Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Ảnh Hưởng Các Nguồn Đạm Vô Cơ Lên Khả Năng Thích Nghi Của Bò Và Sự Sinh Khí In Vitro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: CHĂN NUÔI - THÚ Y

Tên đề tài:

ẢNH HƯỞNG CÁC NGUỒN ĐẠM VÔ CƠ LÊN KHẢ
NĂNG THÍCH NGHI CỦA BÒ
VÀ SỰ SINH KHÍ IN VITRO

Cán bộ hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. Hồ Quảng Đồ

Phạm Navy
MSSV: 3060619
Lớp: CN K32

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của nhóm chúng tôi. Các số liệu,
kết luận trình bài trong luận văn là trung thực.

Sinh viên thực hiện:



Phạm Navy

2


LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn Ts. Hồ Quảng Đồ đã tận tình hướng dẫn và hỗ trợ kinh
phí trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Bộ môn Chăn nuôi, đặc biệt là thầy Nguyễn Văn Hớn
và cô Nguyễn Thị Hồng Nhân đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ trong suốt những năm
qua trong vai trò là cố vấn học tập; cảm ơn PGS.Ts Lê thị Mến, cô Huỳnh Thị Thu
Loan đã tạo điều kiện thuận lợi giúp chúng tôi tiến hành tốt quá trình thực hiện luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình chú Lộc, chủ trại bò Tầm Vu đã giúp đỡ chúng
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn chị Lê Thị Ngọc Huyền đã nhiệt tình hướng dẫn về lý
thuyết và thực tế thí nghiệm; và cảm ơn các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình
thực hiện luận văn.

3


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các kí hiệu, chữ viết tắt

Ý nghĩa

ABBH


Axit béo bay hơi

ADF
axit

Xơ thu được sau khi chiết bằng dung dịch tẩy

ATP

Phân tử cao năng

CF

Xơ thô

CP

Protein thô

DM

Vật chất khô

EE

Béo

NDF

Xơ thu được sau khi chiết xuất bằng dung dịch

trung tính

ME

Năng lượng trao đổi

OM

Vật chất hữu cơ

OMD

Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ

P

Xác suất thống kê

S

Lưu huỳnh

SEM

Sai số chuẩn

VCK

Vật chất khô


VSV

Vi sinh vật

rửa

4


DANH MỤC BẢNG

Bảng

Trang

Bảng 2.5

Khuyến cáo lượng nitrate sử dụng cho gia súc

10

Bảng 3.2a

Thành phần dung dịch đệm dùng trong thí nghiệm

19

Bảng 3.2b

Công thức khẩu phần cơ bản của các nghiệm thức trong thí

nghiệm in vitro

20

Công thức khẩu phần cơ bản của các nghệm thức trong thí
nghiệm in vivo

21

Bảng 3.2c
Bảng 3.2d

Sodium, Ammonium và Urê cho ăn tăng dần theo ngày trong thí
nghiệm 2
22

Bảng 4.1

Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn trong thí nghiệm

Bảng 4.2

Bảng xử lý kết quả lượng khí sinh ra ở 12h và 24h của 3 nghiệm
thức
25

Bảng 4.3a

Bảng xử lí kết quả lượng khí ước tính sinh ra ở 12h và 24h của
1Kg khẩu phần


Bảng 4.3b

24

27

Ước tính lượng khí sinh ra với lượng ăn vào thực tế
Kg DM/con/ngày

27

Bảng 4.4

Lượng thức ăn ăn vào (Kg) của các nghiệm thức

28

Bảng 4.5

Trọng lượng đầu kỳ, cuối kỳ và mức tăng trọng (Kg/con/ngày)

28

5


DANH MỤC HÌNH

Hình

Hình 2.1
Hình 2.2

Trang
Diễn biến tiêu hóa carbohydrate ở dạ cỏ
Sự chuyển hóa của Pyruvate thành các axit béo bay hơi

4

trong dạ cỏ

13

Hình 4.2a

Biểu đồ lượng khí sinh ra ở 12h của 3 nghiệm thức

25

Hình 4.2b

Biểu đồ lượng khí sinh ra ở 24h của 3 nghiệm thức

26

Hình 4.5

Biểu độ mức tăng trọng (Kg/con/ngày) của 3 nghiệm thức

29


6


TÓM LƯỢC

Thí nghiệm: “Ảnh hưởng các nguồn đạm vô cơ lên khả năng thích nghi của bò và sự
sinh khí in vitro” được tiến hành tại phòng thí nghiệm, Bộ môn Chăn nuôi, trường Đại
Học Cần Thơ và tại trại bò Tầm Vu, phường Hưng Lợi, quận Cái Răng.
Gồm 2 thí nghiệm:
* Thí nghiệm 1: theo dõi và so sánh lượng khí sinh ra với các khẩu phần bổ sung
nguồn đạm vô cơ bằng phương pháp in vitro. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn
toàn ngẩu nhiên gồm 3 nghiệm thức x 4 lần lặp lại.
 Nghiệm thức 1: Bổ sung Sodium nitrate.
 Nghiệm thức 2: Bổ sung Ammonium nitrate.
 Nghiệm thức 3: Bổ sung Urê.
* Thí nghiệm 2: ảnh hưởng của các nguồn đạm vô cơ có trong khẩu phần lên sự tăng
trưởng và khả năng chấp nhận khẩu phần của bò. Thí nghiệm được tiến hành trên 3 bò
đực lai sind, có mổ lỗ dò, trọng lượng 150 -170 Kg. Thí nghiệm bố trí theo kiểu hình
vuông Latin gồm 3 nghiệm thức x 3 lần lặp lại.
 Nghiệm thức 1: Bổ sung Sodium nitrate.
 Nghiệm thức 2: Bổ sung Ammonium nitrate.
 Nghiệm thức 3: Bổ sung Urê.
Kết quả thu được như sau:
 Khi sử dụng đạm nitrate cho thấy lượng khí sinh ra ở các khẩu phần có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê. Cho thấy sự ảnh hưởng của nitrate lên quá trình hoạt động
của vi sinh vật dạ cỏ.


Bò thích nghi tốt nếu tăng dần lượng nitrate trong khẩu phần lên.


 Có thể dùng nitrate thay thế Urê cho gia súc nhai lại, đồng thời làm giảm lượng
khí thải sinh ra.

7


CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi dưỡng gia súc nhai lại theo đúng nhu cầu của chúng không những cần thiết cho
bản thân gia súc và cho người chăn nuôi xét về mặt tài chính, mà còn dang trở thành
một ưu tiên để giảm ô nhiễm môi trường do các chất thải (phân, nước tiểu) (De
Boever et al, 1999). Nitrate có thể thay thế urê như một nguồn cung cấp ammonia cho
vi sinh vật phát triển nhưng ít được để ý đến bởi vì tác động độc của nitrate.
Theo Leng (2007), tác dụng độc của nitrate chỉ xảy ra đối gia súc nhai lại chưa thích
nghi và khi chúng được làm quen với nitrate ở nồng độ cao. Sự khử nitrate có thể
được thúc đẩy để sản sinh ammonia trong dạ cỏ, và có thể làm giảm lượng metan sản
sinh lên đến 100%.
Có nhiều vi sinh vật ở dạ cỏ có khả năng khử nitrate thành nitrite, sau đó biến thành
ammonia (Cheng et al 1997). Khả năng sử dụng nitrate có thể chuyển đổi giữa các gia
súc nhai lại (Cheng et al, 1983). Một vài loài vi sinh vật ở dạ cỏ giải phóng ammonia
thành hồ chứa ammonia dạ cỏ, nhưng một số khác sử dụng trực tiếp ammonia để tổng
hợp nên tế bào vi sinh vật (H. Kudu et al, 1989). Sự khử nitrate sẽ thúc đẩy tăng
nitrate trong khẩu phần (Alaboudi và Jones, 1985).
Việc sử dụng nitrate được tăng lên khi số lượng vi sinh được tăng lên bởi sự bổ sung
nhiều thức ăn dễ tiêu hóa như tinh bột và đường (Burrows et al, 1987). Hàm lượng
ammonia được duy trì khi nitrate bị khử. Ở hàm lượng cao nitrate trong thức ăn, có ít
hoặc không có triệu chứng gây độc của nitrate. Khi các gia súc này đã có thời gian
làm quen với nitrate.
Động vật nhai lại cho ăn thức ăn xanh có hàm lượng protein thấp có thể thay đổi bổ

sung Urêa bằng nitrate như một nguồn nitơ quan trọng của khẩu phần. Các chỉ tiêu
cần được thử nghiệm khi thay thế Urê bằng nitrate như: Lượng ăn vào, sự tăng trưởng,
sự thay đổi các thông số của môi trường dạ cỏ.
Từ những tranh luận trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng các
nguồn đạm vô cơ lên khả năng thích nghi của bò và sự sinh khí in vitro”.
Nhằm các mục tiêu sau đây:
 Ảnh hưởng các nguồn đạm vô cơ lên sự thích nghi của bò.
 Ảnh hưởng các nguồn đạm vô cơ lên sự sinh khí in vitro.

8


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1 SƠ LƯỢC GIỐNG BÒ LAI SIND
Bò lai Sind thuộc nhóm bò Zebu, được lai từ bò vàng Việt Nam với bò đực Sind dùng
để cày kéo lấy thịt và sữa.
 Bò có lông màu vàng, vàng đậm hoặc vàng cánh dán, có nhiều đặc điểm gần
giống như bò Sind.
 - Khối lượng bò cái trưởng thành 270-280Kg, bò đực 400 - 450Kg. Sản lượng
sữa 1200 - 1400Kg/chu kỳ 240 - 270 ngày, tỷ lệ mỡ sữa 5 - 5,5%. Tỷ lệ thịt xẻ 48 49%. Bê sơ sinh nặng 18 - 22Kg, so với bò vàng Việt Nam, bò lai Sind có khối lượng
tăng 30 - 35%, sản lượng sữa tăng gấp 2 lần, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%.
 Dùng bò đực lai Sind lai với bò vàng Việt Nam cũng có thể nâng cao tầm vóc,
khối lượng và khả năng sản xuất của đàn bò địa phương. Bò lai Sind có khả năng thích
nghi rộng rãi ở mọi miền đất nước.
2.2 ĐẶC ĐIỂM TIÊU HÓA CỦA LOÀI NHAI LẠI
Đường tiêu hoá của gia súc nhai lại được đặc trưng bởi hệ dạ dày kép gồm 4 túi, trong
đó ba túi trước (dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách) được gọi chung là là dạ dày trước, không
có tuyến tiêu hoá riêng. Túi thứ 4, gọi là dạ múi khế, tương tự như dạ dày của động
vật dạ dày đơn, có hệ thống tuyến tiêu hoá phát triển mạnh. Đối với gia súc non bú

sữa dạ cỏ và dạ tổ ong kém phát triển, còn sữa sau khi xuống qua thực quản được dẫn
trực tiếp xuống dạ lá sách và dạ múi khế qua rãnh thực quản. Rãnh thực quản gồm có
đáy và hai mép. Hai mép này khi khép lại sẽ tạo ra một cái ống để dẫn thức ăn lỏng.
Khi bê bắt đầu ăn thức ăn cứng thì dạ cỏ và dạ tổ ong phát triển nhanh và đến khi
trưởng thành thì chiếm đến khoảng 85% tổng dung tích dạ dày nói chung. Trong điều
kiện bình thường ở gia súc trưởng thành rãnh thực quản không hoạt động nên cả thức
ăn và nước uống đều đi thẳng vào dạ cỏ và dạ tổ ong.
- Dạ cỏ: là túi lớn nhất, chiếm hầu hết nửa trái của xoang bụng, từ cơ hoành đến
xương chậu. Dạ cỏ chiếm 85-90% dung tích dạ dày, 75% dung tích đường tiêu hoá, có
tác dụng tích trữ, nhào trộn và chuyển hoá thức ăn. Dạ cỏ không có tuyến tiêu hoá mà
niêm mạc có nhiều núm hình gai. Sự tiêu hoá thức ăn trong đó là nhờ hệ VSV cộng
sinh. Dạ cỏ có môi trường thuận lợi cho VSV lên men yếm khí: yếm khí, nhiệt độ
tương đối ổn định trong khoảng 38-42oC, pH từ 5,5-7,4. Hơn nữa dinh dưỡng được bổ
sung đều đặn từ thức ăn, còn thức ăn không lên men cùng các chất dinh dưỡng hoà tan
và sinh khối VSV được thường xuyên chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hoá.
Có tới khoảng 50-80% các chất dinh dưỡng thức ăn được lên men ở dạ cỏ. Sản phẩm
lên men chính là các ABBH, sinh khối VSV và các khí thể (metan và cácbônic). Phần
lớn ABBH được hấp thu qua vách dạ cỏ trở thành nguồn năng lượng chính cho gia súc
nhai lại. Các khí thể được thải ra ngoài qua phản xạ ợ hơi. Trong dạ cỏ còn có sự tổng
9


hợp các vitamin nhóm B và vitamin K. Sinh khối VSV và các thành phần không lên
men được chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hoá.
- Dạ tổ ong: là túi nối liền với dạ cỏ, niêm mạc có cấu tạo giống như tổ ong. Dạ tổ ong
có chức năng chính là đẩy các thức ăn rắn và các thức ăn chưa được nghiền nhỏ trở lại
dạ cỏ, đồng thời đẩy các thức ăn dạng nước vào dạ lá sách. Dạ tổ ong cũng giúp cho
việc đẩy các miếng thức ăn lên miệng để nhai lại. Sự lên men và hấp thu các chất dinh
dưỡng trong dạ tổ ong tương tự như ở dạ cỏ.
- Dạ lá sách: là túi thứ ba, niêm mạc được cấu tạo thành nhiều nếp gấp (tương tự các

tờ giấy của quyển sách). Dạ lá sách có nhiệm vụ chính là nghiền ép các tiểu phần thức
ăn, hấp thu nước, muối khoáng và các a-xit béo bay hơi trong dưỡng chấp đi qua.
- Dạ múi khế: là dạ dày tuyến gồm có thân vị và hạ vị. Các dịch tuyến múi khế được
tiết liên tục vì dưỡng chấp từ dạ dày trước thường xuyên được chuyển xuống. Dạ múi
khế có chức năng tiêu hoá men tương tự như dạ dày đơn nhờ có HCl, pepsin, kimozin
và lipaza.
Nước bọt ở trâu bò được phân tiết và nuốt xuống dạ cỏ tương đối liên tục. Nước bọt
có kiềm tính nên có tác dụng trung hoà các sản phẩm axit sinh ra trong dạ cỏ. Nó còn
có tác dụng quan trọng trong việc thấm ướt thức ăn, giúp cho quá trình nuốt và nhai
lại được dễ dàng. Nước bọt còn cung cấp cho môi trường dạ cỏ các chất điện giải như
Na+, K+, Ca++, Mg++. Đặc biệt trong nước bọt còn có urê và phốt-pho, có tác dụng
điều hoà dinh dưỡng N và P cho nhu cầu của VSV dạ cỏ, đặc biệt là khi các nguyên tố
này bị thiếu trong khẩu phần.
Sự phân tiết nước bọt chịu tác động bởi bản chất vật lý của thức ăn, hàm lượng vật
chất khô trong khẩu phần, dung tích đường tiêu hoá và trạng thái tâm-sinh lý. Trâu bò
ăn nhiều thức ăn xơ thô sẽ phân tiết nhiều nước bọt. Ngược lại trâu bò ăn nhiều thức
ăn tinh, thức ăn nghiền quá nhỏ sẽ giảm tiết nước bọt nên tác dụng đệm đối với dịch
dạ cỏ sẽ kém và kết quả là tiêu hoá thức ăn xơ sẽ giảm xuống.
Quá trình tiêu hoá và hấp thu ở ruột non của gia súc nhai lại cũng diễn ra tương tự như
ở gia súc dạ dày đơn nhờ các men tiêu hoá của dịch ruột, dịch tuỵ và sự tham gia của
dịch mật. Trong ruột già có sự lên men VSV lần thứ hai. Sự tiêu hoá ở ruột già có ý
nghĩa đối với các thành phần xơ chưa được phân giải hết ở dạ cỏ. Các ABBH sinh ra
trong ruột già được hấp thu và sử dụng, nhưng protein VSV thì bị thải ra ngoài qua
phân mà không được tiêu hoá sau đó như ở phần trên.
2.2.1. Tiêu hóa carbohydrate
Quá trình tiêu hóa carbohydrate ở dạ cỏ có thể chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn thứ
nhất là tiêu hóa các carbohydrate phức tạp thành các carbohydrate đơn giản do tác
dụng của các enzyme vi sinh vật ngoại bào thực hiện.

10



Cellulose

Tinh bột

Cellobiose

Maltose

Glucose-1-phosphate

Isomaltose

Glucose
Glucose-6-phosphate

Pectin

Uronic acid
Frustose-6-phosphate

Hemicellulose

Fructose

Fructanse

Pentose
Fructose-1,6-diphosphate


Pentosan
Pyruvice Acid
Hình 2.1: Diễn biến tiêu hóa carbohydrate ở dạ cỏ

Glucose, fructose tiến tục bị phân giải tạo các sản phẩm chính của quá trình lên men là
acid acetic, acid propionic, acid butyric, CO2, và CH4. Các acid pyruvic, succinic,
lactic là những sản phẩm trung gian quan trọng, thỉnh thoảng cũng phát hiện ra acid
lactic trong dạ cỏ.
Acid chủ yếu là acid acetic, khẩu phẩn cao chất xơ làm gia tăng hỗn hợp acid đặc biệt
là acetic. Khi tỉ lệ thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần cao, tỉ lệ acid acetic sẽ giảm lại và
acid propionic sẽ tăng lên. Với khẩu phần hầu như hoàn toàn là thức ăn hỗn hợp, có lẽ
nồng độ acid propionic hầu như vượt quá acid acetic. Khi khẩu phần chỉ toàn thức ăn
thô khô được nghiền mịn hoặc đóng viên không ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ acid béo bay
hơi sản sinh.
Phần lớn các acid sản sinh được hấp thu vào dạ cỏ, tổ ong, lá sách chỉ có một số thoát
qua vào dạ múi khế và được hấp thu ở ruột non.
Tỉ lệ khí sản sinh rất lớn và nhanh, ngay sau bữa ăn một con bò có thể sản sinh hơn 30
lít khí/ giờ gồm CO2 40%, CH4 30-40%, H2 5% và một lượng nhỏ O2 và N2 từ không
khí. Các chất khí sẽ thoát ra ngoài theo đường ợ hơi, nếu chất khí tích tụ gây hiện
tượng chướng hơi dạ cỏ và con vật suy sụp có thể chết.
Giai đoạn thứ 2 tương tự sự tiêu hóa của thu không nhai lại, tiêu hóa carbohydrate đơn
giản do các enzyme của con vật.
Sự tiêu hóa carbohydrate phần lớn phụ thuộc vào lignin và cutin, chúng đề kháng với
sự tấn công của vi sinh vật. Lignin gây cản trở cho sự phân giải celuulose mà nó kết
11


hợp. Tỉ lệ acid béo bay hơi phụ thuộc vào tỉ lệ thức ăn tinh, thô trong khẩu phần cũng
như loại thức ăn và hình thức thức ăn (Lưu Hữu Mãnh, 1999).

2.2.2 Tiêu hóa protein
Protein của thức ăn được các vi sinh vật phân giải thành các peptid và amino acid, một
số amino acid còn được phân giải xa hơn tạo thành các acid hữu cơ, ammonia và CO2.
Những amino mạch phân nhánh tìm thấy trong dịch dạ cỏ dẫn xuất từ amino acid. Các
amino acid được sản sinh, cùng với các peptid và các amino acid tự do lại bị các vi
sinh vật sử dụng để tổng hợp thành protein của vi sinh vật. Khi các vi sinh vật đi đến
dạ múi khế và ruột non sẽ bị tiêu hóa và hấp thu ở đó, một đặc điểm quan trọng trong
việc hình thành protein vi sinh vật là vi khuẩn có khả năng tổng hợp các acid amin
giới hạn thành các acid amin không giới hạn, như vậy chúng cung cấp cho vật chù
nguồn protein khác với protein của khẩu phần. Ở điểm này đủ để nhấn mạnh rằng
phần lớn protein tiến đến ruột non của thú nhai lại sẽ là protein của vi sinh vật theo
một thành phần hợp lý ổn định, phần protein còn lại ít hơn là protein của thức ăn
không phân giải, thành phần acid amin thay đổi tùy theo đặc tính tự nhiên của khẩu
phần.
Các ammonia dịch dạ cỏ giống như chìa khóa trung gian trong sự phân giải và tổng
hợp protein. Nếu khẩu phần thấp protein hoặc protein đề kháng với sự phần giải thì
ammonia của dịch dạ cỏ sẽ thấp (50mg/L) và sự tăng trưởng của vi sinh vật sẽ kém,
hậu quả là sự phân giải cellulose sẽ bị đình trệ. Ngược lại nếu quá trình phân giải
protein nhanh hơn tổng hợp, ammonia sẽ tích tụ trong dạ cỏ với nồng độ quá cao. Khi
điều này xảy ra thì ammonia sẽ hấp thu vào máu, chuyên chở đến gan và chuyển đổi
thành urê một phần urê này sẽ đưa ngược trở lại dạ cỏ bằng con đường của tuyến nước
bọt, trực tiếp đi qua vách tế bào, phần lớn sẽ bị bài tiết trong nước tiểu và như thế là
lãng phí. Nồng độ tối hảo của ammonia trong dạ cỏ rất thay đổi, từ 85 – 300mg/L.
Nếu thức ăn cung cấp protein kém thì nồng độ của các vi sinh vật trong dạ cỏ thấp, số
lượng nitrogen trở ngược về dạ cỏ bằng dạng ammonia từ máu nhiều hơn lượng
ammonia hấp thu từ dạ cỏ. Như vậy, số protein tiến tới ruột lớn hơn lượng protein
trong thức ăn. Bằng cách này thú nhai lại có thể bảo tồn lượng nitrogen bằng cách
chuyển hóa urê về dạ cỏ, nếu không lượng urê sẽ bị thải trong nước tiểu.
2.2.3 Sử dụng đạm phi protein ở gia súc nhai lại
Vi sinh vật có khả năng chuyển hóa các hợp chất đạm phi protein thành protein. Vì

vậy các hợp chất đạm vô cơ có thể đưa vào khẩu phần thú nhai lại, urê được dung phổ
biến, các dẫn xuất khác của urê ngay cả muối ammonium cũng được sử dụng.
Urê đi vào dạ cỏ được thủy giải nhanh chóng thành ammonia bởi enzyme Urêase của
vi khuẩn tạo thành ammonia dịch dạ cỏ. Để ammonia này kết hợp thành protein vi
khuẩn có hiệu quả thì phải có 2 điều kiện: (1) nồng độ ammonia ban đầu phải thấp
hơn so với nhu cầu. (2) hệ vi sinh vật phải có một nguồn năng lượng sẵn có để tổng
hợp protein. Trong thực tế nuôi dưỡng, để đáp ứng những điều kiện trên bao gồm việc
trộn urê với thức ăn có sự phân giải protein ở dạ cỏ kém và lên men carbohydrate cao
(Lưu Hữu Mãnh, 1999).
12


2.2.4 Tổng hợp vitamin
Hệ vi sinh vật dạ cỏ có thể tổng hợp tất cả các vitamin nhóm B và vitamin K. Thức ăn
ăn vào chỉ cung cấp một lượng nhỏ vitamin B cho con vật. Lượng vitamin được tạo ra
trong dạ cỏ lớn hơn nhiều lượng vitamin có trong thức ăn.
Thức ăn canh hang ngày có chứa một lượng lớn thiamine, riboflavin và nicotinic acid.
Hẩu hết thiamin bị hòa tan, riboflavin, nicotinic acid, floci acid và vitamin B12 chiếm
một lượng lớn trong tế bào và được hấp thu một ít trên bề mặt dạ cỏ.
Có một cái hay ở đây là sự thiết lập liên kết giữa sự thiếu vitamin B với sự thiếu
cobalt trong khẩu phần tạo thành một nhóm cyanocobalamin giả được biết như
vitamin B12. Thiếu cobalt dẫn đến thiếu vitamin B12 làm cho con vật chán ăn, chậm
lớn ở gia súc non.
2.3 ĐIỀU HÒA HOẠT ĐỘNG CỦA VI SINH VẬT DẠ CỎ
Dạ cỏ ở gia súc nhai lại được ví như một cái thùng lên men yếm khí có hiệu quả cao,
nó được đặt ngay tại phần đầu của ống tiêu hoá. Nhờ có dạ cỏ sử dụng nitơ phi protein
để tổng hợp vật chất vi sinh vật mà gia súc nhai lại không cạnh tranh với con người về
lương thực, thực phẩm.
Vì sự có mặt của một quần thể vi sinh vật phong phú và phức tạp ở trong dạ cỏ, gia
súc nhai lại có nhiều chức năng tiêu hoá khác như có độ mẫn cảm thấp đối với các độc

tố thực vật, có khả năng sử dụng các chất khoáng vô cơ. Các thành phần của thức ăn
không được tiêu hoá ở dạ cỏ và các vật chất vi sinh vật được tổng hợp trong dạ cỏ sau
đó được qua quá trình tiêu hoá ở múi khế và ruột non và thêm tiêu hoá vi sinh vật ở
ruột già. Quá trình tiêu hoá này giải thích vì sao gia súc nhai lại được trang bị tốt hơn
gia súc dạ dày đơn và các động vật ăn cỏ khác để sử dụng những khẩu phần dựa trên
thức ăn thô. Tuy nhiên lượng thức ăn thô ăn vào bị ảnh hưởng lớn bởi tốc độ phân giải
và vì vậy hiệu quả sử dụng thức ăn được xác định chính bởi hiệu quả của hoạt động vi
sinh vật trong dạ cỏ.
Sự cường độ hoá chăn nuôi đã thúc đẩy các nhà khoa học tìm kiếm các biện pháp để
cải thiện sự sử dụng thức ăn và nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được
tiến hành trong suốt? hai thập kỷ qua. Các thí nghiệm xử lý thức ăn (bằng hoá, lý học
để tăng phân giải thành tế bào, giảm phân giải protein và tinh bột do vi sinh vật) để
điều hoà tiêu hoá (mức độ tiêu hoá, vị trí trong đường tiêu hoá, tiêu hoá vi sinh vật
hay tiêu hoá nội sinh). Các loại phụ gia thức ăn khác nhau cũng được thử nghiệm để
điêù hoà hoạt động vi sinh vật.
(Theo J.P. Jouany-INRA)

13


2.4 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG THỨC ĂN
2.4.1 Đánh giá chất lượng thức ăn thô bằng tỉ lệ tiêu hóa invivo
Qui trình và cách tính toán của nó được trình bày bởi nhiều tác giả khác nhau và được
mô tả chung nhất trong tài liệu của McDonald el at (2002). Kỹ thuật xác định tỉ lệ tiêu
hóa ở invivo được áp dụng rộng rãi hiện nay là thu gom toàn bộ lượng thức ăn ăn vào
và lượng phân thải ra hàng ngày hoặc sử dụng chất chỉ thị trộn vào thức ăn cho gia súc
ăn sau đó xác định nồng độ chất chỉ trong phân để tính tỉ lệ tiêu hóa. Kỹ thuật ghi
nhận và lấy mẫu thức ăn ăn vào và phân thải ra hàng ngày đòi hỏi có nhiều công lao
động, thời gian và chi phí thức ăn.
Nhưng kỹ thuật này được chấp nhận cao dùng để xác định tỉ lệ tiêu hóa, tính năng

lượng trao đổi của thức ăn và được xem như là kỹ thuật nền tảng để đánh giá các kỹ
thuật khác.
2.4.2 Đánh giá chất lượng thức ăn thô bằng tỉ lệ tiêu hóa invitro
Sự tiêu hóa thức ăn ở gia súc nhai lại có thể phân chia ra làm hai giai đoạn chính là sự
tiêu hóa sinh học diễn ra ở dạ cỏ - dạ tổ ong và sự tiêu hóa hóa học diễn ra ở dạ múi
khế - ruột non, mặc dù có dù có một phần tiêu hóa xảy ra ở ruột sau nhưng không
đáng kể (Omed el at,2000). Phỏng theo nguyên lý này, kỹ thuật xác định tỉ lệ tiêu hóa
ở invitro được chia ra làm hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên là tiêu hóa với hệ vi sinh
vật dạ cỏ (Tilley và Terry, 1963; Goering và Van Soest, 1970), và giai đoạn tiêu hóa
thứ hai là với pepsin (Tilley và Terry, 1963) hoặc sự tẩy rửa của dung dịch tẩy trung
tính (Goering và Van Soest, 1970).
Tuy nhiên kỹ thuật này cần sử dụng nhiều loại hóa chất làm nguồn dưỡng chất cho vi
sinh vật phát triển còn khan hiếm và đắt tiền, đồng thời phải mổ lỗ dò để lấy dịch dạ
cỏ làm nguồn vi sinh vật. Do vậy kỹ thuật tiêu hóa invitro truyền thống cần được
nghiên cứu và cải tiến.
2.4.3 Đánh giá chất lượng thức ăn thô bằng sinh khí in vitro
Phương pháp sinh khí in vitro ra đời dựa trên nền tảng của in vitro Tilley và Terry
(1963), sự tiêu hóa vi sinh vật dạ cỏ có thể quan sát được trong điều kiện ống nghiệm
dưới sự tham gia của vi sinh vật dạ cỏ trong môi trường nước bọt nhận tạo của
McDougall (1948). Kết quả của sự lên men này có thể được quan sát từ thức ăn còn
lại sau khi được tiêu hóa ở phương pháp in vitro Tilley và Terry (1963) hoặc từ sản
phẩm sinh ra của sự tiêu hóa ở phương pháp sinh khí in vitro của Menke et al. (1979).
Mặc dù phương pháp in vitro của Tilley và Terry (1963) đã được đánh giá và cho thấy
có nhiều thuận lợi trong ước lượng thức ăn như ít tốn chi phí, nhanh nhưng nó vẫn có
những hạn chế nhất định: 1) yêu cầu phải có gia súc để cung cấp dịch dạ cỏ; 2) cách
đo lường vật chất không bị tiêu hóa phức tạp có thể dẫn đến sai số lớn, đặc biệt các
loại thức ăn có chứa tannin cao, do tannin có thể tan trong môi trường ủ của in vitro
nhưng đây lại là thành phần không thể tiêu hóa (Makkar, 2004). Từ những hạn chế
trên El Shaer et al. (1987) đã đề nghị sử dụng phân làm nguồn vi sinh vật thay thế cho
14



dịch dạ cỏ trong phương pháp tiêu hóa in vitro và Menke et al. (1979) giới thiệu
phương pháp sinh khí in vitro, thay thế cho việc đo trọng lượng trong phương pháp in
vitro Tilley và Terry (1963) bằng sự đo lượng khí sinh ra từ sự lên men. Từ đó sinh
khí in vitro được ra đời bởi Menke et al. (1979).
Menke et al (1979) đã phát triển kỹ thuật sinh khí (in vitro gas production) để đánh
giá giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn. Kỹ thuật này phát hiện được các sai khác
nhỏ trong một số loại thức ăn và cho phép lấy mẫu lặp lại thường xuyên hơn so với
các phương pháp xác định tỷ lệ tiêu hóa in vitro (De Peters et al, 2003).
 Mô tả chung
Nguyên lý hoạt động của sinh khí in vitro cũng tương tự như phương pháp in vitro
Tilley và Terry (1963). Thức ăn được ủ trong môi trường dịch dạ cỏ có chất đệm yếm
khí ở 39oC, sẽ được tiêu hóa bởi vi sinh vật dạ cỏ. Sau khi bắt đầu ủ, thức ăn được tiêu
hóa sinh ra các acid béo bay hơi và một lượng khí là CO2, CH4, H2. Acid béo bay hơi
giải phóng kích thích chất đệm sinh khí và đo lường được trong hệ thống sinh khí in
vitro. Lượng khí sinh ra trong hệ thống sinh khí in vitro có thể được ghi nhận qua một
hay nhiều thời điểm khác nhau. Sự sinh khí này được xem như là sản phẩm hoạt động
tiêu hóa thức ăn của vi sinh vật dạ cỏ và phản ánh được khả năng tiêu hóa của mỗi loại
thức ăn.
 Nguyên lý sinh khí
Khi thức ăn được ủ trong môi trường in vitro, sẽ được chuyển thành các acid béo bay
hơi, khí (CO2 và CH4) và tế bào vi sinh vật. Trong môi trường in vitro có chất đệm
bicarbonate, khi acid béo bay hơi sinh ra lập tức CO2 được giải phóng để ổn định pH.
Như vậy lượng khí sinh ra trong hệ thống sinh khí in vitro bao gồm khí sinh ra trực
tiếp từ sự lên men là CO2, CH4, H2, và khí sinh ra gián tiếp từ sự lên men là CO2. Đối
với thức ăn thô, khoảng 50% khí sinh ra từ chất đệm và phần còn lại là lượng khí sinh
ra trực tiếp từ quá trình lên men (Blümmel và Ørskov, 1993). Còn đối với thức ăn hỗn
hợp, khí sinh ra từ chất đệm khoảng 60% (Getachew et al., 1998).
Người ta thấy rằng mỗi mmol acid béo bay hơi sinh ra sẽ giải phóng khoảng 0,8-1,0

mmol CO2 từ dung dịch đệm và điều này còn phụ thuộc vào hàm lượng phosphate
hiện diện trong dung dịch đệm (Beuvick và Spoelstra, 1992; Blümmel và Ørskov,
1993). Đặc biệt lượng khí sinh ra có mối tương quan cao với acid béo bay hơi và từ đó
người ta xem lượng khí sinh ra như là một chỉ thị để đo lường sản phẩm sinh ra từ quá
trình lên men trong kỹ thuật sinh khí in vitro (Blümmel và Ørskov, 1993). Lượng khí
sinh ra còn phụ thuộc vào thành phần dưỡng chất của thức ăn, thức ăn chứa nhiều
carbohydrate có lượng khí sinh ra cao. Rong khi sự lên men của đạm giải phóng khí
chỉ với lượng nhỏ khí sinh ra từ sự lên men béo thì không đáng kể (Makkar, 2004).
 Vai trò của sinh khí in vitro
Phương pháp in vitro sinh khí đã được sử dụng rộng rãi để ước lượng giá trị dinh
dưỡng thức ăn. Phương pháp in vitro sinh khí được sử dụng để dự đoán nhiều chỉ tiêu
khác nhau trong đánh giá thức ăn. Menke el al, (1979) lần đầu tiên đề xuất và sử dụng
in vitro sinh khí để dự đoán tỉ lên tiêu hóa in vivo và năng lượng trao đổi (ME). Gần
đây hơn người ta quan tâm nhiều đến hiệu quả sử dụng thức ăn thô của gia súc. Cho
nên kỹ thuật in vitro sinh khí được nghiên cứu để ứng dụng trong việc xác định động
15


lực tiêu hóa thức ăn với ưu điểm nhanh và tiện nghi hơn. Tham số quan trọng hơn cả
để diễn tả khả năng sử dụng thức ăn là mức tiêu thụ thức ăn, tham số này cũng có thể
được dự đoán từ in vitro sinh khí (Getachew et al., 1998). Phương pháp in vitro sinh
khí còn được dùng để dự đoán các chất kháng dưỡng có trong thức ăn (Makkar, 2004).
Dựa vào kết quả lượng khí khí sinh ra có mối liện hệ rất gần với acid báo bay hơi,
người ta thiệt lập được phương trình hồi qui để dự đoán acid béo bay hơi trong dạ cỏ
(Blümmel et al., 1999). Nhìn chung phương pháp in vitro sinh khí như là một dụng cụ
hữu hiệu để dự đoán các chỉ số dinh dưỡng thức ăn gia súc nhai lại, phương pháp này
dự đoán được nhiều tham số phản ánh được giá trị dinh dưỡng thức ăn khác nhau.
2.5 SỰ NGỘ ĐỘC NITRATE
Trong một số điều kiện, các loại cây trồng như ngô, lúa, mì, mạch. . . chứa lượng lớn
nitrat trong thân lá vượt quá giới hạn cho phép. Bò sữa ăn các loại thức ăn này sẽ dẫn

đến sự thu nhận khối lượng lớn như nitrat trong một thời gian ngắn, mặc dù động vật
nhai lại có thể sử dụng nitrat như là nguồn nitơ phi protein, nhưng với mức độ quá cao
của nitrat, một phần nitrat sẽ bị khử thành nitrit. Nitrit độc hơn nitrat, khi chúng được
hấp thu vào máu, nitrat sẽ chuyển hemoglobin thành methemoglobin, hợp chất này
mất khả năng vận chuyển oxy đến mô bào. Nếu hemoglobin chuyển thành
methemoglobin đủ lớn, động vật sẽ không đủ oxy, gây nên triệu chứng khó thở, thở
gấp, mệt nhọc, đi đứng loạng choạng, nếu độc tố cao, bò sẽ chết trong vòng 1-4 giờ
sau khi triệu chứng xuất hiện. Xúc động, vận động nhiều, các điều kiện stress mạnh sẽ
làm tăng thêm tình trạng nguy kịch của bệnh.
Sự ngộ độc nitrate đã được nhiều tác giả thông báo ở USA như Newson, Stout, Thorp,
and Groth (1937), kế đến Bradley, Eppson và Beath (1939) và họ cho rằng có thể tạo
nên sự ngộ độc nitrate bằng cách cho ăn rơm có nhiễm nitrate. Phân tích những mẫu
nhiễm độc cho thấy hàm lượng nitrate chiếm khoảng 3,2 – 7,2% (vật chất khô). Tuy
nhiên theo Leng (2007), tác dụng độc của nitrate chỉ xảy ra đối với gia súc nhai lại
chưa thích nghi và khi chúng được làm quen với nitrate ở nồng độ cao.
* Các triệu chứng ngộ độc nitrate trên bò
Ngộ độc cấp tính: Sau khi ăn thức ăn nhiễm nitrate cao từ 30 phút đến 8 giờ thì xuất
hiện các triệu chứng ngộ độc tùy theo lượng nitrate nhiễm. Những triệu chứng biểu
hiện ra bên ngoài như sau:
 Các niêm mạc màng nhầy tím tái.
 Hô hấp rất khó khăn, thở gấp, tiếng thở ồ ồ.
 Chảy nước bọt, xùi bọt mép.
 Cơ thể run bần bật, choáng váng, sợ hãi, hoảng hốt.
 Đi đứng loạng choạng, thường xuyên đi tiểu.
 Nhiệt độ cơ thể giảm, mất cảm giác phương hướng.
 Sau cùng suy nhược, hôn mê, liệt hô hấp, liệt tim và chết. Khi chết máu có màu
đỏ đen.

16



Ngộ độc cấp tính xảy ra rất nhanh, đôi khi thú chết trước khi quan sát triệu chứng ngộ
độc.
Ngộ độc mạn tính: Triệu chứng lâm sàng của loại ngộ độc mạn tính rất khó quan sát.
Tình trạng chung là suy giảm tăng trọng, sức sản xuất sữa thấp, giảm tính ngon miệng
với thức ăn, rất nhạy cảm với bệnh truyền nhiễm. Ngộ độc mạn tính còn có thể gây ra
trở ngại trên bò có chửa 100 ngày đầu, trứng không bám chặt được trong tử cung, gây
chết phôi. Bò cái có chửa 3 tháng cuối nhiễm độc nitrate sẽ đẻ non, phổ biến nhất là bê
con sinh ra 18 -24 giờ thì chết.
Có rất nhiều tác giả đề cập đến liều lượng nitrate an toàn với thú nhai lại. Như theo
Dan Undersander, Dave Combs (2001): Lượng ni- trate ăn vào hàng ngày (g/Kg thể
trọng) được khuyến cáo như bảng sau đây (tin đăng trên Báo nông nghiệp số 59 ra
ngày 23/3/2004)
Bảng 2.5 Khuyến cáo lượng nitrate sử dụng cho gia súc
NO3
<0,214
0,214 - 0,429
0,429 - 0,643
0,643 - 1,48
>1,248

Lời khuyên
Mức ăn vào hàng ngày an toàn
An toàn cho đa số động vật. Có thể gây nguy hiểm cho thú mang thai và
thú rất nhỏ
Nguy hiểm tiềm tàng với thú mang thai và thú non. Có thể làm sinh trưởng
chậm, sảy thai và giảm sức sản xuất sữa
Mức nguy hiểm cho tất cả động vật. Giảm tính ngon miệng, gây thiếu
vitamin A, sảy thai và giảm sức sản xuất sữa
Gây ngộ độ tích luỹ cho nhiều loại động vật


2.6 QUÁ TRÌNH TRAO ĐỔI NITRATE Ở DẠ CỎ
Hàm lượng ammonia tăng lên sau khi cho ăn (McDonald, 1948), có sự ảnh hưởng
tăng giá trị ammonia khi cho cừu uống nitrate ngay khi ăn, cũng cùng tác giả năm
1949 cho rằng hàm lượng ammonia tương đối không đổi như một hằng số trước khi
cho ăn. Điều này cho thấy, cho phép chúng ta có thể đánh giá được sự thành lập
ammonia từ nitrate. Theo Lewis (1950) khi bổ sung nitrate cho gia súc có sự giảm
nitrate rất nhanh trong dạ cỏ, trùng khớp với sự sản sinh nitrite. Trong môt thí nghiệm
khác cho thấy hàm lượng ammonia tăng sau 5 -7 giờ sau khi cho gia súc sử dụng
nitrate, điều này có lẽ do bổ sung nitrate kích thích sản sinh ammonia hoặc là sự biến
đổi nitrate thành ammonia.
Theo Jones (1972); Takahashi và Young (1991) nitrate khử methan nhờ hệ vi sinh vật
dạ cỏ. Điều này là do giảm 1mol điện tử ở nitrate cho ammonia được 8 mol điện tử,
chẳng hạn như hydrogen (Richardson và Watmough, 1999). Được mô tả ở hai phương
trình sau:
4H2 + HCO3- + H+ → CH4 + 3 H2O; ∆G0’ = -175 kJ/ phản ứng
(Conrad và Wetter, 1990)
17


NO3- + 2H+ + 4H2 → NH4+ + 3H2O; ∆G0’ = -598 kJ/ phản ứng
(Allison và Reddy, 1984).
2.7 SỬ DỤNG ĐẠM PHI PROTEIN Ở GIA SÚC NHAI LẠI
Ammonia trong dạ cỏ chủ yếu được cung cấp qua việc giảm protein trong khẩu phần,
có khoảng 30% nitrogen trong thức ăn ở dạng hợp chất hữu cơ đơn giản như amino
acid, amides và amines hoặc hợp chất vô cơ như nitrates. Trong thực tế nó có thể lợi
dụng khả năng của hệ vi sinh vật dạ cỏ để biến đạm phi protein thành protein. Chất
nền chủ yếu là Urê, các dẫn xuất khác của Urê và muối amonium cũng được sử dụng.
Urê đi vào dạ cỏ được thủy giải nhanh chóng thành ammonia bởi enzym Urêase của vi
khuẩn và ammonia dạ cỏ vì vậy có thể được tăng lên. Để ammonia này kết hợp thành

protein vi khuẩn có hiệu quả thì phải có hai điều kiện, một là ammonia ban đầu phải ở
điều kiện tốt nhất, tức là nồng độ ammonia ban đầu phải thấp hơn so với nhu cầu. Hai
là hệ vi sinh vật phải luôn có nguồn năng lượng sẵn sàng cho sự tổng hợp protein.
Việc bổ sung Urê làm tăng hiệu quả tiêu hóa lên men và kích thích khả năng tiêu hóa
thức ăn. Nếu cho bò ăn rơm đơn điệu thì khả năng tiêu hóa chất khô là 39%, lượng
rơm ăn được cũng chỉ 5,6 Kg/ngày (Leng, 1984). Nếu cho ăn rơm có bổ sung Urê
100g/ngày thì hai chỉ tiêu trên tương ứng là 47% và 7,9 Kg (Cương, 1994).
Tác dụng của việc bổ sung Urê vào khẩu phần chỉ có rơm, cỏ đã góp phần điều chỉnh
sự thiếu hụt nitơ trong dạ cỏ, do đó làm tăng tỉ lệ tiêu hóa, tăng lượng rơm tiêu thụ và
tăng lượng protein vi sinh vật.

2.8 CÁC SẢN PHẨM TIÊU HÓA
Sản phẩm chánh của lên men carbohydrate là các axid béo bay hơi (ABBH), năng
lượng ATP, nước và khí thải CO2, metan (Preston và Leng, 1991) được tóm tắt như
sau:
Hexose

2Pyruvate + 4NADPH +2ATP

2Pyruvate + 2H2

2 Acetate + 2CO2 +2H2 + 2ATP

2Pyruvate + 8[H]

2 Propionate + 2H2O + 2ATP

2Pyruvate + 4[H]

Butyrate + 2H2 + 2CO2 + 2ATP


4H2 + CO2

CH4 + 2H2O + ATP

Ngoài các sản phẩm ấy còn có sản phẩm gián tiếp là sinh khối vi sinh dạ cỏ
Hexose

1.24Acetate + 0.24Propionate + 0.12Butyrate +

0.38CH4 + 52g tế bào vi sinh khô
18


Có đến 60% năng lượng tiêu hóa đến từ ABBH và khoảng 30% từ tế bào vi sinh vật
còn lại là từ thành phần khác.
ABBH được hấp thu bằng khuếch tán vào vách dạ cỏ và tổ ong và được tế bào biểu
mô hai túi này biến dưỡng (Võ Ái Quốc, 2006).

19


Pyruvate
Formate

CO2

Methane

Acetyl coemzyme A


Malonyl
CoA

H2

Acetyl phosphate

Acetoacetyl CoA

Β-Hydroxybutyryl CoA

Crotonyl CoA

Lactate

Oxalacetate

Lactyl CoA

Malate

Acrylyl CoA

Fumarate

Propionyl CoA

Methylmalonyl CoA


Succinate

Butyryl CoA

Acetate

Butyrate

Propionate

Hình 2.2 Sự chuyển hóa của Pyruvate thành các axid béo bay hơi trong dạ cỏ
20


2.9 THỨC ĂN THÍ NGHIỆM VÀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC
2.9.1 Rơm lúa (rice straw)
Rơm lúa là loại phụ phẩm nông nghiệp có ở khắp các vùng trồng lúa, giá trị dinh dưỡng
thấp chủ yếu là chất xơ. Hàm lượng protein trong rơm lúa từ 25-40 g/1Kg chất khô.
Rơm lúa có hàm lượng lignin tương đối cao, chiếm 60-70g/Kg chất khô, hàm lượng
khoáng rất cao 170g/Kg chất khô, trong đó chủ yếu là silic, vì vậy hệ số tiêu hóa của rơm
lúa rất thấp. Tỷ lệ tiêu hóa của rơm sẽ được tăng lên nếu thông qua xử lý rơm rạ bằng
phương pháp kiềm hóa, axit hóa hay amoniac hóa....
Thành phần hóa học cơ bản của rơm rạ phụ thuộc nhiều đến đặc tính sinh lý, thời điểm
thu hoạch, độ thành thục của cây trồng và chế độ dinh dưỡng của đất ... Nhưng nhìn
chung các thành phần chính bao gồm:
Tỷ lệ cao của cacbonhydrat thành vách tế bào như cellulose, hemicellulose và lignin
chiếm 60-80% tổng vật chất hữu cơ của cây trồng.
2.9.2 Rỉ mật đường (Molasses)
Rỉ mật đường là sản phẩm phụ của ngành công nghiệp mía đường, mật đường là nước
mía sau khi lắng, lọc xong chuyển sang giai đoạn bốc hơi nước để cô đặc dung dịch đến

60 – 700 Brix. Có nhiều loại mật đường nhưng thông thường dùng bổ sung cho thức ăn
gia súc là mật cuối.
Mật cuối (mật C)
Người ta khuyến cáo nên sử dụng mật cuối trong khẩu phần thức ăn , mật cuối là phụ
phẩm sau khi người ta trích tối đa hàm lượng đường của nó.
Từ molass khi không kèm theo sự phân loại thì có nghĩa mật cuối
Mật cuối được pha loãng tới tiêu chuẩn 79,5 britx khi sử dụng trong thức ăn. Lúc này
trọng lượng 1 lít mật = 1,39Kg (nếu sử dụng đậm đặc hơn có thể ngộ độc cho gia súc).
Thức ăn khô: mật làm gia tăng tính ngon miệng, làm giảm độ bụi kết dính cho thức ăn
viên, mật được thay thế cho các loại thức ăn carbohydrate mắc tiền mật có tính nhuận
trường (gây xổ). Trên thị trường các loại thức ăn hổn hợp thường dùng ở tỷ lệ như sau:
Thức ăn trâu bò sử dụng 15% mật, bê 8%, heo thịt 15%, gà 5%.
Đối với thức ăn khô chất lượng quá kém như rơm, cỏ già. Khi bổ sung mật cũng không
thể tăng trọng.
-

Dùng tỉ lệ cao thay thế loại thức ăn năng lượng khác sẽ gây ngộ độc.

21


2.9.3 Bánh dầu bông vải
Sau khi bóc vỏ hột bông vải và ép dầu, phần còn lại là bánh dầu bông vải. Nhiều quốc gia
sử dụng bánh dầu bông vải trong chăn nuôi, nhưng thực liệu này ít phổ biến ở nước ta.
Bánh dầu bông vải chứa 30 - 50% protein, thiếu nhiều lixzin và tryptophan. Cần lưu ý
chất gossipon (gossipol) gây ngộ độc và tanin trong bông vải. Gossipon có thể bị phá hủy
bởi nhiệt độ cao nhưng độ tiêu hóa của protein lại bị giảm. Tanin làm giảm độ ngon
miệng và kết tủa chất sắt do đó sắt không hấp thu được. Nên bổ sung chất sắt nếu dùng
bánh dầu bông vải vì sắt liên kết với gossipon để tạo thành hợp chất không hấp thu được.
(Nguyễn Ngọc Tuân và Trần Thị Dân, 2007)

2.9.4 Cỏ lông tây (Brachiaria mutica)
Là loại cỏ sống lâu năm, rễ nhiều, thân dài 0,6 – 2 m, phân nhánh mềm bò trên mặt đất,
mọc rễ và đâm chồi ở các đốt, sau đó vươn thẳng lên cao khoảng 2 m. Cỏ lông tây ưa
thích khí hậu nóng ẩm, cỏ sinh trưởng tốt ở các vùng thấp, nhiệt độ tối thiểu có thể sống
được là 8oC nếu lạnh hơn thì có thể chết lụi dần. Cỏ phát triển nhanh ở những nơi ẩm ướt,
tạo thành những thảm cỏ dày, cao và không chịu được khô hạn. Cỏ long tây có thể chịu
đượ ngập nước ngắn ngày, chịu mặn chịu phèn. Có thể sử dụng cỏ lông tây dưới dạng
tươi, ủ xanh, hoặc phơi khô (Dương Hữu Thời, 1981).
2.9.5 Urê
Urê có công thức hóa học là CO(NH2)2 tên là carbamid được sản xuất theo phương pháp
tổng hợp hóa học, urê sử dụng cho trâu, bò thường là urê phân bón.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bổ sung urê cho gia súc nhai lại và nhận
thấy rằng urê làm tăng mức tiêu thụ và tăng mức độ tiêu hóa của chất xơ thô, đồng thời
cũng làm tăng mức tiêu hóa chất hữu cơ ở gia súc nhai lại vì urê làm giảm tình trạng mất
nitơ và đạt thế cân bằng nitơ (Nguyễn Xuân Trạch et al, 1998).
Urê vào dạ cỏ được phân hủy thành ammonia (NH3) và khí CO2 dưới tác dụng của
enzyme của vi sinh vật trong dạ cỏ. Ammonia sau khi tạo thành được vi sinh vật trong dạ
cỏ sử dụng để tổng hợp nên protein của bản thân chúng. Khi vi sinh vật bị tiêu hóa thì
nguồn protein này cung cấp cho con vật, phần còn lại được hấp thu vào máu đến gan, tại
gan ammonia chuyển hóa thành urê, urê được thải theo nước tiểu và một phần theo nước
bọt trở lại dạ cỏ, ở đây vi sinh vật tiếp tục trở lại quá trình trên.
Người ta nhận thấy rằng khi thay thế 30% protein trong khẩu phần bằng urê thì trong máu
động mạch cửa và tĩnh mạch cửa chiếm lần lượt là 14,74 và 15,31mg%. Sự tăng urê trong
22


máu ngoại vi không chỉ liên quan đến sự hấp thu urê trực tiếp từ ống tiêu hóa mà còn liên
quan đến cả sự tạo thành urê ở gan từ NH3 được hấp thu. Khi cho ăn urê từ 20 – 45 phút
đầu trong dạ cỏ có nhiều urê chưa phân giải. Sau đó urê giảm dần và từ 75-100 phút sau
chỉ thấy dấu vết không vượt quá vài mg/100ml (Nolan và Stachiw, 1979).

Việc sử dụng urê cho trâu, bò là biện pháp hữu hiệu để tăng năng suất thịt, sữa. Tuy
nhiên việc sử dụng cho gia súc ăn phải làm từ từ để hệ vi sinh vật có đủ năng lượng hoạt
động nhằm sử dụng hết lượng urê đưa vào và tránh ngộ độc.

2.9.6 Sodium nitrate
Sodium Nitrate có công thức hóa học là NaNO3, là chất màu trắng, rắn, dễ tan trong
nước. Sodium nitrate được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp, chủ yếu dưới dạng phân
bón. Ngoài ra nó còn được sử dụng để tổng hợp acid nitric bằng cách kết hợp với acid
sulfuric. Và có thể thay thế Kali nitrate.

2.9.7 Ammonium nitrate
Ammonium nitrate có công thức hóa học là NH4NO3, là chất rắn, màu trắng ở nhiệt độ
phòng. Thường được sử dụng trong nông nghiệp như là cao – nitơ phân bón, và cũng
được sử dụng như tác nhân gây nổ. Trong công nghiệp thường được bỏ vào trong các gói
lạnh. Phản ứng tạo ammonium nitrate:
HNO3 + NH3

NH4NO3

2.10 VAI TRÒ CỦA VIỆC KIỀM HÓA RƠM
Các chất kiềm (vôi, xút, urê,…) có khả năng thủy phân các mối liên kết hóa học giữa
lignin và các polusacarit của vách tế bào thực vật.
Trong tất cả các phương pháp hóa học thì xử lý kiềm được nghiên cứu sâu nhất và có
nhiều triển vọng trong thực tiễn. Các mối liên kết hóa học giữa lignin và carbohydrate
bền trong môi trường của dạ cỏ nhưng lại kém bền trong môi trường kiềm (pH>8). Lợi
dụng đặc tính này các nhà khoa học đã sử dụng các chất kiềm như NaOH, NH3, urê,
Ca(OH)2 để xử lý các phế phụ phẩm nông nghiệp nhiều xơ với mục đích phá vỡ mối liên
kết giữa lignin với hemicelluloza/celluloza trước hi chúng được sử dụng làm thức ăn cho
gia súc nhai lại, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên men của vi sinh vật dạ cỏ. Kiềm
hóa có thể phá vỡ liên kết este giữa lignin và hemicelluloza/celluloza đồng thời làm cho

23


cấu trúc xơ phồng lên về mặt vật lý. Những ảnh hưởng đó tạo điều kiện cho vi sinh vật dạ
cỏ tấn công vào cấu trúc hydratcacbon được dễ dàng, làm tăng tỷ lệ tiêu hóa, tăng tính
ngon miệng của rơm đã xử lý (Nguyễn Xuân Trạch, 2003). Theo Saadullah (1981) khi
ngâm rơm với nước vôi ở tỉ lệ 40g vôi/Kg rơm trong 48h, sau đó để khô ráo nuôi cừu đã
làm tăng tỉ lệ tiêu hóa từ 38% lên đến 49%. Khi bổ sung them 10% mất đường và 2% urê
tỉ lệ tiêu hóa tăng lên 54%, lượng ăn vào đạt 3,8% vật chất khô/Kg thể trọng.

24


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
3.1 PHƯƠNG TIỆN THÍ NGHIỆM
3.1.1 Địa điểm
Thí nghiệm 1: thực hiện tại phòng thí nghiệm Bộ môn Chăn nuôi, Đại Học Cần Thơ.
Thí nghiệm 2: thực hiện tại trại bò Tầm Vu, phường Hưng Lợi, quận Cái Răng, TP.Cần
Thơ.
3.1.2 Động vật thí nghiệm
Động vật thí nghiệm gồm 3 bò đực lai sind, trọng lượng 150 – 170 Kg. Mỗi con được
nuôi trong mỗi ô riêng lẻ. Tất cả đều được tiêm phòng bệnh tụ huyết trùng, lỡ mồm long
móng và mỗ lỗ dò trước khi tiến hành thí nghiệm.
3.2 PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
3.2.1 Bố trí thí nghiệm
3.2.1.1 Thí nghiệm 1: Tiến hành dựa trên phương pháp in vitro
Mục tiêu là theo dõi và so sánh lượng khí sinh ra với các khẩu phần bổ sung nguồn đạm
vô cơ bằng phương pháp in vitro.
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẩu nhiên gồm 3 nghiệm thức x 4 lần lặp

lại.
 Nghiệm thức 1: Bổ sung Sodium nitrate = SD.
 Nghiệm thức 2: Bổ sung Ammonium nitrate = AM.
 Nghiệm thức 3: Bổ sung Urê = U.
* Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Lặp lại

SD

AM

U

1

-

-

-

2

-

-

-

3


-

-

-

4

-

-

-

25


×