Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.09 KB, 150 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC THÀNH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC THÀNH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:8380102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.VŨ THƯ


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ........................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự................................... 7
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự................................. 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân

sự 24
Kết luận Chương 1.............................................................................................. 29
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG............................................ 30
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và yếu tố phát sinh các vụ việc về thi hành án dân

sự tại tỉnh Lâm Đồng........................................................................................... 30
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng............................33
2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng........................36
2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng

...............................................................................................................................43
Kết luận Chương 2.............................................................................................. 58
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG...59
3.1. Quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.................. 59
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại

tỉnh Lâm Đồng.................................................................................................... 66
Kết luận Chương 3.............................................................................................. 77
KẾT LUẬN............................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHA

: Chấp hành viên

THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự

TTV

: Thẩm tra viên

TPL

: Thừa pháp lại


TAND

: Tòa án nhân dân

TCCB

: Tổ chức cán bộ

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2014 – 2018)..................................39
Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2014 – 2018).......................................39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
được thi hành ngay và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật ra thi hành trên thực tế. Trong hoạt động tư pháp, nếu mục đích
của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân; giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy Điều 106 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Sau hơn hai mươi lăm năm, kể từ khi tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự từ chuyển từ Tòa án sang Chính phủ quản lý (tháng 7 năm 1993), hệ thống thi
hành án dân sự đã được hình thành, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức, bộ
máy và ngày càng được củng cố, xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao trong từng giai
đoạn cụ thể. Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2009 - 2012,
toàn ngành phải thi hành tổng số 1.804.381 việc, với số tiền phải thu 90.444 tỷ
đồng, bình quân một năm phải thi hành hơn 451 ngàn việc, với 22.611 tỷ đồng; giai
đoạn 2013 - 2016 tổng số việc phải thi hành là 3.138.943 việc, với số tiền phải thu
436.150 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 784.735 việc, với 109.037 tỷ
đồng; trong hai năm 2017 và năm 2018 số việc phải thi hành là 1.809.879 việc, với
số tiền phải thu 368.960 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 904.939 việc,
với 184.480 tỷ đồng. Như vậy qua số liệu thống kê cho thấy số việc và số tiền phải
thi hành án hàng năm rất lớn, năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt về số tiền có sự
7



tăng cao đột biến. Tuy nhiên

8


công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, về cơ bản
hàng năm đều đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội, Chính phủ giao;
nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài đã được quan tâm chỉ đạo xử lý, giải
quyết dứt điểm. Hoạt động thi hành án dân sự đã tạo được lòng tin đối với Đảng,
Nhà nước và Nhân dân, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn
còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án
dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa phù hợp với thực tiễn; việc kiện toàn,
đổi mới tổ chức, bộ máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao
ngày càng nặng nề; cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn,
đầu tư thiếu đồng bộ; chế độ chính sách đối với người làm công tác thi hành án còn
chưa tương xứng với tính chất đặc thù công việc; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày
càng nhiều, diễn biến phức tạp; cơ chế phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự
đạt hiệu quả chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được hàng năm chưa
thật sự bền vững; án tồn đọng chuyển kỳ sau, án có điều kiện thi hành nhưng kéo
dài, chậm giải quyết còn nhiều... những bất cập, tồn tại này nếu không có cơ chế,
biện pháp giải quyết một cách căn cơ, triệt để sẽ ảnh hưởng, làm giảm hiệu lực, hiệu
quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta có lịch sử hình thành và
phát triển chưa lâu, chính vì thế để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,
đòi hỏi cần tiếp tục phải có sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án dân
sự ở nhiều khía cạnh, giác độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn để có sự đánh giá,
nhìn nhận một cách khoa học nhất, khách quan nhất về thi hành án dân sự, qua đó
đưa ra những khuyến nghị để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự nói chung và đặc thù tại các địa phương nói riêng, đảm bảo hoạt
động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng" để làm luận văn


thạc sỹ


chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành
án dân sự, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án
dân sự. Xin nêu một số công trình: Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn
về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học
Pháp lý
- Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì; Đề tài cấp

bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT do
Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng Cục thi hành án dân sự) chủ trì
năm 1996; Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm
2000; Đề tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của Dự
án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998; Luận văn thạc sỹ Luật học:
“Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm
2001; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”,
tác giả Lê Xuân Hồng, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Thi hành quyết định
trọng tài tại Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002; Luận văn thạc sỹ
Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoại động thi hành án dân sự tại Việt Nam” của tác

giả Nguyễn Quang Thái, năm 2003; Luận văn thạc sỹ Luật học “Đổi mới thủ tục thi
hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, năm 2004; Luận văn thạc sỹ
luật học “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự” của tác giả Hoàng
Kim Chiến, năm 2010; Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành
viên và xây dựng khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách
tư pháp ”, năm 2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục
THADS – Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả
Nguyễn Khánh Na; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong; Luận văn


thạc sỹ Luật học: “Pháp luật về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên”
của tác giả Lê Thị


Lanh.
Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên
sách, báo, tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học...
Các công trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những góc độ, khía cạnh khác nhau. Ở một số công trình đã đề cập đến một số vấn
đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự,
như chủ yếu xuất phát từ thực tiễn tại địa phương, chưa có công trình nghiên cứu
tổng thể, toàn diện, chuyên sâu về thực trạng công tác thi hành án dân sự trên cả
nước trong giai đoạn hiện nay để có giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự nói chung và đặc thù của tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ
chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng nói riêng, có ý nghĩa đối với công tác thi hành án dân sự nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thi hành án

dân sự;
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại

tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động

của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ
chức và hoạt động của thi hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự

cấp tỉnh và thi hành án dân sự cấp huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan thi hành án dân sự tách và thành
lập (tháng 7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án
dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; các quyền
con người, quyền công dân; cải cách hành chính và cải cách tư pháp có liên quan
đến lĩnh vực thi hành án dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống, phân tích, tổng
hợp, lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh,
khảo sát thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Kết quả nghiên cứu luận
văn có thể góp một phần nhỏ vào việc làm đầy đủ, phong phú và toàn diện hơn nhận
thức lý luận về thi hành án dân sự, đồng thời góp phần vào việc tăng cường chất
lượng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu của


luận văn sẽ



góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự nói chung và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm
Đồng nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách nền Tư
pháp ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Lâm Đồng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự tại tỉnh Lâm Đồng


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự

Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các phán quyết
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Như vậy đối tượng của
THA là các bản án, quyết định của Tòa án, việc đưa ra thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước,
bởi lẽ nó một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là
công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “Thi hành” được hiệu là: "Thực hiện

điều đã chính thức quyết định" [71, tr.1559]. Như vậy, THA có thể được hiểu là việc
thực hiện các phán quyết của Tòa án hay nói cách khác là hoạt động làm cho các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực hiện. Nếu trong
hoạt động xét xử, kết quả xét xử là việc Tòa án xem xét các tình tiết xảy ra, dựa trên
chứng cứ, qua đó áp dụng các điều luật cụ thể để đưa ra phán quyết thì kết quả của
THA là căn cứ phán quyết của Tòa án để áp dụng pháp luật thực hiện phán quyết đó
trên thực tế, THA chính là khâu cuối để công lý được thực thi.
Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm THA, thể hiện hai
quan điểm cơ bản:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, THA là một giai đoạn của tố tụng bởi: “Có xét
xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét
xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”.
Quan điểm này cho rằng THA gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử là tiền đề của
THA, thi hành án là sự tiếp nối với xét xử, làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu
lực trên thực tế, vì vậy nó có tác dụng củng cố kết quả xét xử. Đặc biệt trong
THADS, các quan hệ pháp lý chủ yếu mang tính tài sản – đặc trưng của quan hệ dân


sự, thông


qua THADS, bên phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản và bên được
THA nhận được các quyền, lợi ích về tài sản. Mặt khác THADS còn có tính độc lập
- một đặc trưng của hoạt động tư pháp. Trong hoạt động tổ chức THA, CHV có các
nhiệm vụ, quyền hạn mang tính độc lập, pháp luật qui định cá nhân, cơ quan, tổ
chức không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS của CHV.
Chính vì THA là một giai đoạn của hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm cho
phán quyết của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời, do đó hoạt động
này phải gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử, đồng
thời phải giao cho Tòa án thực hiện, “Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được

mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể
hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai,
phải, trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ
ở việc tổ chức thi hành án trên thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo
của quá trình xét xử.” [67, tr.8].
Quan điểm thứ hai cho rằng, THA là một giai đoạn mang tính hành chính - tư
pháp, các quan hệ THA bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính
hành chính - tư pháp, trong đó các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ
yếu, các thủ tục trong quá trình tổ chức THA cũng mang nặng tính hành chính - tư
pháp, nhất là thủ tục thi hành các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản, lao động… do đó
không thể đồng nhất hoạt động THA với hoạt động tố tụng. Mặt khác do tính chất
hành chính – tư pháp nên trong một số lĩnh vực, một số công việc liên quan đến
THA, Nhà nước xem xét xây dựng cơ chế pháp lý để từng bước thực hiện xã hội
hóa hoạt động này. Đây chính là điểm khác biệt của hoạt động THA so với hoạt
động tố tụng, bởi hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội
hóa [67, tr.10-11].
Do THADS không mang tính tố tụng thuần túy, nên nó cần được coi là hoạt
động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Việc này là cần thiết để tạo
cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh lạm quyền trong hoạt động tố tụng, bởi một
chủ thể là Tòa án không thể làm hai việc vừa ra phán quyết, vừa thực thi phán


quyết. Như vậy rõ ràng THA cần một cơ chế độc lập, minh bạch hơn, trách nhiệm
giải trình lớn


hơn, chính vì thế chủ thể thực thi phải thuộc về cơ quan hành chính nhà nước.
Các quan điểm trên về THA đều dựa trên các luận cứ khoa học và thực tiễn,
có tính hợp lý nhất định. Trong lịch sử hình thành và phát triển cơ quan THADS
cũng cho thấy có lúc chúng ta cho cơ quan THA là cơ quan tư pháp, có lúc gọi là cơ

quan hành pháp và hiện nay đa số quan điểm đều cho rằng THA là cơ quan có tính
chất hành chính – tư pháp. Tôi đồng tình với quan điểm coi THA là hoạt động mang
tính hành chính - tư pháp, một giai đoạn có tính độc lập tượng đối, không phải là
một giai đoạn của tố tụng dân sự.
Qua quan điểm, khái niệm về THA, trên cơ sở bản chất, đặc trưng, phạm vi
của hoạt động THADS, có thể định nghĩa về THADS như sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp có tính độc lập tương
đối, do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục được pháp
luật qui định nhằm thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định
khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự

Một là, THADS là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp nhằm thực
hiện quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan được nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các bản án, quyết định của
Tòa án, các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế.
Tính chất chấp hành, quản lý trong hoạt động THADS được thực hiện theo các
nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định, với quy trình chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho
cơ quan THA thực hiện nhiệm vụ từ khi tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án,
nhận đơn yêu cầu THA đến thụ lý, ra quyết định, tổ chức thi hành và kết thúc việc
THA. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tổ chức THA, cơ quan THADS và Chấp
hành viên phải xây dựng các phương án, phương pháp THA cụ thể đối với từng vụ
việc, do đó yêu cầu của hoạt động THA là phải có tính kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra... đó là những tính chất cơ bản của hoạt động quản lý


nhà nước.



Hai là, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, gắn liền với hoạt
động xét xử. Trong đó, kết quả xét xử là tiền đề của THADS, không có hoạt động
xét xử thì không có hoạt động THA. Tuy nhiên, hoạt động THA cũng có tính độc
lập tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng việc thụ lý, ra quyết
định THA của Thủ trưởng cơ quan THADS, quyết định này mang tính bắt buộc
chấp hành đối với các chủ thể có trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc
THADS. Việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm quyết định THA có
thể dẫn đến hậu quả pháp lý và bị áp dụng xử lý bằng các chế tài nhất định.
Ba là, căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết
định của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Trong một số trường hợp
mặc dù bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực nhưng vẫn được thi hành
ngay. Những bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS,
gồm: Bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; phần dân
sự trong các bản án hình sự; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam… Những bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay gồm: Bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất
việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và các quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Bốn là, trong THADS việc thuyết phục để đương sự tự nguyện THA được
coi là phương pháp chủ đạo, cần thiết và quan trọng trong quá trình giải quyết THA.
Nó tránh được việc cơ quan THA phải áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng
chế THA, làm cho vụ án có thể trở nên phức tạp, kéo dài, cũng vì thế mà mất đi tính
hiệu lực trong các phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên nếu người phải THA không tự
nguyện thi hành thì cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế THA theo quy định
của pháp luật. Đây là biện pháp đặc thù áp dụng đối với các trường hợp có điều kiện



thi hành


nhưng cố tình trốn tránh, cản trở việc THA; việc cưỡng chế có tính chất răn đe, giáo
dục họ và những người có liên quan về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.
Năm là, thỏa thuận THA là một phương thức được khuyến khích và cho phép
thực hiện trong suốt quá trình THADS, kể cả trước khi đương sự yêu cầu THA. Các
đương sự của vụ án có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, nội dung,
thời hạn, hậu quả pháp lý trong thực hiện việc THA, nếu thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả THA theo thỏa
thuận được công nhận và theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách
nhiệm chứng kiến, ghi nhận việc thỏa thuận về THA. Trường hợp đương sự không
thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần
nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định. Đặc điểm này của
THADS xuất phát từ nguyên tắc tự thỏa thuận của các bên trong giao lưu dân sự
theo quy định của pháp luật dân sự.
Sáu là, quá trình THA đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể trong việc
phối hợp chỉ đạo, xử lý giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức
THA. Đặc biệt là sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp của
các cơ quan tư pháp trong việc thi hành các bản án, quyết định có nội dung phức
tạp. Khi tham gia vào hoạt động tổ chức THA, các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ.
Bảy là, trong THA thường tồn tại ba chủ thể chính với địa vị pháp lý khác
nhau, đó là cơ quan THADS, người phải THA và người được THA. Người phải
THA và người được THA là các chủ thể có quyền, nghĩa vụ đối lập nhau, chính vì
thế đòi hỏi việc tổ chức THA phải thật sự công tâm, vô tư, khách quan nhằm bảo
đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Mặt khác cơ quan THADS

và Chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập, không cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS.
1.1.2. Vai trò của thi hành án dân sự

Thứ nhất, THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng, là công đoạn


×