GIỮ VỮNG BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC TRONG BỐI
CẢNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ TOÀN
CẦU HÓA
PGS.TS. LÊ VĂN HÒE – Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia
1. Quan niệm về bản chất nhà nước
Cái làm cho sự vật, hiện tượng tồn tại như chính nó được xác định là bản chất. Bản chất
của sự vật, hiện tượng là cái tuyệt đối trong khi nhận thức của con người ta chỉ là tương
đối. Bản chất của sự vật, hiện tượng được phản ánh tương ứng với những thang bậc nhận
thức của con người được triết học xác định là “bản chất cấp một”, “bản chất cấp hai”…
Do không nắm được những nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức ấy mà có giáo trình lý
luận chung về nhà nước và pháp luật đã nêu đến “ba” bản chất của nhà nước kiểu mới,
gồm bản chất giai cấp công nhân, bản chất dân chủ và bản chất là tổ chức có chức năng
chủ yếu là sáng tạo, xây dựng xã hội mới.
Bản chất của nhà nước còn là vấn đề chính trị, nó được giải thích dưới sự chi phối của
những lợi ích chính trị khác nhau. Đã một thời các luật gia, những nhà chính luận tư sản
ra sức đề cao những giá trị xã hội của nhà nước tư sản, che mờ tính chất giai cấp của nhà
nước, trong khi lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa lại tuyệt đối hoá tính chất giai cấp
của nhà nước, rất ít coi trọng nghiên cứu và phát huy những chức năng xã hội của nhà
nước.
Nhà nước cũng như xã hội là những hiện tượng hết sức phức tạp, trước hết là phức tạp về
bản chất. Nếu “xã hội là tổng hoà của những quan hệ giữa con người với con người” thì
nhà nước, bản chất của nhà nước là tổng hoà của những thuộc tính được hình thành trong
quá trình tồn tại, phát triển của nó, và được biểu hiện ra trong toàn bộ các quan hệ của nó
với xã hội, với giai cấp, dân tộc, với các quốc gia khác trong các quan hệ chính trị quốc
tế. Tính chất và nội dung của những quan hệ ấy cũng là yếu tố quy định bản chất của nhà
nước. Có những thuộc tính có tính phổ biến ở tất cả các nhà nước, như thuộc tính về chủ
quyền, về quyền lực… Song, có những thuộc tính, những mối quan hệ mà tính chất và
nội dung của nó quy định sự khác biệt giữa bản chất của kiểu nhà nước này với bản chất
của kiểu nhà nước khác.
Nhà nước ta, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời sau thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, xét về bản chất đã là nhà nước thuộc kiểu xã hội chủ
nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã trải qua những giai đoạn phát triển
khác nhau, từ nhà nước dân chủ nhân dân có sứ mệnh thực hiện cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân lên nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa, với sứ mệnh thực hiện cách
mạng xã hội chủ nghia trên phạm vi cả nước, và giờ đang trong quá trình chuyển thành
nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Gắn với ba trình độ phát
triển ấy là sự hình thành ngày càng đầy đủ, ngày càng sâu sắc hơn những thuộc tính làm
lên bản chất kiểu mới của nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh của kinh tế thị trường,
toàn cầu hoá hiện nay nhà nước cũng như bất kỳ thiết chế nào khác đều phải đứng trước
những nguy cơ, thách thức lớn, thậm chí có thể bị thay đổi bản chất. Điều đó cũng đồng
nghĩa với sự thay đổi chế độ, đảo lộn thể chế và định hướng phát triển. Trong điều kiện
như vậy việc nhận thức bản chất của nhà nước nhằm giữ vững bản chất tốt đẹp của nhà
nước đặt ra những vấn đề có tính phương pháp luận sau:
1.1. Những thuộc tính, những mối quan hệ, cái tạo thành và thể hiện bản chất của nhà
nước không phải là bất biến; có thể có những thuộc tính mới xuất hiện, những nội dung
của các thuộc tính, tính chất và nội dung của các mối quan hệ bản chất có thể thay đổi
cùng với quá trình phát triển của nhà nước, theo sự thích ứng của nó trước những biến đổi
sâu sắc của xã hội, của thời đại. Trong sự thích ứng ấy, vai trò của nhân tố chủ quan,
trước hết là vai trò của đảng cầm quyền có ý nghĩa quyết định.
1.2. Những thuộc tính tạo thành bản chất của nhà nước không tồn tại độc lập với nhau mà
quan hệ tương tác với nhau; tính chất và nội dung của các mối quan hệ bản chất đó vừa
thể hiện bản chất của nhà nước, vừa là cái phân biệt bản chất của các kiểu nhà nước, giữa
kiểu nhà nước bóc lột (nhà nước kiểu cũ) với nhà nước kiểu mới, nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Các nhà nước cho dù là nhà nước nào cũng có tính (thuộc tính) giai cấp, tính xã
hội, song trong nhà nước kiểu cũ tính giai cấp và tính xã hội đối lập nhau; tính giai cấp
càng sâu sắc thì tính xã hội càng bị thu hẹp, nhà nước của thiểu số bóc lột ngày càng đối
lập gay gắt với xã hội, với đa số nhân dân. Ngược lại, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa,
tính giai cấp công nhân càng sâu sắc thì tính xã hội ngày càng rộng rãi, nhà nước do
Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo song là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tính dân tộc cũng là một thuộc tính của nhà nước, bởi giai cấp thống trị nhà nước cũng là
giai cấp đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các dân tộc khác, thông qua nhà nước để
bảo vệ lợi ích của dân tộc mà nó đại diện. Song, tính dân tộc của nhà nước kiểu cũ luôn
đối lập với tính quốc tế. Nhà nước kiểu cũ trong khi đề cao lợi ích của dân tộc mà nó đại
diện thì lại coi thường, chà đạp lợi ích của dân tộc khác, trở thành nhà nước sô vanh, nhà
nước bành trướng. Ngược lại, nhà nước kiểu mới trong khi coi trọng, bảo vệ lợi ích của
dân tộc mình thì luôn ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện đường
lối đối ngoại tích cực trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng
có lợi giữa các dân tộc.
2. Vấn đề giữ vững bản chất của nhà nước ta hiện nay
Từ nhận thức về bản chất của nhà nước như phân tích trên cho thấy, để giữ vững bản chất
kiểu mới của Nhà nước ta trong bối cảnh kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đòi hỏi phải
xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa giai cấp và dân tộc, giữa dân
tộc và quốc tế, đồng thời cần dự báo chính xác những yếu tố mới xuất hiện trong xã hội,
trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước cũng như những yếu tố của thời đại
có thể tác động tiêu cực, làm tha hoá bản chất tốt đẹp của Nhà nước. Từ đây cần thiết
phải xử lý các vấn đề sau:
2.1. Về cơ sở kinh tế của nhà nước
Các nhà nước kiểu cũ, nhà nước bóc lột đều tồn tại trên cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, trong khi nhà nước kiểu mới xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở
kinh tế là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể. Trong thời kỳ quá độ, kinh tế thị trường, với nhiều chế độ sở
hữu, sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế diễn ra gay gắt, lại thêm sự tác động của
hội nhập quốc tế, việc bảo đảm cơ sở kinh tế mà trên đó nhà nước tồn tại không thể bằng
việc quay lại sai lầm cũ, nhất thể hoá chỉ một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
là phải bảo đảm vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, theo đó phải bảo đảm cho
doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, có tác động tích
cực trong việc định hướng các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác theo quỹ đạo xã
hội chủ nghĩa. Xứng đáng với vị trí ấy, doanh nghiệp nhà nước phải kinh doanh có hiệu
quả, có năng lực cạnh tranh lớn, cả cạnh tranh quốc tế. Như thế, vấn đề doanh nghiệp nhà
nước không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề chính trị và quản lý. Và đó
cũng là thách thức lớn, bởi qua nhiều năm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở
nhiều lĩnh vực vẫn tỏ ra yếu kém, mặc dù được bao cấp, với nhiều ưu đãi, kể cả việc được
sử dụng nhiều phương tiện độc quyền; không ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, câu kết với
“doanh nghiệp sân sau” bòn rút của cải của nhà nước, vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động. Thực hiện cải cách triệt để doanh nghiệp nhà nước, đổi
mới về cơ bản mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, đồng thời có nhận
thức đầy đủ về vị trí, vai trò của nó đối với việc giữ gìn bản chất của nhà nước là giải
pháp quan trọng đối với thách thức trên.
2.2. Về tính chất giai cấp công nhân của nhà nước
Bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của nhà nước cũng là bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và mối quan hệ trách nhiệm của đảng cầm quyền với nhân dân. Đây là điều kiện
tiên quyết bảo đảm bản chất của nhà nước. Sự bảo đảm đó trước hết phải ở tính tiên
phong trong xã hội của giai cấp công nhân, ở địa vị làm chủ nền kinh tế – xã hội của
người lao động. Đây là thách thức lớn nhất, bởi trong thực tế quan hệ lao động phổ biến
hiện nay là quan hệ chủ – thợ, với sự lệ thuộc của người lao động vào giới chủ cả về tổ
chức, cả về việc làm và thu nhập, và bởi cả sự cạnh tranh ngay trong những người lao
động về những vấn đề ấy. Trong khi đó, công đoàn, trực tiếp là công đoàn cơ sở, là tổ
chức đại diện của người lao động, có thiên chức bảo vệ lợi ích của người lao động song
lại rất hạn chế về năng lực thực hiện thiên chức của mình. ở không ít doanh nghiệp nhà
nước – địa bàn của giai cấp công nhân, người lao động cũng bị vi phạm nghiêm trọng về
các quyền và lợi ích hợp pháp, trong khi họ lại hạn chế về năng lực tự bảo vệ; những cơ
chế xã hội bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp ấy lại hoạt động kém hiệu quả. Xây
dựng giai cấp công nhân, củng cố khối liên minh công nông và đội ngũ trí thức, sửa đổi
Luật Công đoàn để bảo đảm cho các cấp công đoàn thực sự là tổ chức chính trị – xã hội
của người lao động là giải pháp quan trọng cho việc vượt qua nguy cơ và thách thức trên.
Bảo đảm tính giai cấp công nhân của nhà nước còn phải bảo đảm sự đúng đắn của đường
lối của Đảng, đề cao trách nhiệm của Đảng trước giai cấp, dân tộc về tính đúng đắn đó.
Đây là điều đòi hỏi Đảng phải bảo đảm dân chủ thực sự, thực hiện tự do tư tưởng, có cơ
chế phản biện sắc bén để kịp thời phát hiện ra sai lầm trong đường lối, tránh tình trạng sự
phán xét chỉ thuộc về lịch sử. Đồng thời có sự nghiên cứu, phân định rõ ràng giữa quyền
quyết định chính trị của Đảng với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội với quyền
quyết định lập hiến, lập pháp của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và quyền tối
thượng của nhân dân. Đây cũng là điều căn bản để khai thông những ách tắc trong những
soạn thảo, ban hành Luật Trưng cầu ý dân, một chủ trương lập pháp quan trọng của Đảng
hiện nay.
Trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền, giữ gìn tính giai cấp công nhân của nhà nước
còn đòi hỏi phải đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, tăng cường tính pháp
quyền của hệ thống thể chế đảng, làm cho sự lãnh đạo của Đảng mang đậm tính pháp
quyền, tổ chức và hoạt động không chỉ theo những nguyên tắc truyền thống mà còn theo
những nguyên tắc pháp quyền. Từ đây cần cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về sự lãnh
đạo của Đảng, về hoạt động của các tổ chức đảng bằng một hệ thống thể chế pháp lý đầy
đủ, chặt chẽ.
Suy cho cùng, Đảng lãnh đạo là để nhà nước thực sự là sở hữu của nhân dân, thực sự là
người phục vụ nhân dân, luôn đem lại sự hài lòng của mọi tầng lớp nhân dân về chất
lượng phục vụ, đem lại cuộc sống sung túc cho mọi người dân. Thực tế lại chưa phải như
vậy. Một bộ phận nhân dân đời sống còn khốn khó, nhiều cán bộ, Đảng viên, kể cả những
bậc lão thành, và nhất là không ít trí thức mất lòng tin vào Đảng, vào Nhà nước, thờ ơ,
quay lưng lại chính trị, hoài nghi bản chất tốt đẹp của chế độ. Có nhiều lý do của thực
trạng ấy, trong đó có tình trạng tham nhũng nặng nề và đặc biệt là, bệnh nói không đi đôi
với làm, “nghĩ khác, nói khác, làm khác”, nói hay làm dở, nói theo nghị quyết, pháp luật