, phát
động thanh niên tìm hiểu về văn hóa đặc thù của vùng, miền đang sống, tổ chức các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, đa dạng hóa các hình thức lễ hội văn hóa trong sinh
hoạt thanh niên, sinh viên để họ có ý thức giữ gìn các di sản văn hóa dân tộc.
Tổ chức cổ vũ thanh niên tham gia thực hiện cuộc vận động “tuổi trẻ sống
đẹp”, “ sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” bằng biện pháp tổ chức cho
thanh niên tìm hiểu về luật dân sự, luật hình sự… xây dựng chế độ tự quản trong
thanh niên, đăng kí thực hiện các quy chế về nếp sống văn hóa trong thôn xóm, ngõ
phố trường học…
Đẩy mạnh các hoạt động thể thao trong thanh niên như tổ chức các giải bóng
đá, bóng chuyền…phát triển các loại hình văn hóa, văn nghệ mang tính quần chúng
thành lập các câu lạc bộ theo sở thích, mở rộng các hoạt động giao lưu văn hóa, văn
nghệ, thể thao, kết nghĩa với các đơn vị thanh niên, bộ đội, công an. Thông qua các
hoạt động phong trào của đoàn thanh niên dạy cho thanh niên bản chất nhân văn của
cuộc sống làm cho họ có ý thức tự xây dựng lối sống của người có học thức, có đạo
đức, biết thể hiện mình một cách hài hòa với những yêu cầu của truyền thống và hiện
đại.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×