Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.87 KB, 45 trang )

BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 15 – Lớp A05
STT

Họ và tên

MSSV

Nhiệm vụ

Kết quả

Chữ ký

1.
2.
3.
4.
5.
6.
NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................................... 1
NỘI DUNG........................................................................................................................... 3
I. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và phát triển văn hóa ............................. 3
1.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội
nhập quốc tế .......................................................................................................... 3
1.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất


trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. .......................................................................... 13
1.3. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người
để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng
con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. ................................ 18
1.4. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu
tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. ............................................... 23
1.5. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri thức giữ vai trò
quan trọng. ........................................................................................................... 28
II. Giải pháp xây dựng văn hóa giao thông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay............ 32
2.1. Đánh giá thực trạng............................................................................................. 32
2.2. Giải pháp xây dựng văn hóa giao thông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay .... 37
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 43


LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với phát triển kinh tế, chính trị, pháp luật thì văn hóa là vấn đề quan trọng và
không thể thiếu trong quá trình phát triển đất nước. Được coi là bước đi đầu trong giai
đoạn phát triển, văn hóa đã chứng tỏ vai trò của nó trong hội nhập kinh tế. Mỗi dân tộc
trên thế giới đều có những bản sắc văn hóa riêng. Vốn dĩ, để phân biệt dân tộc này với
dân tộc khác người ta thường nhắc tới văn hóa. Bởi những giá trị truyền thống được chắt
lọc lâu đời đã tạo cho Việt Nam có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đóng
góp vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hóa đã đi sâu vào lòng người, góp phần
đáng kể tạo ra những giá trị tinh thần và hình thành nhân cách trong mỗi con người.
Trước đại hội VI diễn ra, nền văn hóa Việt Nam được xây dựng theo hướng có nội
xã hội chủ nghĩa, có tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Đường lối xây dựng,

phát triển văn hóa giai đoạn kháng chiến chống đế quốc và thống nhất đất nước bị chi
phối bới tư duy chính trị “nắm vững chuyên chính vô sản” mà thực chất là nhấn mạnh đấu
tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ trong lĩnh vực văn hóa; mục tiêu, nội dung cuộc cách
mạng này cũng bị chi phối bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là
triệt để xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ bốc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất .
Quan niệm này hiện tại không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong
giai đoạn mới khi mà nhu cầu hội nhập hội tế được đề cao và khi kinh tế có nhiều sự
chuyển biến. Do đó, từ Đại hội VI đến Đại hội XII, Đảng ta đã từng bước hình thành nhận
thức mới về đặc trưng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng, vai
trò, vị trí của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Và để hiện
thực hóa được các mục tiêu trên, Đảng đã nêu ra các quan điểm chỉ đạo cụ thể quá trình
thực hiện xây dựng và phát triển văn hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm
này được Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát
triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII và nhiều nghị quyết Trung ương tiếp
theo.
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng em đã nêu ra và phân tích, tìm hiểu các quan
điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đất nước trong thời kì đổi mới.
1


Qua đó, nhờ vận dụng những kiến thức được học và tình hình thực tế, nhóm chúng em
tiến hành phân tích và giải quyết vấn đề nhức nhối trong xã hội, điển hình như văn hóa
giao thông - vấn đề được nhiều người quan tâm và cũng là nổi trăn trở đối với các cấp
chính quyền, trong đó có thể kể đến vấn đề về văn hóa giao thông của các thành phố lớn
đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Vận dụng những kiến thức được học và tìm
hiểu thực tế, nhóm chúng em tiến hành phân tích và giải quyết vấn đề: “GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG VĂN HÓA GIAO THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY”.

2



NỘI DUNG
I. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và phát triển văn hóa
1.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội
nhập quốc tế
 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Văn hóa là những quy định nằm sâu trong cấu trúc mỗi xã hội, nó có khả năng quy
định chiều hướng, vận động của các cộng đồng. Do vậy văn hóa là cơ sở, là nền tảng mà
trên đó là các nhân tố khác của đời sống xã hội được triển khai, được thực hiện trong sự
chi phối của nó, thành sự vận động và phát triển của xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vì nó thấm nhuần trong mỗi con người và
trong cả cộng đồng, được truyền lại, nối tiếp và phát huy qua các thế hệ, được vật chất
hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc chính trị - xã hội của dân tộc.
Đảng ta quan niệm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng không phải văn
hóa nào cũng là nền tảng, chỉ có nền văn hóa yêu nước, gắn liền độc lập dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội, một nền văn hóa tiến bộ thúc đẩy lịch sử phát triển với hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học, với chế độ xã hội tiến bộ; nền văn hóa đặt người lao động ở vị trí chủ
thể của sự phát triển; Bảo tồn và phát triển những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc anh em được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử, nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như thế mới đóng vai trò nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống
mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió để tồn tại và phát triển. Vì
vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm 90 của thế kỷ trước, UNESCO đề ra chương trình Thập kỷ phát
triển văn hoá, kêu gọi các quốc gia ban hành chính sách văn hoá làm động lực thúc đẩy
phát triển. Đây là thời điểm nước ta từng bước hình thành cơ chế thị trường dưới sự quản

lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được phát
3


huy, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Nền kinh tế từng bước khởi sắc,
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tăng tích luỹ, tạo cơ sở vật chất bước đầu
của một nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó là thắng lợi chưa từng có của một nền kinh tế bị
ảnh hưởng triền miên bởi chiến tranh và kém phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng sớm
nhận thức chỉ truy cầu sự giàu có trên cơ sở của nền kinh tế thị trường cho dù được định
hướng xã hội chủ nghĩa vẫn là không đủ thậm chí nguy hiểm, mà còn phải hướng đến một
sự nghiệp văn hoá thật sự tiên tiến và dân tộc đủ sức hình thành một nền tảng tinh thần
vững chắc với cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì xã hội thì xã hội Việt Nam
hiện đại mới có thể đứng vững.
Yêu cầu hình thành nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện đại đã đặt ra cho
văn hoá những trọng trách nặng nề và thành tựu có ý nghĩa:
Đó là không ngừng giữ vững và bồi đắp nhận thức đúng đắn của cán bộ và nhân dân
về con đường tiến nên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh trên nền tảng chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Văn hoá đem lại sự nhất trí chính trị và sự đồng thuận xã hội về những giá trị cơ bản của
xã hội Việt Nam hôm nay.
Đó là mối quan tâm thương xuyên đến nhân tố con người, không ngừng cổ vũ,
hướng dẫn con người hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, phấn đấu cho hạnh phúc chính
đáng của mình và góp ngày càng nhiều cho xã hội. Kiên quyết lên án và bài trừ các thói
hư, tật xấu, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, vô trách
nhiệm, coi thường kỷ cương, phép nước. Đề cao và nhân rộng những tấm gương tốt đẹp
trở thành nếp sống lành mạnh của xã hội.
Đó là xây dựng và phát triển một cơ cấu văn hoá phát triển bền vững từ Trung ương
đến mỗi bản làng, gai đình trên cơ sở phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá và sự góp sức của đội ngũ văn nghệ sỹ, tri thức, các tài năng văn hoá vì văn hiến
dân tộc trong thời đại mới. Những cố gắng để xã hội hoá các hoạt động văn hoá, các chính

sách văn hóa khuyến khích sự tham gia văn hoá của các tầng lớp nhân dân, giúp đỡ phát
triển văn hoá phong phú, sinh động, mở ra nhiều năng lực mới.

4


Việc chăm lo xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hôm nay luôn phải
gắn liền với sự nghiệp xây dựng đội ngũ trí thức khoa học công nghệ và khoa học xã hội
nhân văn, văn nghệ sỹ, báo chí, những nhà chuyên môn trên lĩnh vực văn hoá. Mặc dù
còn nhiều khó khăn, thậm chí có mặt bất cập, nhưng sức mạnh sáng tạo văn hoá mới phải
được nâng lên hằng ngày, bên cạnh chăm lo giữ gìn các giá trị truyền thống lịch sử.
Nền tảng tinh thần của xã hội không chia cắt với quá trình giao lưu và tiếp nhận có
chọn lọc các giá trị văn hoá nhân loại. Văn hóa Việt Nam hôm nay tiếp cận ngày một cởi
mở những giá trị của thế giới hiện đại, không ngừng làm phong phú cho mình trên cơ sở
truyền thống dân tộc và những giá trị cách mạng.
Nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hôm nay không ngừng được bồi đắp bởi sự
phát triển văn hoá trong Đảng, sự khẳng định vai trò dẫn dắt văn hoá của Đảng. Nhiệm vụ
xây dựng chỉnh đốn Đảng nâng cao phẩm chất tốt đẹp và tính gương mẫu của cán bộ đảng
viên có ý nghĩa ngày càng to lớn đối với sự phát triển văn hoá dân tộc.
Sự đoàn kết nhất trí và tính tiên phong, gương mẫu của các tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể luôn luôn đem lại sức mạnh cho cộng đồng, tạo nền tảng
vững chắc cho sự tiến bộ xã hội. Ngược lại, ở nơi nào cán bộ đảng viên nhiều sai phạm
khuyết điểm, ở đó đời sống văn hoá tinh thần bị thách thức nặng nề. Điều làm mọi người
chưa yên tâm, thậm chí chưa thật sự phấn khởi là nhiều nơi nền tảng tinh thần do văn hoá
tạo lập chưa đạt tới độ ổn định vững chắc, các giá trị tốt đẹp chậm hình thành, cái tốt và
cái xấu đan xen, sự suy thoái đạo đức, lối sống đang là mối lo lớn. Chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, lối sống thực dụng gia tăng, tham những tràn lan, kỷ cương xã hội suy giảm, tội phạm
ngày càng nhiều là những vấn đề nhức nhối trong xã hội. Trong khi đó, quá trình tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận và truyền bá lý luận còn nhiều mặt chậm trễ đã hạn chế
không nhỏ sự xác lập nền tảng tinh thần của xã hội. Nhận rõ yêu cầu mới của quá trình

xây dựng văn hoá nước ta, Hội nghị Trung ương 10 đã khẳng định tính đúng đắn của nghị
quyết Trung ương 5 về văn hoá, tiếp tục làm sáng tỏ vai trò, vị trí của nhiệm vụ văn hoá
trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn. Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) xác định mục
tiêu phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá trên các lĩnh vực mà trước hết là đảm bảo
sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là
5


then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Kết luận của
Hội nghị cũng khẳng định “tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là
điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”.
Trong điều kiện mới, khẳng định vị trí của văn hoá bên cạnh nhiệm vụ chính trị và
kinh tế là một quyết tâm chính trị của đảng nhằm tăng cường củng cố nền tảng tinh thần
của xã hội ta trước những thách thức kho lường của giới hiện đại, mở ra một tương quan
hợp lý giữa các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá, đảm bảo tính đồng bộ trong phát triển.
Kết luận Hội nghị Trung ương 10 tiếp tục đặt nên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư
tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh; chăm lo xây dựng con người Việt
Nam; bồi dưỡng phát huy các tài năng văn hoá - nghệ thuật, khoa học kỹ thuật. Bên cạnh
đó, việc nâng cao và đổi mới năng lực lãnh đạo của Đảng về công tác văn hoá và chăm lo
xây dựng văn hoá trong Đảng là nhân tố cực kỳ quan trọng trong xây dựng văn hoá và
phát triển nền tảng tinh thần dân tộc trong thời kỳ mới.
 Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi chính sách kinh tế - xã
hội luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi
dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn lực quyết định sự phát triển xã hội. Văn
hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị, xây dựng và phát triển
kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội, có nghĩa là sự phát triển kinh
tế phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự

phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát triển
của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu của sự phát
triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng tạo của con
người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn
xã hội.

6


Phát triển kinh tế - xã hội dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc,
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết: “Về đời sống vật chất và văn
hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại,
học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống
văn minh, gia đình hạnh phúc”.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố nội
sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy năng
lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau, văn hóa vừa thể
hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều kiện cho sự hình thành,
phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần vào điều tiết quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều hay ít
lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm năng sáng
tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố
cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí, lối sống, thị hiếu,
trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa
trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả năng phát triển kinh tế - xã
hội càng lớn và hiện thực.
Đối với một quốc gia, muốn phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể
thiếu là phát triển văn hóa. Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy

mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách và chủ quan của các điều kiện
bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển của xã hội được hài hòa, cân đối, lâu
bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao, đáp ứng
nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần tăng cường sự hiểu biết, mở rộng sự giao
lưu hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Các giá trị
văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa truyền thống là cơ sở tinh thần để ngăn chặn, hạn
chế các tệ nạn xã hội, xu hướng “sùng ngoại”, sùng bái tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường.
7


Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ quốc tế,
để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa với nước ngoài
mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung cấp nguyên liệu và
nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận những công nghệ lạc hậu,
những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc phục
được những ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây ô
nhiễm môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và hướng đến những
hành vi ứng xử có văn hóa của con người đối với con người và đối với thiên nhiên.
Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong thời đại
ngày nay, việc phát huy tiềm năng sáng tạo của con người có tầm quan trọng đặc biệt,
tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong sự hiểu
biết, tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng
đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người
ngày càng cao thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng lớn. Do vậy, đối với một nền
kinh tế, muốn phát triển bền vững thì động lực không thể thiếu là phát triển văn hóa.
Kinh tế thị trường không ngừng đẻ ra của cải, nhưng ở mặt trái của nó là không
ngừng tác động xấu vào đời sống văn hoá tinh thần, lối sống và có thể làm băng hoại xã

hội. Chính vì vậy, phát triển văn hoá là nhiệm vụ chiến lược nhằm thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, đồng thời điều tiết ngăn chặn những biến thái
bất lợi do mặt trái kinh tế thị trường gây ra, bảo vệ con người, đem lại trật tự và sự hài
hoà cho xã hội. Ở một phương diện khác, giao lưu và hội nhập quốc tế đã trở thành nhu
cầu khách quan của phát triển đất nước. Nhưng trong giao lưu kinh tế chẳng có một sản
phẩm và dịch vụ nào lai không chứa đựng một tín hiệu văn hoá. Phát triển văn hoá, tạo ra
sức mạnh nội sinh văn hoá dân tộc, chính là bước chuẩn bị hết sức cần thiết cho hội nhập
và giao lưu quốc tế, nếu không muốn bị đè bẹp dưới sức mạnh vật chất và văn hoá của
dân tộc khác.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự
phát triển của dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng
8


không thể tách rời cội nguồn. Phát triển dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội
nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh
tế cũng không chỉ do các nhân tố kinh tế thuần túy tạo ra, mà nó còn do các giá trị văn
hóa đang được phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố
quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ. Vì vậy, một nước giàu hay nghèo không
chỉ ở chỗ có nhiều hay ít tài nguyên và lao động mà trước hết là có khả năng phát huy đến
mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo
này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa.
 Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng tạo của con
người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn
xã hội.
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, ăn minh" chính là mục tiêu văn hóa.
Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mỗi
quốc gia. Nhất là các nước vốn trước đây là thuộc địa thì việc giải quyết vấn đề này lại có
ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế
thường lấn át mục tiêu văn hóa và được đặt ở vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương
trình, chính sách phát triển.
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và
xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến những nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên
nhiên, vốn,.... nhưng các tài nguyên thiên nhiên này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn
kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tá sinh và tự sinh
không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ được sử dụng có hiệu quả khi nguồn lực
con người có chất lượng cao.
9


Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế là vấn
đề bức xức của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các
nước độc lập dân tộc đang tìm con đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc thì việc giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục
tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính
sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường
công nghiệp hóa.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ
trương phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ và động bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể là:
- Khi xác minh mục tiêu giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục

tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Khi xác định mục tiêu phát triền kinh tế - xã hội phải đồng thời xã định mục tiêu
văn hóa hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong
văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ
cho phát triển văn hóa. Xây dựng, chính sách văn hóa trong kinh tế - xã hội, xây dung văn
hóa kih doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh
nhân thời hội nhập
Thật vậy, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, ngày
9-6-2014 tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Đảng ta đã
ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá quá
trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và căn cứ vào đòi hỏi của
thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh mới
của khu vực và thế giới, Nghị quyết số 33-NQ/TW khẳng định vị trí, tầm quan trọng
10


chiến lược của sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Nghị quyết cũng chỉ
ra mục tiêu chung của sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế của đất nước là: Xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Có thể xem Nghị quyết số 33-NQ/TW chính là đường lối văn hóa của Đảng trong
chặng đường tiếp theo của công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.
Đây một mặt là sự kế thừa đường lối văn hóa của Đảng được tập trung trình bày trong bản
Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943) với các phương châm dân tộc hóa, đại chúng

hóa, khoa học hóa và trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 với
phương châm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Mặt khác, Nghị quyết số 33-NQ/TW là bước phát triển mới, có tính đột phá trong
đường lối văn hóa của Đảng, phù hợp với đòi hỏi của thời đại và của sự nghiệp phát triển
bền vững đất nước. Với việc khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội” và “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa”, Nghị quyết này đánh dấu một tầm vóc mới
trong nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa, thể hiện tầm nhìn thời đại và tính khoa học,
tính thực tiễn của đường lối, bảo đảm chính sách phát triển văn hóa gắn với phát triển con
người và với sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.


Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con

người và xây dựng xã hội mới:
Việc phát triển kinh tế kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn, v,v… Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác
cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự
sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu
11


không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khái thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới vì, thông qua các chức năng của mình, đã tác động lại với
con người với rất nhiều mặt tích cực làm con người ngày càng hoàn thiện hơn, hướng đến
con người xã hội chủ nghĩa, cụ thể:
o Con người nhận thức về vũ trụ, trời đất, nghĩa là văn hoá nhận thức, ở đây văn

hoá đã trang bị cho con người những tri thức cần thiết để làm chủ thiên nhiên, xã hội và
bản thân. Hơn nữa bằng các hoạt động văn hoá giúp con người tự sáng tạo, nâng cao trình
độ nhận thức cũng là tự hoàn thiện mình.
o Ở chức năng giáo dục của văn hoá, thì thông qua các hoạt động sản phẩm tác
động một cách có hệ thống lên tinh thần và thể chất con người làm cho con người có được
phẩm chất và năng lực như xã hội yêu cầu. Mặt khác văn hoá tạo thành những giá trị
chuẩn mực để con người học tập, nhờ đó văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình
thành nhân cách con người.
o Ở chức năng thẩm mỹ của văn hoá, nó hướng con người hoàn thiện ở góc độ
cần có lối ứng xử xã hội thích hợp, ngăn ngừa những hành vi phi văn hoá để tạo lên lối
ứng xử văn hoá phù hợp với tiến bộ xã hội.
o Văn hoá còn hoàn thiện con người ở chức năng giải trí của nó nghĩa là khi con
người hưởng thụ nền văn hoá nghiêm túc thì giúp họ lấy được tinh thần, họ được nghỉ
ngơi để có thể bắt đầu công việc mới, giúp con người phát triển toàn diện và sáng tạo hơn
lao động có hiệu quả hơn.
Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc) đưa ra những tiêu
chí mới để đánh giá cao mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con
người, 1 trong 3 chỉ tiêu của cách tính toán mới này chỉa là thành tựu giáo dục (2 chỉ tiêu
kia là tuổi thọ trung bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ 2
chỉ tiêu khác là tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân
mỗi người.

12


Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân
nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. Nhìn
một cách tổn quan, vốn con người, nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy, văn
hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên người”.
Đứng trước những thử thách từ việc là một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như
mong muốn. Tuy tỷ lệ người biết đọc biết viết được xếp thứ hạn cao trong khu vực nhưng
nguy cơ tái mù đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ và mù tin học.
1.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập tự do và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì
con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội.
Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa trên tư
tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Nền văn hóa tiên tiến cũng là nên văn hóa thể
hiện tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc. Tính nhân văn thể hiện ngay trong mục tiêu,
nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra đó là xây dựng nền văn
hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng cho con người, phấn đấu để không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo,
hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại. Tính dân chủ của
nền văn hóa gắn liền chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân, vì dân”, đề cao ý
thức công dân, trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm của công dân. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo
điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm
của công nhân trước nhân dân, dân tộc và thời đại.
13


Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Bản sắc dân tộc là những yếu tố độc đáo, đặc sắc của một nền văn hóa, biểu

hiện đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, tạo nên sức mạnh cố kết, duy trì và phát triển đời
sống của dân tộc, là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ảnh diện mạo, truyền thống, bãn
lĩnh, phẩm chất, tâm hồn, tính cách, sức sống, khát vọng và biểu tượng riêng của mỗi
quốc gia, dân tộc. Bản sắc dân tộc là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân
tộc này với dân tộc khác, quốc gia này với quốc gia khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể
hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc, là các giá trị do lịch sử truyền lại, được
các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên
tục của lịch sử văn hóa.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi
con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với
“chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa
quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên
những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, thói hư tật xấu,
nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến
hòa bình”.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa
quyện bình đẳng, và phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc cùng sinh sống, trên lãnh
thổ Việt Nam. Hơn 50 dân tộc trên đất nưỡ ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam
thống nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc. Bản sắc văn hóa của các dân tộc được thể
hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng tộc
người. Nghị quyết trung ương lần thứ 5 đã nêu rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị
văn hóa truyền thống bền vững, những tinh hoa của những cộng đồng của các dân tộc
Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
14


nước”. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân

tộc Việt Nam có nên văn hóa chung nhất. Không có sự đồng hóa hoặc thôn tính, kỳ thị
bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Tại đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá thấm sâu và mọi
lĩnh vực đời sống xã hội. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên, sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam. Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử
cách mạng kháng chiến, di sản văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn,
phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần
tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt động
của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Tại Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng trên cơ sở tiếp tục khẳng định yêu cầu xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng đã nhấn mạnh: đó phải là một “nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu: “Xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong
mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ,
giáo dục và đào tạo..., sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc
lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở
15



rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh
hoa của nhân loại song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân
tộc
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên
và nhân dân đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn mực
đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong xã hội. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh", các phong trào thi đua yêu nước ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào
thực chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của
dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể được bảo vệ
và phát huy giá trị. công tác xã hội hoá đã thu hút được đông đảo các tổ chức và cá nhân
tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn
hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc,
dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
Bên cạnh đó vẫn còn một số trở ngại cần phải giải quyết để xây dựng được nền văn
hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu
lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng
gia tăng . Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại.
Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được
ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng
phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có
biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp
thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống
văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Để thưc hiện yêu cầu trên, trong xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện cần phải
phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân,

16


các hội văn học nghệ thuật, khoa học, trí thức, báo chí, của các cá nhân; Xây dựng và phát
triển chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nếp sống văn hóa hiện đại trong nhân dân;
Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật: Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa;
Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định; Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc
tế về văn hóa; Chống sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động; Xây dựng, nâng
cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa; Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông
tin đại chúng phát triển; Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa, hiện đại về mô hình, cơ
cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật; Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp; Đi đôi với phát
huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ; Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cơ
cấu tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ trung ương đến địa phương.
Đa dạng hóa nội dung, hình thức, phương thức xây dựng, phát triển văn hóa, con
người; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa; tiếp biến văn hóa
trong quá trình hội nhập và giữ gìn bản sắc; giữ tính tiến tiến, hiện đại với đậm đà bản sắc
dân tộc; giữa thống nhất trong đa dạng với bản sắc vùng, miền, dân tộc thiểu số. Huy
động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu
văn hóa dân tộc. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục
truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển
du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một.
Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín
ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo,
nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp đạo". Khuyến khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa",
"uống nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản
văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống

Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của
đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần
17


tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời
sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác
phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất
nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam..
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển, tôn vinh những
giá trị văn hóa dân tộc và hình ảnh Việt Nam trước bạn bè năm châu là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, của mọi con người, trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Để giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần
đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thực sự coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động mở
rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại,
đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có
chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chủ động đón
nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân
tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
1.3. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa XI của Đảng đã ra Nghị quyết về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết đã nhấn mạnh các quan điểm chỉ đạo về xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thể hiện các đặc trưng dân tộc - nhân văn - dân chủ và khoa học. Xây dựng và
phát triển con người Việt Nam là trọng tâm, là cốt lõi và thực chất của xây dựng, phát

triển văn hóa. Hệ giá trị của con người Việt Nam thống nhất hữu cơ với các đặc trưng của
văn hóa đồng thời các giá trị của con người Việt Nam lại là sự thể hiện sinh động, tiêu
biểu nhất các giá trị, sức sống của văn hóa, của bản sắc truyền thống dân tộc, của sự kết
hợp hài hòa truyền thống với hiện đại, dân tộc với thế giới và thời đại.
18


Diện mạo tinh thần của dân tộc Việt Nam - một dân tộc giàu truyền thống văn hóa
và văn hiến được thể hiện tập trung và nổi bật ở trí tuệ và tâm hồn, đạo đức, nhân cách và
lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là những con người yêu nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo như Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra.
Chỉ như vậy, văn hóa và con người mới thực sự là mục tiêu và động lực của phát
triển bền vững và hiện đại hóa đất nước, mới tạo ra sức mạnh của nguồn lực nội sinh, sức
mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, con người và văn hóa đưa sự nghiệp đổi mới và hội
nhập quốc tế Việt Nam tới thành công, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Nội sinh của văn hóa như nguồn trữ năng vật chất - tinh thần của cả xã hội, kết hợp
với ngoại sinh được tận dụng nhờ hội nhập quốc tế có hiệu quả, tạo ra nội lực và ngoại
lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam. Cả nội sinh lẫn ngoại sinh, cả
nội lực lẫn ngoại lực kết hợp lại thành ra nguồn lực tổng hợp như vốn xã hội để phát triển.
Không có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn
nhân lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành, đang được sử dụng
đến nhân lực tiềm tàng, tiềm năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành”,
như “vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, vốn người, “tư bản” người là quan trọng bậc nhất,
quyết định nhất vốn xã hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã hội,
quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát
triển văn hóa, phát triển con người.
Vì lẽ đó, Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự
hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ,
không thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa. Về thực chất,

phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển con người là trọng tâm. Phát triển
con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn hóa mà con người
với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của
nó, tựu trung lại là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là tính hướng
đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị
Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con người, con người
19


vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực,
yêu cầu của mẫu nhân cách xã hội vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra
văn hóa dưới dạng các sản phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ,
tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp
biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là chủ
nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần
(phi vật thể); cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể đến cấp độ xã hội - cộng
đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên môi trường văn hóa - xã hội để
phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho hiệu ứng xã hội của văn hóa
(nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống,
nhân lên sức sống, sức phát triển của con người, của văn hóa, không chỉ những thế hệ
người trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển
của các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của sáng tạo và
phát triển văn hóa là liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của phát
triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của
sáng tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,
không một nước nào có thể ở bên ngoài tiến trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa với con người, con người với văn hóa là ở
tương tác nhân - quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính
văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con người, hoàn thiện nhân cách, nhân
tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của mọi giá trị. Hoàn thiện

nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực cao nhất mà sáng
tạo văn hóa cần đạt đến, mà mọi thành quả, thành tựu của văn hóa đều góp phần vào sự
bộc lộ các năng lực người, khẳng định sức mạnh bản chất người của con người trong phát
triển, từ cá thể người đến cộng đồng người trong dân tộc và trong nhân loại. Giáo sư Vũ
Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên thú
tính. Hoàn thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ
nói lên bản chất nhân văn đích thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản
văn hóa, phát triển với phản phát triển. Trong bản chất của nó, văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt
20


đẹp, sự lương thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự thật và lẽ phải, tôn
trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người. Văn hóa có cốt lõi của nó
là đạo đức, mà đức là gốc của nhân cách. Tiềm lực tư tưởng và trí tuệ là xung lực mạnh
mẽ của văn hóa nên khoa học có mặt trong văn hóa như một hợp phần không thể thiếu,
không thể yếu.
Lịch sử văn hóa bao giờ cũng gắn liền với lịch sử của khoa học. Nhân cách trí thức
khoa học cũng như nhân cách nhà văn hóa sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực tinh thần văn học nghệ thuật phải là những đại biểu xứng đáng và tiêu biểu cho nhân cách của dân
tộc mình, thời đại mình. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ ở tầm quốc
sách hàng đầu không chỉ là đột phá để tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển mà sâu xa
hơn, còn là lựa chọn một định hướng có triển vọng nhất cho phát triển bền vững, từ hiện
tại tới tương lai. Bởi lẽ, phát triển bền vững của đất nước thực chất là phát triển bền vững
con người mà muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng thực hiện chiến lược phát triển văn hóa.
Chỉ có tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh mới có thể tạo ra những con người mang
nhân cách văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng
như điều Mác nói, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng có tính người nhiều hơn, và sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy
thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Xây dựng và phát triển văn
hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy

của mình, văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường
cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa mà chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham
ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà xây dựng đời sống mới, phát huy
dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc,
luôn luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân
tài, biết quý trọng, tin cậy hiền tài. Không có con người xã hội chủ nghĩa thì không thể
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Do đó, kiến thiết đất nước, xây dựng nền văn
hóa mới phải đi liền với chiến lược con người, Đảng phải coi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là
công việc gốc của Đảng. Những luận điểm như thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc về
21


tầm nhìn chiến lược của nhà tư tưởng và nhà văn hóa kiệt xuất, mà vào lúc này, Đảng ta
đang ra sức vận dụng, phát triển. Để phát triển văn hóa và hoàn thiện nhân cách con người
Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định,
trong tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần
phải tập trung triển khai thực hiện những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có
lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện của lòng dân.
Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức,
mồ hôi nước mắt, sức sáng tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội
hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học thức mà không
có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con
người và văn hóa.
Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc
sống cho người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân
sinh, nâng cao dân trí, đảm bảo dân quyền để đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp chương
trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường lối, chính sách
chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân
không yên, do không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng.

Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao quý hơn khi thực hiện cho được một
nguyên tắc, một phương châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”,
có an dân thì mới đo được kết quả của việc trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài
học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà kế
thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải luôn luôn vì dân,
phải coi “dĩ công vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị hàng đầu trong giáo
dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục liêm
sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối
sống liêm khiết phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền.

22


Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp
dụng chế tài mạnh mẽ để trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là
sức mạnh của văn hóa, của chính trị đảm bảo “quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị phê
phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức
mạnh của văn hóa và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân
cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và các
đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của dân đối với
Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động
lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch vững mạnh của Đảng từ tác động của văn
hóa. Tăng trưởng niềm tin của dân còn quan trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng
trưởng kinh tế.
Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội, giáo dục lý tưởng,
lẽ sống và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào
công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở nước ta.
1.4. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia

đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
 Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng.
Từ tầm nhìn vĩ mô, môi trường văn hóa là một bộ phận hợp thành của toàn bộ môi
trường xã hội, vì thế, nó có vai trò to lớn đối với sự ổn định phát triển và tiến bộ của toàn
thể xã hội.
Thứ nhất, môi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm giá trị và
quan niệm phân phối xã hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các tầng lớp khác
nhau trong xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định.
Thứ hai, môi trường văn hóa ảnh hưởng tới ổn định xã hội thông qua quan hệ giữa
con người với con người. Xã hội là do con người tổ chức hợp thành. Cá nhân, gia đình là
tế bào của xã hội. Con người sống trong xã hội tất nhiên sẽ phát sinh nhiều loại quan hệ
23


×