Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.64 KB, 22 trang )

ĐẤT NƯỚC
(Trích: Trường ca "Mặt đường khát vọng")
Nguyễn Khoa Điềm
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Nguyễn khoa điềm: thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
- Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người
trí thức về đất nước, con người Việt Nam (Thơ NKĐ mới lạ, giàu chất suy tư, luôn có
sự hòa quyện chặt chẽ giữa cảm xúc và trí tuệ).
2. Hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên,
năm 1971.
+ Nội dung: Trường ca viết về sự thức tỉnh của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường đấu tranh hoà
nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Đoạn trích: Trường ca "Mặt đường khát vọng" gồm 9 chương. "Đất nước" thuộc
phần đầu chương 5 trong bản trường ca này.
+ Đoạn trích thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ
đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa...
+ Đoạn trích là một trong những đoạn thơ độc đáo, đặc sắc viết về đề tài quê hương,
đất nước.
3. Nội dung
- Phần 1: cảm nhận mới mẻ của Nuyễn Khoa Điềm về Đất Nước
+ Đất Nước có từ bao giờ? Thời điểm ra đời, quá trình lớn lên của Đất Nước.
+ 20 câu tiếp: Đất Nước là gì? Phạm vi tồn tại của Đất Nước, những định nghĩa mới
mẻ về Đất Nước.
+ 20 câu cuối: Chúng ta phải làm gì cho Đất Nước? Đất Nước hóa thân trong mỗi con
người => suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước.
- Phần 2: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân


+ 12 câu: trên bình diện không gian địa lí
+ 18 câu: trên bình diện thời gian lịch sử
+ 17 câu cuối: trên bình diện chiều sâu văn hóa
=> Đóng góp lớn nhất của Nguyễn Khoa Điềm ở chương thơ này là ông đã phát
triển đầy đủ, hoàn thiện tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
3. Nghệ thuật
- Đoạn thơ giàu chất trữ tình chính luận, vừa viết bằng chiều sâu trí tuệ, vừa được viết
bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người.
- Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, hình ảnh từ những câu truyện cổ
tích, truyền thuyết, bài ca dao, ... khiến cho câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên
mới mẻ (thể thơ tự do, dài ngắn đan xen) mà vẫn gần gũi, thân thuộc như ca dao, như
cổ tích.
- Đặc biệt, chương thơ được viết dưới hình thức tâm tình của hai nhân vật anh và em,
giống như cuộc trò chuyện của đôi lứa yêu nhau, điều này khiến cho những câu thơ
giàu tính triết luận trở nên nhẹ nhàng, sâu lắng.
PHẦN B. LUYỆN ĐỀ


Đề 1. Phân tích 9 câu đầu
MB: "Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về hình thức, khám phá về nội
dung" (Lê-ô-nốp). Trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm là một
tác phẩm như thế. Ở đoạn trích "Đất Nước" ông viết về một đề tài không mới nhưng
có những khám phá riêng, mới mẻ, độc đáo. Đến với đoạn thơ người đọc sẽ thấy
những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở
chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, ... Điều đó được thể sâu sắc qua
những câu thơ sau:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
...
Đất nước có từ ngày đó...
TB:

1. Khái quát đoạn thơ
- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành 1971, tại chiến khu
Trị - Thiên, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị
vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Trường ca Mặt đường khát vọng gồm 9 chương. Đất nước là phần đầu chương
5 trong bản trường ca này. Trong đoạn trích, những khái niệm trừu tượng, những tiêu
chí thiêng liêng về Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể,
bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống
hàng ngày của Nhân Dân.
Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu đầu của phần 1. Toàn bộ
đoạn thơ lí giải cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ?
2. Phân tích nội dung và nghệ thuật
a. Bốn câu đầu, những khám phá mới mẻ về lịch sử Đất Nước
Khi ta lớn lên ĐN đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”
mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
- Đất nước có trước chúng ta:
+ Trước hết, từ “ta” là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể là bất cứ người
Việt Nam nào, trong bất cứ thời kì nào, là chúng ta hôm nay, là con cháu sau này, là
cha ông hàng ngàn năm trước, ... bất cứ người Việt Nam nào sinh ra đều được nuôi
dưỡng, che trở và lớn lên trong cái nôi đất nước.
+ Bên cạnh đó, hai từ Đất Nước được viêt hoa một cách trang trọng. Đó là cách nhà
thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình.
+ Cụm từ "đã có rồi" nghĩa là Đất Nước có trước chúng ta. Khi ta sinh ra thì Đất Nước
đã tồn tại, có trở về quá khứ bao lâu đi nữa thì Đất Nước vẫn là cái đã hiện hữu. Đây
chính là sự tồn tại lâu đời, hiển nhiên của Đất Nước.
- Đất Nước xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích:

+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” khiến ta nhớ đến những câu chuyện cổ tích của bà, của
mẹ. Trong những câu chuyện cổ tích xa xưa ấy, có hình ảnh của Đất Nước. Nghĩa là
Đất Nước có từ rất lâu, có trước cả cổ tích, xưa hơn cổ tích.
+ Ngoài ra, cụm từ chỉ thời gian không xác định "ngày xửa ngày xưa" vừa gợi cái xa
xăm của chiều dài lịch sử vừa gợi sự gần gũi, thân quen trong kí ức tuổi thơ mỗi
người.


=> Như vậy, không cần đến những sử liệu, không cần đến những con số chính xác với
những niên đại cụ thể. Thông qua thứ thời gian mơ hồ trong trí tưởng tượng của trẻ
thơ, tác giả nói về lịch sử lâu đời của đất nước vừa sâu sắc, thấm thía vừa gần gũi đến
bất ngờ.
- Đất Nước "bắt đầu" cùng với các phong tục tập quán
+ Theo phong tục Việt Nam miếng trầu tuy không có giá trị vật chất cao nhưng chứa
đựng nhiều ý nghĩa. Nó là một nghi lễ tinh thần không thể thiếu, thể hiện phép lịch sự
trong giao tiếp.
+ Đặc biệt miếng trầu còn là "đầu câu chuyện" giao duyên lứa đôi. Ăn của nhau một
miếng trầu tức là đã nhận lời nên duyên chồng vợ cho nên các cô gái xưa được răn dạy
rằng không thể tuỳ tiện mà nhận miếng trầu của chàng trai. "Thưa rằng bác mẹ em răn/
Làm thân con gái chớ ăn trầu người". Vì vậy, trầu và cau là những vật phẩm không thể
thiếu trong nghi lễ cưới hỏi của dân tộc.
+ Bên cạnh đó, hình ảnh miếng trầu còn gợi nhắc sự tích "Trầu cau", gợi trong tâm trí
người đọc nhưng trường liên tưởng phong phú. Vị cay nồng cùng màu đỏ được tạo ra
bởi sự hoà quyện giữa các chất liệu trầu, cau, vôi khi ăn chính là biểu tượng của tình
nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt, tình anh em gắn bó, keo sơn. Đó là biểu tượng
truyền thống thuỷ chung, ân nghĩa của người Việt.
=> Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận ra, hình ảnh miếng trầu nhỏ
bé, dung dị "bây giờ bà ăn" có lịch sử hàng ngàn năm tuổi, là khởi đầu của nên văn
hoá Việt, là sự tiếp nối những giá trị văn hoá đẹp đã có từ nghìn đời.
- Đất Nước "lớn lên", phát triển cùng truyền thống trồng tre, đánh giặc:

+ Cây tre: là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống thường ngày của người dân
Việt Nam như đũa tre, giường tre, nhà tre, ...
+ "Trồng tre đánh giặc" cũng gợi nhắc truyền thuyết "Thánh Gióng", người dũng sĩ
được nuôi dưỡng bởi nhân dân, vươn mình dậy nhổ tre đánh đuổi kẻ thù. Thánh Gióng
lên ba tuổi không biết nói nhưng khi biết nói thì tiếng cất lên đầu tiên là tiếng nói của
lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ Đất Nước trước hoạ xâm lăng.
+ Và biết bao thế hệ người dân Việt Nam đã dùng tre để vót chông, làm mũi tên, làm
gậy,... để đánh giặc. Cây tre đã là biểu tượng của người Việt Nam, nhà văn Thép Mới
đã từng nhận xét: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh. Giữ đồng lúa chín".
=> Với biện pháp tu từ nhân hoá, Đất Nước được nhìn nhận như một sinh thể có sự
trưởng thành. Nhà thơ đã phát hiện ra, đất nước ngày càng phát triển, trưởng thành,
vững bền qua công cuộc dựng nước và giữ nước.
*Tiểu kết: Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho độc giả những khám phá mới mẻ về
lịch sử Đất Nước. Đất Nước đã có từ rất lâu. Bao thế hệ người lớn lên thì Đất Nước đã
có rồi, Đất Nước sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tồn tại cho đến ngày nay cùng với
những phong tục tập quán và truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc.
Ở những câu thơ tiếp theo, để minh chứng cho nguồn gốc lâu đời của Đất
Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn và đưa vào những hình ảnh bình dị, gần gũi,
quen thuộc mang đậm dấu ấn văn hoá văn học dân gian.
b. Khám phá: Đất Nước hiện thân trong văn hoá đời sống thường ngày
Đó là tập tục, thói quen; đạo lí tốt đẹp của con người; ngôn ngữ, quá trình lao động sản
xuất cần cù.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


- Trước hết là tục “bới tóc sau đầu” (búi tóc thành cuộn sau gáy). Đó là thói quen
thẩm mỹ rất riêng của người Việt. Bới tóc vừa thể hiện nét duyên dáng, nữ tính, giản

dị của người phụ nữ xưa: "Tóc ngang lưng vừa chừng em bới/ Để chi dài bối rối lòng
anh". Vừa thể hiện niềm tự hào về tinh thần độc lập tự cường. Dù trải qua hàng ngàn
năm đô hộ của phương Bắc, dù chịu sự tác động mạnh mẽ của nhiều nền văn hoá
ngoại lai nhưng người phụ nữ Việt Nam vần giữ được vẻ đẹp truyền thống.
- "Mỗi bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có khả năng làm sống dậy trong
lòng người đọc những liên tưởng phong phú". "Cha mẹ thương ..mặn" là một câu thơ
hay. Sức gợi phong phú của câu thơ này chính là ở chỗ, nó không chỉ giúp ta liên
tưởng đến ý thơ trong ca dao quen thuộc:
Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Hay:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nũa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa
Mà câu thơ còn gửi gắm một thông điệp cuộc sống qua hình ảnh "gừng cay muối
mặn". Cuộc sống của chúng ta không phải là một thảm hoa hồng trải dài mà luôn có
những khó khăn thử thách. Đời phải trải qua "giông tố" nhưng điều quan trong là trước
"giông tố" chúng ta không được "cúi đầu". Và quan trọng hơn, trên đời này chỉ có một
điều ấy thôi, đó là "yêu thương nhau". Lòng yêu thương, nghĩa tình sâu nặng sẽ là
nguồn lực tinh thần vô giá giúp chúng ta vượt qua mọi "phong ba bão táp" của cuộc
đời. "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" có nghĩa là dù trong gian khổ
cha mẹ vẫn thuỷ chung, thương yêu, gắn bó bền chặt.
=> Đó là tình cảm vợ chồng rất Việt Nam, càng gian lao khổ ải càng son sắt thuỷ
chung. (Đó chính là lối sống trọng tình, một nét đẹp khác trong truyền thống văn hoá
của con người Việt Nam).
- Tiếp đến, hình ảnh cái kèo, cái cột khiến ta nhớ về ngôi nhà truyền thống của người
Việt. Đó là tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau. Và cũng từ đó, ngôn ngữ được
hình thành, từ việc đặt tên cho cái kèo, cái cột đến việc đặt tên người, tên núi, tên sông
người Việt đã dần có tiếng nói riêng.

- Cuối cùng, hình ảnh hạt gạo đã đưa người đọc trở về nền văn minh ngông nghiệp lúa
nước. Ở đó cây lúa, hạt gạo là lương thực chính nuôi sống con người. Thành ngữ "một
nắng hai sương" kết hợp với một loạt động từ "xay, giã, giần, sàng" đã thể hiện được
các công đoạn của quá trình lao động, sự vất vả gian lao của quá trình lao động này.
Qua đây,nhà thơ cũng muốn nhắc nhở thế hệ mai sau. Hãy biết quý trọng công sức của
cha ông, quý trọng công sức của những con người lao động vất vả "bán mặt cho đất
bán lưng cho trời" để làm ra hạt gạo. Nó gợi nhắc câu ca dao xưa: "Ai ơi bưng bát cơm
đầy/ Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần"
=> Như vậy, quá trình phát triển của ĐN gắn liền với sự hình thành nên các phong tục,
gắn liền với quá trình lao động vất vả nhưng đầy tình nghĩa của con người.
c. Câu cuối: từ những khám phá mới mẻ về đất nước trong chiều dài lịch sử, chiều sâu
văn hoá, nhà thơ đi đến khẳng định:
“Đất nước có từ ngày đó ...”


- Lời thơ mộc mạc, chắc nịch, vừa khẳng định chắc chắn vừa bày tỏ niềm tự
hào về cội nguồn đất nước. Hơn nữa, dấu “...” kết thúc đoạn thơ thể hiện sự xúc động
của tác giả, tạo trường liên tưởng cộng hưởng của người đọc về lịch sử đất nước.
- “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Đất Nước hiện hình trong cổ tích, ca dao, trong đạo lí tốt đẹp, trong lao động sản
xuất, ... Vì vậy, đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình,
phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam,
muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa
chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt
ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật:
Đọan thơ (trích trong chương V), giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng
chiều sâu trí tuệ, bề dày văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm

xúc nên rất dễ đi vào lòng người.
Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, hình ảnh từ những câu
chuyện cổ tích, truyền thuyết, bài ca dao, ... khiến cho câu thơ của NKĐ hiện lên vừa
mới mẻ, hiện đại (thể thơ tự do, dài) mà vẫn gần gũi, thân thuộc như ca dao, như cổ
tích.
Đặc biệt, chương thơ được viết với hình thức tâm tình của hai nhân vật anh và
em, giống như cuộc trò chuyện của đôi lứa yêu nhau, điều này, khiến cho câu thơ giàu
tính triết luận trở nên nhẹ nhàng mà sâu lắng.
- Ý nghĩa:
+ Đoạn thơ đã đem đến cho độc giả một nhận thức đầy ý nghĩa về Đất Nước.
Đất Nước có từ xa xưa, Đất Nước là của ông bà, cha mẹ chúng ta, của một cộng đồng
cùng chung ngôn ngữ, chung phong tục tập quán, chung văn hoá cội nguồn. Đất Nước
tưởng như xa lạ mà gần gũi, kì vĩ mà thân quen, hữu hình mà vô hình.
+ Đoạn thơ đã góp phần làm phong phú thêm hình ảnh Đất Nước trong văn học.
Nếu như những nhà thơ cùng thời như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi tạo một
khoảng cách nhất định để chiêm nghiệm đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn đất
nước ở tầm gần. Đến với đoạn trích “Đất nước” (trích Trường ca mặt đường khát
vọng), người đọc nhận ra Đất Nước hiện diện trong muôn mặt đời sống hàng ngày,
trong mỗi chúng ta.
KB: Chín câu thơ đầu đoạn trích" Đất Nước" đã đem đến cho người đọc vẻ đẹp của 1
Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Sedrin tưng nói “Văn học vượt qua mọi quy luật
băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Đoạn thơ trên là minh
chứng hùng hồn cho nhận định muôn thủa đó. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ trên
chắc chắn sẽ còn làm rung động trái tim bạn đọc nhiều thế hệ.
Đề 2. Phân tích đoạn thơ:
Đất là nơi anh đến trường
.......
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Gợi ý:
MB: Viết về đề tài đất nước, nhà văn E – ren – bua từng có những dòng tâm sự rất

hay: "Dòng suối đổ vào sông, sông đổ và Trường Giang Von – ga, con sông Von – ga
đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc". Tình


yêu Tổ quốc chính là yêu những gì giản dị, gần gũi, thân quen nhất với mỗi con người.
Cùng với mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên chương thơ "Đất Nước".
Đến với đoạn thơ người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước
qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn
hoá, ... Điều đó được thể sâu sắc qua những câu thơ sau:
"Đất là nơi anh đến trường
...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày Giỗ Tổ"
TB:
1. Khái quát về đoạn trích (đề1)
Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu giữa của phần 1. Sau khi trả
lời xong câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ?” ở 9 câu thơ đầu, nhà thơ lại tiếp tục lí giải
cho câu hỏi: “Đất nước là gì?” (Đất Nước tồn tại ở đâu?) ở 20 câu tiếp.
(Nếu những câu thơ trước đó chủ yếu thể hiện suy nghẫm của Nguyễn Khoa
Điềm về khởi nguồn của Đất Nước. Đất Nước có từ "ngày xửa ngày xưa" gắn với
những thuần phong mĩ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ... thì đoạn thơ này lại chủ
yếu thể hiện cái nhìn mang tính khám phá về Đất Nước ở phương diện không gian địa
lí).
2. Phân tích
a. Đất Nước tồn tại trong không gian địa lý
* Đất Nước là không gian gần gũi, thân thuộc với mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
- Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con gái yêu thương nhà thơ đã

định nghĩa Đất Nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã tách từ Đất Nước thành 2 thành tố “Đất” và “Nước” để có
thể đi sâu vào khái niệm giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về Đất Nước.
+ Đất mạnh mẽ, vững chãi, gắn với người con trai. Đó là con đường anh đến trường,
tới những chân trời kiến thức bao la.
+ Nước dịu dàng, trong trẻo gắn với người con gái đem đến cho em sự ngọt ngào trong
sáng. "Nước là nơi em tắm" còn gợi nhớ câu chuyện cổ tích về cuộc gặp gỡ kì lạ giữa
Chử Đồng Tử và Tiên Dung.
+ Bên cạnh đó, với biện pháp điệp cấu trúc: “Đất là ...”, “Nước là ...”, "Đất Nước là ..."
nhà thơ đã gửi gắm những khám phá về không gian Đất Nước: Đất Nước không phải
cái gì xa xôi, trừu tượng mà là chính không gian gần gũi, thân thuộc với mỗi người.
Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập, sinh hoạt, và hò hẹn.
- Đặc biệt, khi thể hiện những cảm nhận về Đất Nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
không nói ra tất cả những gì mình nghĩ mình hiểu và cảm nhận. Ông chỉ gợi mở vẫn đề
thông qua những câu thơ, hình ảnh thơ chắt lọc, hàm súc, cô đọng và giàu sức gợi. Cho
nên người đọc phải vận dụng tất cả vốn hiểu biết, kiến thức, kĩ năng liên tưởng, tưởng
tượng của mình để phát hiện, suy ngẫm, khám phá ý nghĩa phong phú được gợi mở từ
câu thơ, hình ảnh thơ. Câu thơ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm sẽ giúp người đọc hình dung rõ hơn về điều đó. Câu thơ được lấy ý từ một bài ca
dao quen thuộc trong văn học dân gian:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.


Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước măt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn chẳng tắt,

Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề ...
Trong ca dao, dân ca, chiếc khăn là vật gần gũi với người con gái, là người bạn
tâm tình để họ gửi gắm những tâm tư tình cảm, trong đó có cả những rung động đầu
đời, những niềm thương nỗi nhớ. Cho nên nói "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm" nghĩa là không gian của Đất Nước là không gian của tình
yêu đôi lứa, là nơi chứa đựng những nỗi nhớ, rung động đầu đời của người con gái.
- Liên hệ mở rộng: Trước Nguyễn Khoa Điềm, Lí Thường Kiệt và Nguyễn Trãi đã
cũng đã từng khẳng định chủ quyền của Đất Nước trên phương diện không gian địa lí:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư"
("Nam quốc sơn hà")
"Núi sông bờ cõi đã chia,"
("Bình Ngô đại cáo")
Trong các tác phẩm này, hình ảnh Đất Nước hiện lên thật lớn lao, kỳ vỹ, thiêng liêng.
Còn trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước lại gắn với những không gian
quen thuộc, thậm chí là riêng tư của mỗi người.
Đất Nước gần gũi, bình dị, quen thuộc nhưng cũng rất thiêng liêng, bao la, rộng
lớn.
* Đất Nước là không gian kỳ vỹ, lớn lao, vô cùng vô tận:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
- Vẫn tiếp tục sử dụng lối chiết tự, điệp cấu trúc và khai thác sử dụng
sáng tạo chất liệu văn hóa văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khám phá
chiều rộng của không gian Đất Nước. Đất Nước là núi sông, rừng bể mênh mông, trù
phú, giàu đẹp.
+ Câu thơ gợi nhớ đến câu hò quen thuộc của người Bình Trị Thiên: "Con chim
phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc/ Con cá ngư ông móng nước biển khơi/ Gặp
nhau đây xin phân tỏ đôi lời/ Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về

non xanh"
+ Các hình ảnh "con chim phượng hoàng", "hòn núi bạc", con cá ngư ông" "biển khơi"
vừa gợi ra không gian rộng lớn, mênh mông, cao rộng vừa gợi ra sự giàu có, vương
giả. Tất cả đem đến cho người đọc một hình dung về Đất Nước rộng lớn, giàu đẹp.
b. Đất Nước tồn tại trong chiều dài của thời gian
Đất Nước không chỉ được cảm nhận là không gian “mênh mông” mà nó còn đc
cảm nhận trong thời gian “đằng đẵng”, trong đó, các thế hệ nối tiếp nhau viết lên
những trang sử hào hùng của Đất Nước.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về


Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ân đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ .
- Đất Nước tồn tại trong thời gian:
+ Từ láy "đằng đẵng" gợi cả một chiều sâu hun hút của lịch sử 4000 năm dựng nước
và giữ nước. "Đằng đẵng" cũng mang sắc thái chờ đợi mỏi mòn, nó cho ta hình dung
về một chặng đường gian lao mà ở đó nhân dân ta thường xuyên phải đối mặt với kẻ
thù xâm lược. Trong suốt chặng đường ấy chúng ta luôn khao khát, luôn mong chờ
một ngày Đất Nước được độc lập, tự do. Và cho đến hôm nay khi mà Nguyễn Khoa

Điềm viết những dòng thơ này chúng ta vẫn luôn bền bỉ đấu tranh để hiện thực hoá
khát khao cháy bỏng ấy.
+ Từ đó ông khẳng định: từ khi hình thành, phát triển cho đến nay "Đất Nước là nơi
dân mình đoàn tụ". Đất Nước là nơi sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt
Nam. Không có nhân đân đất nước không thể hình thành.
- Đât Nước tồn tại trong truyền thuyết:
+ Trong những câu thơ tiếp theo Nguyễn Khoa Điềm nhắc tới hai truyền thuyết: Lạc
Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng.
+ Truyền thuyết là sự sáng tạo của nhân dân nhưng nó cũng ít nhiều chứa đựng những
dấu vết lịch sử, quan trọng hơn, qua truyền thuyết chúng ta thấy được cách nhìn nhận
đánh giá, thấy được thái độ và tình cảm của nhân dân dành cho Đất Nước.
+ Truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ" thể hiện niềm tự hào của nhân dân về
dòng giống cao quý của dân tộc, dòng giống con rồng cháu tiên.
+ Hai từ "đồng bào" muốn nhắc nhở chúng ta, dù sống ở đâu trên dải đất này thì
chúng ta cũng là con của một mẹ, là máu mủ ruột già cùng chung một bọc trứng của
mẹ Âu Cơ. Vì vậy chúng ta phải luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau đoàn
kết để đứng lên đánh bại kẻ thù.
+ Truyền thuyết vua Hùng lại thể hiện niềm tự hào về quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta phải luôn ghi nhớ công ơn của các bậc
tiền nhân đã đổ bao xương máu để có được ngày hôm nay. Mỗi con người hôm nay
phải biết trân trọng và giữ gìn di sản thiêng liêng ấy. Như lời bác Hồ đã dặn: "Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
+ Vì vậy, "những ai đã khuất", "những ai bây giờ", thế hệ đi trước, thế hệ hiện tại phải
luôn ghi lòng tác dạ, dạy dỗ thế hệ tương lai không bao giờ được phép quên truyền
thống cao quý của dân tộc. Hàng năm dù làm ăn, lập nghiệp ở đâu cũng phải biết "cúi
đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hai chữ "cúi đầu" cùng với chữ "Tổ" được viết hoa thể hiện
tình cảm thành kính, thiêng liêng hướng về cội nguồn. Người Việt dù ở bất cứ đâu trên
thế giới này cũng nhớ phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên, nhớ ơn cội nguồn và không
quên ngày Quốc giỗ: "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mừng mười tháng ba".
=> Như vậy, nếu nhìn từ bình điện thời gian, có thể thấy Đất Nước hình thành và phát

triển qua các cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ người Việt Nam trong chiều dài lịch sử
dụng nước và giữ nước.


3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: "Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác", đoạn thơ trên trong "Đất Nước"
trích trường ca "Mặt đường khát vọng" là một đoạn thơ hay.
Đọan thơ (trích trong chương V), giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng
chiều sâu trí tuệ, bề dày văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm
xúc nên rất dễ đi vào lòng người.
Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, hình ảnh từ những câu
chuyện cổ tích, truyền thuyết, bài ca dao, ... khiến cho câu thơ của NKĐ hiện lên vừa
mới mẻ, hiện đại (thể thơ tự do, dài) mà vẫn gần gũi, thân thuộc như ca dao, như cổ
tích.
Ngôn ngữ ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, truyền cảm; hình ảnh cô đúc giàu sức gợi;
kết cấu câu thơ dài ngắn xen kẽ, thay đổi linh hoạt cùng với một loạt các biện pháp tu
từ như phép đối, điệp, so sánh, ... được sử dụng khéo léo
Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về không gian và thời
gian lịch sử của đất nước.
Chủ đề quê hương Đất Nước không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học
Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về Đất Nước của
nhiều nhà thơ có tên tuổi, ... Nhưng có thể nói nhưng có thể nói, "Đất Nước" của
Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước
một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc.
Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ miền Nam thời chống Mỹ và
tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Đoạn thơ đã làm sống lại
truyền thống hào hùng của dân tộc ta.
KB: Những câu thơ trên trong đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm
đã đem đến cho bạn đọc những định nghĩa mới mẻ về Đất Nước trên bình diện không
gian địa lý và thời gian lịch sử. Sedrin tưng nói “Văn học vượt qua mọi quy luật băng

hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Đoạn thơ trên là minh
chứng hùng hồn cho nhận định muôn thủa đó. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ trên
chắc chắn sẽ còn làm rung động trái tim bạn đọc nhiều thế hệ.
Đề 3. Phân tích đoạn thơ:
"Trong anh và em hôm nay
.......
Làm nên ĐN muôn đời ..."
Gợi ý:
MB: "Có mối tình nào hơn
Tổ quốc?"
Trần Mai Ninh
Đất Nước từ lâu đã là nguồn đề tài lớn chi phối cảm hứng sáng tác của
không ít tác giả trong nền văn học của dân tộc. Cùng chọn một đề tài quen thuộc, thế
nhưng mỗi nhà thơ lại tạo nên một vẻ đẹp riêng cho tác phẩm của mình. Đến với đoạn
trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm, người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ
của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình
diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, ... Đất Nước tồn tại, hiện diện ngay trong chính mỗi con
người. Điều đó được thể sâu sắc . qua những câu thơ sau:
"Trong anh và em hôm nay
...
Làm nên Đất Nước muôn đời..."


TB:
1. Khái quát về đoạn trích
- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành 1971, tại chiến khu
Trị - Thiên, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị
vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Trường ca Mặt đường khát vọng gồm 9 chương. Đất nước là phần đầu chương

5 trong bản trường ca này. Trong đoạn trích, những khái niệm trừu tượng, những tiêu
chí thiêng liêng về Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể,
bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống
hàng ngày của Nhân Dân.
Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu cuối của phần 1. Sau khi trả
lời được câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ? Và Đất Nước là gì? Tác giả đã khơi dậy
trong mỗi con người ý thức trách nhiệm đối với Đất Nước.
2. Phân tích nội dung và nghệ thuật
a. Đất Nước có trong "anh" và "em" (trong mỗi người)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
- Nhân vật trữ tình trong hai câu thơ là "anh" và "em" khiến cho lời thơ trở nên nhẹ
nhàng, thân thiết như lời thủ thỉ, tâm tình của hai trái tim yêu thương. Nhưng họ không
nói với nhau về chuyện riêng tư của mình, tình cảm của mình như những nhân vật trữ
tình mà ta thường bắt gặp trong thơ:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm. Em ơi!
("Tương tư chiều" – Xuân Diệu)
Nhân vật "anh" và "em" trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở bên nhau là để cùng nhau
nói chuyện về Đất Nước, nhắc nhở nhau về trách nhiệm với Đất Nước.
=> Đất Nước một vấn đề mang tình khái quát trừu tượng, chính trị khô khan trở nên
trữ tình sâu lắng, dễ đi vào lòng người.
- Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, tác giả đã chỉ ra Đất Nước hóa thân, kết tinh trong
cuộc sống của mỗi con người.
+ Bề ngoài, câu thơ có vẻ phi lí, vì Đất Nước bao la, rộng lớn, thiêng liêng, vĩnh hằng
sao có thể hóa thân trong mỗi người. Nhưng bề sâu, câu thơ lại diễn tả một điều hợp
lí : mỗi người đều mang trong mình một phần Đất Nước.
+ Bởi vì, ai lớn lên cũng được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất
của cha ông. Đó là truyền thống yêu nước, phong tục ăn trầu, búi tóc, ngôn ngữ, ... nên
Đất Nước hiện hình trong màu da, mái tóc, dáng dấp, tiếng nói của mỗi người.

=> Đất nước hiện thân trong mỗi người.
b. Mối quan hệ giữa con người và ĐN (giữa cá nhân với cộng đồng, riêng với chung,
thế hệ này với thế hệ khác.
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đât Nước vẹn tròn to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- "Cầm tay" được điệp lại hai lần, nhấn mạnh sự kết nối, đoàn kết, gắn bó, yêu thương.


+ "Khi hai đứa cầm tay" thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. "Khi chúng ta
cầm tay mọi người" chỉ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng.
+ Cá nhân gắn kết với cá nhân thì Đất Nước "hài hoà nồng thắm" nghĩa là khi chúng ta
gắn bó với nhau sẽ tạo nên hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình. Từ hạnh phúc cá
nhân sẽ làm nên hạnh phúc Đất Nước.
+ Cá nhân gắn kết với cộng đồng thì Đất Nước sẽ "vẹn tròn to lớn", tạo nên sức mạnh
đoàn kết nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Đây là sự tiếp nối lới dạy của Bác:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công".
- Liên hệ:
+ Cá nhân tồn tại trong cộng đồng cũng giống như giọt nước với biển cả. Nếu giọt
nước không hoà vào biển cả nó sẽ cạn khô nhanh chóng. Cũng như vậy nếu cá nhân
chỉ quan tâm đến hạnh phúc cá nhân của mình, không có trách nhiệm với cộng đồng,
không vì cộng đồng thì Đất Nước đâu còn.
+ "Giọt nước chỉ hoà vào biển cả mới không cạn mà thôi". Con người phải gắn kết với
con người, với tập thể, cộng đồng thì cuộc sống mới có ý nghĩa, ngày càng tốt đẹp
hơn. Nói như nhà thơ Tố Hữu:
Một ngôi sao chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng
Một người - đâu phải nhân gian
Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi
(Tiếng ru)
=> Đất Nước chỉ trường tồn khi có sự gắn kết giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân
với cộng đồng.
- Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ bày tỏ niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai của
Đất Nước:
+ Các từ ngữ: "mai này", "sẽ", "đến" là sự hình dung, tưởng tượng của tác giả về tương
lai Đất Nước.
+ Hai chữ "con ta" đầy thiết tha, trìu mến. "Con ta" là con "anh" và "em" nhưng đó
cũng là cách nói sáng tạo để chỉ các thế hệ nối tiếp trong tương lai. Nhà thơ đang kỳ
vọng và có một niềm tin mãnh liệt vào các thế hệ tương lai của Đất Nước. Sau này, khi
con trưởng thành, con sẽ mang "Đất Nước đi xa", vượt ra ngoài không gian chật hẹp,
đưa Đất Nước hoà nhập với quốc tế, đến những tháng ngày "mơ mộng" vượt ra cả
mong đợi của thế hệ hôm nay. Đó không chỉ là mơ ước của Nguyễn Khoa ĐIềm mà
còn là niềm mong mỏi của hàng chục triệu con người Việt Nam.
c. Trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước
"Thơ là âm nhạ của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm". Thơ tác
động đến nhận thức, tâm hồn người đọc trực tiếp bằng hệ thống ngôn từ, hình ảnh,
thấm đẫm tình cảm, cảm xúc. Cảm xúc của nhà thơ càng nồng nàn, chân thành thì
tiếng nói của nhà thơ tác động đến độc giả cảng thấm thía, sâu sắc. Các câu thơ cuối
đoạn trích là những lời chân thành, xúc động, bật ra từ cảm xúc mạnh mẽ, mãnh liệt
nhất của nhà thơ.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
- Ba chữ "em ơi em" ngắn gọn, hàm súc nhưng được tách riêng ra thành một nhịp
vang lên trong câu thơ như tiếng gọi tha thiết trìu mến với người yêu thương. Nó chính

là khúc dạo đầu cho lời nhắn nhủ ân tình, nhẹ nhàng, cảm động.


- Biện pháp tu từ so sánh "Đất Nước là máu xương của mình" khiến cho khái niệm Đất
Nước trở nên cụ thể, hữu hình. Trong đó "máu xương" mang nhiều ý nghĩa. Trước hết,
Đất Nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của biết bao thế hệ người Việt
Nam. Đất Nước cho chúng ta hình hài, máu thịt. Đất Nước không chỉ bên ngoài ta như
con đường, ngọn núi, dòng sông mà còn hiện hữu ở trong ta, trong từng giọt máu Việt
Nam. Từ đó nhà thơ đưa ra những lời nhắn nhủ thiết tha về ý thức trách nhiệm của cá
nhân với cộng đồng:
- Điệp ngữ "phải biết" thúc giục mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước. Bởi sự
trường tồn của Đất Nước cũng là sự trường tồn của mỗi người. Và Nguyễn Khoa Điềm
chỉ ra mỗi người cần có hành động:
+ "Gắn bó" là phải xem Đất Nước như một phần thân thể, yêu thương Đất Nước như
yêu thương chính bản thân mình, máu thịt của mình. Rất nhiều nhà thơ khác cũng đã ý
thức được sâu sắc điều đó. Chế Lan Viên đã viết:
Ôi! Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngon núi, con sông.
(Sao chiến thắng)
+ "San sẻ" là giúp đỡ, hỗ trợ nhau, yêu thương, đùm bọc, "lá lành đùm lá rách". Luôn
ghi nhớ lời dạy của cha ông "Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước
phải thương nhau cùng".
+ "Hoá thân" là sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng "Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh". Đó là tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
=> Sự "gắn bó", "san sẻ" và sẵn sàng "hoá thân" cho Đất Nước đã, đang và sẽ làm cho
Đất Nước mãi phát triển và trường tồn.
=> Đoạn thơ đã khơi dậy ý thức cá nhân đối với Đất Nước. Mỗi cá nhân cần phải có
trách nhiệm tự nguyện gánh vác những công việc chung của đất nước. Khi Đất Nước

có giặc ngoại xâm thì phải hoà mình vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Khi Đất Nước
thái bình thì phải học tập, rèn luyện để phát triển, dựng xây Đất Nước ngày càng giàu,
đẹp, mạnh.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật:
Đọan thơ (trích trong chương V), giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng
chiều sâu trí tuệ, bề dày văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm
xúc nên rất dễ đi vào lòng người.
Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, hình ảnh từ những câu
chuyện cổ tích, truyền thuyết, bài ca dao, ... khiến cho câu thơ của NKĐ hiện lên vừa
mới mẻ, hiện đại (thể thơ tự do, dài) mà vẫn gần gũi, thân thuộc như ca dao, như cổ
tích.
Đặc biệt, chương thơ được viết với hình thức tâm tình của hai nhân vật anh và
em, giống như cuộc trò chuyện của đôi lứa yêu nhau, điều này, khiến cho câu thơ giàu
tính triết luận trở nên nhẹ nhàng mà sâu lắng.
- Ý nghĩa:
+ Đoạn thơ đã đem đến cho độc giả một nhận thức đầy ý nghĩa về Đất Nước.
+ Đoạn thơ đã góp phần làm phong phú thêm hình ảnh Đất Nước trong văn học.
Nếu như những nhà thơ cùng thời như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi tạo một
khoảng cách nhất định để chiêm nghiệm đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn đất
nước ở tầm gần. Đến với đoạn trích “Đất nước” (trích Trường ca mặt đường khát


vọng), người đọc nhận ra Đất Nước hiện diện trong muôn mặt đời sống hàng ngày,
trong mỗi chúng ta.
KB: "Cái kết tinh của một vần thơ và muối bể/ Muối lắng ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu"
(Đối thoại mới – Chế Lan Viên). Có thể khẳng định, đoạn trích "Đất Nước" trích
trường ca "Mặt đường khát vọng" đã đạt đến trình độ kết tinh về nghệ thuật ngôn ngữ
và cảm xúc. "Chất muối" của những dòng thơ về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm sẽ
còn là lời thúc giục, nhắc nhở tha thiết cho các thế hệ thanh niên muôn đời sau.

Đề 4. Phân tích đoạn thơ:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
Những núi Vọng Phu
.......
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta ..."
Gợi ý:
MB: Trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, đất nước là một chủ đề bao trùm.
Tuy nhiên ở mỗi thời kì và đi qua lăng kính tâm hồn mỗi nhà thơ, cảm hứng về đất
nước lại có vẻ đẹp riêng. Đến với đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm,
người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp
được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, ... Đất Nước là
của nhân dân, do nhân dân tạo nên. Điều đó được thể sâu sắc qua những câu thơ sau:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
Những núi Vọng Phu
...
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta ..."
TB:
1. Khái quát về đoạn trích
- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành 1971, tại chiến khu
Trị - Thiên, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị
vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Trường ca Mặt đường khát vọng gồm 9 chương. Đất nước là phần đầu chương
5 trong bản trường ca này. Trong đoạn trích, những khái niệm trừu tượng, những tiêu
chí thiêng liêng về Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể,
bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống
hàng ngày của Nhân Dân.
Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu đầu tiên của phần II. Toàn
bộ đoạn thơ thể hiện quan điểm: nhân dân vô danh đã hoá thân làm nên dáng hình của
Đất Nước.

2. Phân tích nội dung và nghệ thuật
a. Tám câu đầu là nhứng phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về những địa danh
của Đất Nước
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
Những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút,
non Nghiên


Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm"
- Biện pháp liệt kê: liệt kê, kể tên các địa danh, các danh lam thắng cảnh trải dài theo
chiều dài của Tổ Quốc từ Bắc tới Nam, từ đồng bằng đến miền núi, đến miền biển
khơi mênh mông.
=> Tác giả đã phác thảo tấm bản đồ văn học về Đất Nước.
+ Hòn Vọng Phu – Lạng Sơn, Bình Định
+ Hòn Trống Mái – Sầm Sơn
+ Đất Tổ Hùng Vương – Phú Thọ
+ Núi Bút, non Nghiên ở Quảng Ngãi
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm – Nam Bộ
+ Liên hệ: Khác với bài thơ "Tây Tiến", nhà thơ Quang Dũng đưa đến cho độc giả ấn
tượng về những địa danh xa lạ: Mường Hịch, Mường Lát, Sài Khao, ... Từ đó gợi ta
liên tưởng đến một miền đất xa xôi, hẻo lánh, hoang sơ, bí hiểm, ... Ở đây, Nguyễn
Khoa Điềm đưa vào trong đoạn thơ trên những địa danh nổi tiếng, quen thuộc, từ Bắc

tới Nam.
=> Điều quan trọng nhất là, nhà thơ đã có những phát hiện mới mẻ, ông nhận ra những
danh lam thắng cảnh của Đất Nước không phải chỉ đơn thuần là do thiên nhiên tạo ra,
mà là sản phẩm do con người tạo nên.
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian: mỗi địa danh được nhắc đến đều gắn với một
huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử.
+ Hòn Vọng Phu là địa danh có hình thù giống người vợ bồng con chờ chồng. Tác giả
phát hiện ra, vẻ đẹp của hòn Vọng Phu không phải là do thiên tạo mà chính tình nghĩa
sâu nặng, thủy chung, son sắt của con người đã thổi hồn cho sự vật. Nếu không có
cảnh người vợ mòn mỏi chờ chồng trong những ngày binh lửa chiến tranh thì không có
hòn Vọng Phu.
+ Cũng như vậy, nếu không có tình cảm đôi lứa bền vững thì không có hòn Trống Mái
ở bờ biển Sầm Sơn và một số nơi.
+ Ao hồ ở Làng Gióng (Phù Đổng – Gia Lâm) là dấu tích của gót ngựa Thánh Gióng,
sau khi dẹp tan giặc Ân đã bay về trời.
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, uy nghiêm của những ngọn núi chập trùng nơi đất Tổ Hùng Vương
gắn với truyền thuyết chín mươi chín con voi trung nghĩa.
=> Qua những địa danh được khoác lên mình màu sắc huyền thoại, ta không chỉ hiểu
hơn về một thời kì lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc mà còn nhận thức đúng
về công lao của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
+ Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng Cửu Long xanh thẳm với phù sa màu mỡ gắn
liền với truyền thuyết CHín con rồng nằm im
+ Núi Bút, Non Nghiên ở dải đất miền Trung nhọc nhằn, gian khó là dấu ấn truyền
thống hiếu học do người học trò nghèo hóa thân tạo thành. Địa danh này không chỉ gợi
truyền thống văn hóa Việt Nam mà còn là biểu tượng của những khao khát cháy bỏng
trong tâm hồn Việt. Không chỉ đơn giản là khao khát ai cũng có “cơm ăn áo mặc” mà
trên tất cả, ai cũng được học hành. Chỉ có con đường học tập dân tộc ta mới vươn tới
những chân trời mới, Đất Nước ta mới có thể “lớn lên” và “đi xa”/
+ Thắng cảnh Hạ Long với những ngọn núi mang dáng hình con cóc, con gà là dấu ấn
của cuộc sống bình dị, chất phác, là sự góp thân của những con vật bình thường tạo

thành sông vịnh.


+ Những ngọn núi linh thiêng ở Tây Ninh, đồng bằng Nam Bộ là sự ghi dấu tên tuổi
của những người dân bình thường có công với vùng đất như: Ông Đốc, Ông Trang, Bà
Đen, Bà Điểm.
=> Như vậy, mỗi địa danh đều mang một vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân ta. Nhân dân
đã mở mang, xây dựng và gìn giữ non sông Đất Nước mình.
Thiên nhiên Đất Nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần
hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên Đất Nước này, đã đặt tên,
ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này.
- Điệp từ “góp”: Cả đoạn thơ, từ “góp” được điệp lại 6 lần, nhấn mạnh sự đóng góp
nhỏ bé, bình dị thầm lặng của những người dân vô danh đối với Đất Nước. Qua đó
Nguyễ Khoa Điềm thể hiệ sự biết ơn, trân trọng những đống góp của các thế hệ nhân
dân với Đất Nước.
- Liên hệ: Có thể nói, khi viết về không gian địa lý của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm
không nhắc tới những vị anh hùng, những triều đại vàng son, những vĩ nhân được lưu
danh trong sử sách như Chế Lan Viên:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều và đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào của Bắc
Hưng Đạo Đại Vương diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
(Tổ quốc bào giờ đẹp thế này chăng)
Nguyễn khoa Điềm nhắc tới những con người vô danh, bình dị mà nhà thơ gọi bằng
danh từ chung mang nghĩa khái quát như: những người vợ, cặp vợ chồng, người học
trò nghèo, những cuộc đời, ...
b. Từ những cảm nhận về không gian của Đất Nước, nhà thơ đi đến khái quát
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta ...
- Nhân hóa: Mỗi ngọn úi, dòng sông, đồng ruộng, gò bãi, mỗi danh lam thắng cảnh
trên khắp mọi miền Đất Nước đều không còn vô tri, đều như có linh hồn, như mang
tậm trạng, đều gợi một “dáng hình”, một “ao ước”, một “lối sống ông cha”.
- Liên từ “và” đứng ở đầu câu thơ có chức năng liên kết với phần trên và mở ra ý khái
quát ở phần sau. Giúp nhà thơ khẳng định: bất cứ một nơi nào trên đất nước từ ruộng
đồng đến gò bãi, từ Bắc tới Nam, từ quá khứ đến hiện tại vươn ra tương lai. Mỗi ngọn
núi, con sông, vùng đất đều là sự hóa thân kì diệu của mỗi người dân.
- Mở rộng: đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã viết: “Những địa danh trôi từ thủa xa xôi,
trôi bằng máu và trôi bằng nước mắt đã đọng lại thành tên người, tên đất”.
- Thán từ “ôi!” kết hợp với dấu ba chấm “...” cuối đoạn thơ đã thể hiện niềm tự hào và
sự xúc động nghẹn ngào khi tác giả nghĩ về “bốn ngàn năm” đã qua. Có biết bao cuộc
đơiì đã “hóa núi sông ta”. Động từ “hóa” không chỉ gơi ra những đóng góp lớn lao bởi
mồ hôi xương máu của nhân dân mà còn ngợi ca sức mạnh kì diệu của những con
người vô danh, thầm lặng. Những con người “một nắng hai sương” trong thời bình và
kiên cường trồng tre đánh giặc trong thời chiến.
=> Với cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các địa danh cụ thể đến khái quát tổng hợp, đúc
kết chân lí, dường như nhà thơ không thể kể ra hết được những danh lam thắng cảnh
và những nét đẹp của văn hóa dân tộc trên mọi miền Tổ quốc. Cuối cùng nhà thơ đi
đến khẳng định: trên bình diện không gian địa lí, mỗi địa danh của Đất Nước, mỗi địa
chỉ văn hóa đều là sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn Việt.


3. Đánh giá chung
Chương thơ được viết với giọng điệu riêng biệt, giọng điệu trữ tình chính luận
mà ta không thể bắt gặp ở bất cứ nhà thơ nào khác.
Chỉ với một đoạn thơ ngắn trích trong "Đất Nước" trích trường ca "Mặt đường
khát vọng" với hệ thồng ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, truyền cảm; hình ảnh cô đúc giàu
sức gợi; kết cấu câu thơ dài ngắn xen kẽ, thay đổi linh hoạt cùng với một loạt các biện
pháp tu từ như phép đối, điệp, so sánh, ... được sử dụng khéo léo; khả năng vận dụng

sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian.
Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về dáng hình, địa danh
của đất nước.
Chủ đề quê hương Đất Nước không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học
Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về Đất Nước của
nhiều nhà thơ có tên tuổi, ... Nhưng có thể nói nhưng có thể nói, "Đất Nước" của
Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước
một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc.
Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ miền Nam thời chống Mỹ và
tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Đoạn thơ đã làm sống lại
truyền thống hào hùng của dân tộc ta.
KB: "Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về hình thức, khám phá về nội
dung" (Lê-ô-nốp). Đoạn thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến cho người đọc
những khám phá mới mẻ về dáng hình của Đất Nước. Mọi địa danh trên dải đất của
quê hương Tổ quốc đều là sự hóa thân kì diệu của nhân dân. Nhân dân đã làm nên
“Đất Nước”, tuổi trẻ hôm nay cũng là một lớp người cần có trách nhiệm đóng góp vào
sự hóa thân ấy.
Đề 5. Phân tích đoạn thơ:
"Em ơi em
.......
Họ đã làm ra Đất Nước"
Gợi ý:
MB: Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh

Riêng những bài hát
còn xanh
(Văn Cao)
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến
chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ vượt qua quy luật "băng hoại" của thời gian. Trường
ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm như thế. Đến với
đoạn trích "Đất Nước", người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất
Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí,
văn hoá, ... Đất Nước là của nhân dân, do nhân dân tạo nên. Điều đó được thể sâu sắc
qua những câu thơ sau:


"Em ơi em
.......
Họ đã làm ra Đất Nước"
TB:
1. Khái quát về đoạn trích
- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành 1971, tại chiến khu
Trị - Thiên, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị
vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Trường ca Mặt đường khát vọng gồm 9 chương. Đất nước là phần đầu chương
5 trong bản trường ca này. Trong đoạn trích, những khái niệm trừu tượng, những tiêu
chí thiêng liêng về Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể,
bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống
hàng ngày của Nhân Dân.
Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu giữa của phần II. Toàn bộ
đoạn thơ là những suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về những đóng góp lớn lao của
nhân dân trong 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
2. Phân tích nội dung và nghệ thuật

Nếu các cây bút văn xuôi tự sự thường thể hiện tình cảm, cảm xúc gián tiếp qua
nhân vật, cốt truyện thì thơ lại tác động đến người đọc trực tiếp thông qua hệ thống
ngôn từ, hình ảnh, thấm đẫm tình cảm, cảm xúc. Cảm xúc của nhà thơ càng nồng nàn
mãnh liệt, càng chân thành thì tiếng nói của nhà thơ tác động đến độc giả càng thấm
thía, sâu sắc. Đoạn thơ sau chính là minh chứng cho những khẳng định đó.
a. 3 câu đầu đoạn: đóng vai trò chuyển ý
"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước"
- Nhà thơ mở đầu đoạn thơ bằng tiếng gọi tha thiết: "Em ơi em". Câu thơ toàn vần
bằng, âm điệu thơ kéo dài, vang xa, tha thiết. Dây là lần thứ hai trong toan bộ trích
đoạn nhà thơ sử dụng điệp khúc này. Cách gọi ấy đã tạo giọng điệu thủ thỉ, tâm tình.
Khiến đoạn thơ trở thành lời tâm sự ngọt ngào của anh và em về lịch sử của Đất Nước.
- "Anh" và "em" bên nhau không phải để nói chuyện riêng, chuyện tình yêu, nỗi
nhớ, ... mà họ nhắn nhủ, nhắc nhở nhau cùng nhìn lại "bốn nghìn năm lịch sử" của dân
tộc để nhận thức đúng hơn về vai trò của nhân dân.
- Hơn nữa, kết cấu câu thơ đặc biệt: dung lượng câu thơ sau dài hơn so với câu trước
như đẩy người đọc dần trở về quá khứ xa xưa của dân tộc.
=> Từ đây, Đất Nước được cảm nhận ở bình diện thứ 2: trong chiều dài của thời gian
lịch sử với những phát hiện, suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ.
b. 8 câu tiếp:Nhân dân đã dựng xây và bảo vệ Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ



- Điệp: "người người lớp lớp", "con gái", "con trai" đã tạo nhịp điệu hào hùng cho câu
thơ và khiến cho hình ảnh nhân dân hiện lên đông đảo.
+ Mỗi lớp người là một thế hệ, 4000 lớp người là 4000 thế hệ với vô vàn những người
"con gái", "con trai".
+ Tất cả đều đã từng "bằng tuổi chúng ta", bằng tuổi "anh" và "em" đều trẻ trung, đều
cần cù dũng cảm và mang trong mình nhiệt huyết của tuổi thanh xuân.
+ Thời bình họ chăm chỉ lao động , thời chiến người con trai ra trận để bảo vệ đất
nước, người con gái ở nhà chăm sóc mẹ già, con thơ. Họ vừa đảm nhiệm gánh nặng
ruộng vườn vừa đảm đang trong công việc gia đình, trở thành hậu phương vững chắc
cho chồng yên tâm nơi chiến trận.
- Bên cạnh đó, tác giả còn vận dụng thành công câu nói dân gian: "giặc đến nhà thì đàn
bà cũng đánh". Câu nói đã gợi ra được không khí sục sôi khi nhân dân ta chiến đấu
oanh liệt để bảo vệ dân tộc. Thật hiếm có dân tộc nào mà tinh thần yêu nước, quyết
tâm đánh giặc lại sục sôi không chỉ ở đấng nam nhi đại trượng phu mà ở cả những
người phụ nữ chân yếu tay mềm. Như vậy, lịch sử hào hùng của dân tộc có sự góp
công, góp sức của tất cả nhân dân trong đó không thể thiếu vai trò của người phụ nữ
Việt Nam.
- Đặc biệt, tác giả không sử dụng một danh từ riêng nào khi nói về lịch sử
+ Cả đoạn thơ không có một cái tên riêng, chỉ có "con gái", "con trai", "họ", không có
một triều đại hoàng kim, cũng không nhắc đến những người anh hùng dù "cả anh và
em đều nhớ".
+ Phải chăng vì các triều đại, anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được Tổ quốc lưu danh
trong sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng. Mà dù sao, con số các triều
đại, các anh hùng cũng là hữu hạn còn đóng góp của nhân dân của biết bao thế hệ để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì vô danh, vô hạn, thầm lặng, lớn lao.
=> Như vậy, khi nhìn về lịch sử "bốn nghìn năm" của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm
không nhắc tới các triều đại phọng kiến như Nguyễn Trãi:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"
Nguyễn Khoa Điềm cũng không nhắc tới những vĩ nhân nổi tiếng như Chế Lan Viên:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Ông nhắc tới những người dân bình dị, vô danh.
- Lập luận đòn bẩy: Trong số những người dân vô danh ấy, nhiều người đã trở thành
anh hùng được lưu danh sử sách như: bà Trưng, bà Triệu, chị Út Tịch, Nguyễn Văn
Trỗi, chị Võ Thị Sáu, ... những người anh hùng này cả anh và em đều nhớ, nhưng dụng
ý của nhà thơ là không nhắc tới những người anh hùng nổi tiếng trong lịch sử mà nhắc
tơi những con người vô danh, bình dị đã âm thầm lăng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương
máu đến cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc lứa đôi để "làm nên Đất Nước".
c. 7 câu cuối: khẳng định công lao của nhân dân. Nhà thơ đã ngợi ca, tập trung khắc
hoạ chân dung một tập thể anh hùng vô danh.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi


Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
- Chữ "nhưng" ở đầu đoạn thơ có vai trò liên kết ý thơ, nhấn mạnh vai trò to lớn của
nhân dân, những con người không dược lưu danh sử sách, bia đá, bảng vàng.
- "Họ" được điệp lại hai lần chỉ bao người "con gái", "con trai" trong bốn nghìn lớp
người giống ta lứa tuổi. Bốn nghìn lớp người là bốn nghìn thế hệ. Mỗi thế hệ là vô vàn
những người "con gái", "con trai", họ là những người dân vô danh không ai "nhớ mặt

đặt tên" nhưng họ có công làm nên đất nước và họ chính là những con người Nguyễn
Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn hết.
- Biện pháp tu từ đối lập: "sống" – "chết", "giản dị" – "bình tâm" đã thể hiện sâu sắc vẻ
đẹp của nhân dân. Họ suy nghĩ bình thường, giản đơn, chết âm thầm lặng lẽ. Những
người dân bình thường mà Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tên ấy có thể là người vợ
nhớ chồng "góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu", hay "cặp vợ chồng yêu nhau góp
nên hòn Chống Mái", những người học trò nghèo mà hiếu học đã góp cho Đất Nước
mình Núi Bút, non Nghiên cũng có thể họ là những người nông dân "cui cút làm ăn
toan lo nghèo khó" (Văn tế ...)... Họ đã cống hiến cho đất nước một cách thầm lặng và
đơn giản vô ngần. Họ có thể là những con người "Sống trên cát chết vùi trong cát/
Những trái tim như ngọc sáng ngời" (Tố Hữu). Chính vì có những "trái tim như ngọc
sáng ngời" ấy nên đất nước này là đất nước của nhân dân.
3. Nhận xét chung
Chương thơ được viết với giọng điệu riêng biệt, giọng điệu trữ tình chính luận
mà ta không thể bắt gặp ở bất cứ nhà thơ nào khác.
Chỉ với một đoạn thơ ngắn trích trong "Đất Nước" trích trường ca "Mặt đường
khát vọng" với hệ thồng ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, truyền cảm; hình ảnh cô đúc giàu
sức gợi; kết cấu câu thơ dài ngắn xen kẽ, thay đổi linh hoạt cùng với một loạt các biện
pháp tu từ như phép đối, điệp, so sánh, ... được sử dụng khéo léo; khả năng vận dụng
sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian.
Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta.
Chủ đề quê hương Đất Nước không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học
Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về Đất Nước của
nhiều nhà thơ có tên tuổi, ... Nhưng có thể nói nhưng có thể nói, "Đất Nước" của
Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước
một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc.
Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ miền Nam thời chống Mỹ và
tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Đoạn thơ đã làm sống lại
truyền thống hào hùng của dân tộc ta.

KB: Pauxtôpxki từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của
người mở đường đến với cái đẹp”. Với tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt,
cháy bỏng Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp của nhân dân
trong lịch sử.
Để các thế hệ người Việt Nam mãi tự hào về nhân dân mình, đất nước mình.
Đề 6. Phân tích đoạn thơ:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...


Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Gợi ý:
MB: "Quê hương là chùm khế ngọt, ...". Tình cảm với quê hương, đất nước luôn là
nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong văn học Việt Nam. Đến với đoạn trích
"Đất Nước" trích trường ca "Mặt đường khát vọng", người đọc sẽ thấy những cảm
nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu
trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, ... Đất Nước là của nhân dân, do nhân dân
tạo nên. Điều đó được thể sâu sắc qua những câu thơ sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
TB:
1. Khái quát
- Hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích, ... tham khảo các đề trước
- Nội dung: Trong phần hai đoạn trích “Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát
vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã dành nhiều tâm huyết để trả lời cho câu hỏi:
Đất Nước do ai làm ra? Ở những đoạn thơ trước, tác giải đã lí giải một cách thuyết
phục rằng: nhân dân là người đã hóa thân tạo nên những không gian địa lí của “Đất
Nước”, sau đó tác giả lại phát hiện ra, nhân dân bình dị, vô danh là người đã làm nên
bốn nghìn năm lịch sử. Đến đoạn thơ cuối này, tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân lại

tiếp tụ phát hiện: nhân dân chính là người đã làm nên bề dày văn hóa của đất nước.
Nhân dân chính là người gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau mợi giá trị văn hóa, văn
minh tinh thần của đất nước.
2. Phân tích, cảm nhận
a. 7 câu đầu đoạn: nhân dân truyền lửa và giữ hồn dân tộc
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trog mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
- Từ “họ” đứng ở vị trí đầu tiên trong câu thơ và điệp đi điệp lại nhiều lần trong đoạn
thơ vừa có tác dụng đem đến cảm giác về sự đông đảo, tính chất không xác định, vô
danh vừa nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong các phương diện khác nhau của
đời sống văn hóa, lịch sử.
- Bên cạnh đó, thủ pháp liệt kê cũng đã gợi ra nhiều công lao thầm lặng của nhân dân:
+ “Truyền” “hạt lúa” là truyền lại thành tựu của nền văn minh lúa nước. Từ thủa lập
nước, những người con của mẹ Âu Cơ đã “một nắng hai sương” chăm chút, nâng niu
để lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Đó là những hạt ngọc ngà chắt chịu tinh hoa
của đất trời, kết quả của mồ hôi, công sức con người vì thế nó trở thành biểu tượng văn
hóa đầy tư hào, trở thành biểu tượng cho truyề thống lao đông cần cù của những người
nông dân Việt Nam.
+ “Chuyền lửa” là chuyền ánh sáng, hơi ấm, sự sống và sự tiến hóa của văn minh nhân
loại. Thủa xa xưa khi tìm ra lửa, loài người thực sự đã tách ra khỏi thế giới nguyên
thủy tăm tối dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại.
Người nông dân Việt Nam từ ngàn đời xưa đã chuyền lửa qua mỗi nhà bằng hòn than


ủ, con cúi bện bằng rơm tạo nên không gian ấm áp tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn

có nhau.
+ “Truyền” “giọng điệu” là truyền lại thứ của cải tinh thần vô cùng quý giá của dân
tộc. Trải qua bao lần binh lửa chiến tranh: hàng nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm
Pháp thuộc, bất chấp mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù, tiếng nói của dân tộc vẫn
trường tồn chính là nhờ nhân dân.
+ Nhân dân cũng chính là người có công khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi, lập
làng, lập ấp. Họ đi đến đâu cũng mang theo tên xã, tên làng, phong tục tập quán đến
nơi mới để tạo nên sự phong phú, tạo nên sự đa dạng trong bản sắc văn hóa dân tộc
Việt.
+ Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho người đời sau an cư, lạc nghiệp.
Cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi sự vun vén, xây dựng quê hương, đất nước để
người đời sau yên tâm “trồng cây hái trái”. Người đời trước chuẩn bị, người đời sau
hưởng thụ. Câu thơ giúp người đọc thấy được sự hi sinh lớn lao, cao thượng của
những người đi trước. Họ đã âm thầm tạo dựng để người đời sau trồng cây hái trái,
hưởng hạnh phúc, ấm no.
- Bên cạnh đó, biện pháp điệp cấu trúc: “có ... thì ... có ... thì ...” kết hợp với các động
từ “chống”, “vùng lên”, “đánh bại” nhấn mạnh tinh thần tự nguyện cao độ của nhân
dân trong sự nghiệp giữ nước. Nhân dân chính là người có công lao trong đấu tranh
chống ngoại xâm, dẹp nội thù để đem lại bình yên cho nhân dân.
b. Để từ đó, nhà thơ đi đến khái quát:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Những khái niệm “Đất Nước”, “Nhân Dân” được viết hoa trang trọng và được điệp
lại nhiều lần trong hai câu thơ, cho thấy sự gắn bó không tách rời giữa nhân dân và đất
nước và thể hiện niềm tự hào, trân trọng, ngợi ca của nhà thơ.
- Nhân dân không chỉ đem cuộc đời, mơ ước của mình để đặt tên cho sông núi mà còn
đem trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, mồ hôi, xương máu của mình để viết nên lịch sử. Vì
vậy, đất nước này là đất nước của nhân dân, do nhân dân làm nên.
- "Ca dao thần thoại" là hai thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, ẩn dụ cho vẻ đẹp
tâm hồn, trí tuệ của nhân dân lao động. "Đất Nước của ca dao thần thoại" là đất nước

của những truyền thống: yêu nước, căm thù giặc; chăm chỉ, cần cù, sáng tạo trong lao
động; tình nghĩa thuỷ chung, nhân ái, bao dung trong cuộc sống.
c. Đất nước của nhân dân trong chiều sâu của văn hoá phong tục tập quán
Dạy anh biết "yêu em từ thủa trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Nói về phong tục tập quán của đất nước, đây không phải là cảm nhận riêng của
Nguyễn Khoa Điềm. Trước đó trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi cũng đã nói đến
"nền văn hiến đã lâu" cùng "phong tục Bắc Nam cũng khác".
- Điều đặc biệt là, nói về văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những công
trình nghệ thuật nổi tiếng như chùa Một Cột, tượng La Hán, không nhắc tới những tác
phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều hay "Chinh phụ ngâm", ... mà ông nhắc tới những câu
ca dao lưu truyền trong dân gian, do nhân dân tạo nên. Và trong kho tàng ca dao, nhà
thơ cũng chỉ chọn ba câu tiêu biểu để tạo thành bốn câu thơ hiện đại nhằm khái quát
ngắn gọn phẩm chất, lỗi sống, phẩm chất của người Việt.
+ Đó là sự thuỷ chung, say đắm của tình yêu thương:


"Yêu em từ thủa trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"
+ Đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn của cải vật
chất:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
+ Đó là sự kiên cường, bất khuất trong đấu tranh xâm lược:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què
=> Dù nhà thơ không nói rõ chủ thể của hoạt động dạy anh là ai nhưng người đọc hiểu
đó chính là ca dao, thần thoại, là nhân dân đúc kết những kinh nghiệm sống, đã tạo

thành những phẩm chất truyền thống để gửi gắm trong kho tàng văn học dân gian.
- Cuối cùng, nhắc đến chiều sâu văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm còn sử dụng những câu
hát, những làn điệu dân ca, nhất là dân ca sông nước.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt nên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
- Thán từ "ôi" thể hiện sự ngỡ ngàng, xúc động trước vẻ đẹp của những dòng sông đất
nước, những câu hò, điệu lí, những làn điệu dân ca sông nước. Nhà thơ có một phát
hiện mới mẻ, thú vị về những dòng sông đất nước. Những dòng sông khởi nguồn từ
đâu không rõ nhưng khi chạm vào đất Việt thì đều bắt lên câu hát. Câu hát của những
con người lao động khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác nhằm thể hiện một tâm hồn lạc
quan, yêu đời.
- Số từ "trăm màu", "trăm dáng" điệp lại khiến người đọc liên tưởng đến dòng chảy
văn hoá, vì mỗi dòng sông đi qua một miền đất đều góp phần tạo nên văn hoá của
vùng miền đó. Dòng chảy văn hoá Việt có thể bắt nguồn từ dòng chảy văn hoá khác
nhưng quan trọng là người Việt Nam đã biết Việt hoá để tạo nên sự phong phú, da
dạng cho văn hoá Việt như "trăm màu" trên "trăm dáng sông xuôi".
=> Đóng góp quan trọng nhất của Nguyễn Khoa Điềm trong chương thơ này là ông đã
phát triển đầy đủ hoàn thiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân".
3. Nhận xét chung
Tham khảo đề trước:
Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về văn hoá, truyền thống, phong
tục tập quán của Đất Nước.
KB:



×