Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Nghiên Cứu Nuôi Cua (Scylla Paramamosain) Gạch Trong Bể Xi Măng Với Các Loại Thức Ăn Khác Nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN VŨ LÂM

NGHIÊN CỨU NUÔI CUA (Scylla paramamosain) GẠCH
TRONG BỂ XI MĂNG VỚI CÁC LOẠI THỨC ĂN
KHÁC NHAU

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2010

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN VŨ LÂM

NGHIÊN CỨU NUÔI CUA (Scylla paramamosain) GẠCH
TRONG BỂ XI MĂNG VỚI CÁC LOẠI THỨC ĂN
KHÁC NHAU

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs.Ts. TRẦN NGỌC HẢI


PGs.Ts. TRẦN THN THANH HIỀN

2010

2


LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu Nhà Trường, Ban Chủ
Nhiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu trong thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn đối với Thầy Trần Ngọc Hải, Cô Trần Thị Thanh
Hiền, và tất cả các quý thầy cô Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ đã
hướng dẫn, dìu dắt và cho tôi những lời khuyên quý báo trong suốt thời gian
học tập cũng như thời gian thực hiện đề tài và viết luận văn.
Xin chân thành cảm đến gia đình anh Trịnh Văn Thâm (Lớp Cao học
K15 ngành Nuôi trồng thủy sản), gia đình tôi, bạn bè và tập thể lớp Nuôi trồng
thủy sản K32 đã hết lòng giúp đở tôi trong những lúc khó khăn để hoàn thành
tốt việt học tập và nghiên cứu của mình.
Người cảm tạ

Nguyễn Vũ Lâm

3


TÓM TẮT
Thí nghiệm nuôi cua (Scylla paramamosain) gạch trong bể xi măng với các loại
thức ăn khác nhau được tiến hành ở Hòa Bình - Bạc Liêu. Ở thí nghiệm này các
loại thức ăn được sử dụng là cá Rô phi (Oreochromis niloticus), thức ăn viên

35% đạm, Sò voi, Tôm bạc (Metapeneus tenuipes) và Ba khía (Sesarma
mederi). Sau 15 ngày nuôi tiến hành kiểm tra gạch để thu tỉa và thu hoạch toàn
bộ vào ngày thứ 30. Tỷ lệ sống của cua ở các nghiệm thức I, II, III, IV và V lần
lượt là 75%, 0%, 100%, 91,67% và 91,67%. Hở yếm của cua thu hoạch (3,64 4,08 mm), tăng trọng (22,78 - 29,44 g), DWG (0,93 - 1,28 g/ngày), SGR (0,32 0,54 %/ngày) giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê
(p<0.05). Trọng lượng thức ăn/1kg cua thu cũng có sự khác ý nghĩa thống kê
(p<0.05) giữa nghiệm thức III (4,36 ± 1,10)nghiệm thức V (4,27 ± 0,65) với
nghiệm thức I (2,97 ± 1,42) và IV (2,02 ± 0,36). Sinh khối cua thu (1,01 - 1,19
kg) của các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức II (0,00
± 0,00 kg). GSI (6,94 - 9,41%), khối lượng gạch (20,83 - 28,23 g) và tỷ lệ
gạch/gan tụy (166,19 - 189,24%) của cua sau thí nghiệm ở các nghiệm thức đều
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với cua trước thí nghiệm với GSI
(1,30%), khối lượng gạch (3,91g) và tỷ lệ gạch/gan tụy (24,53%). Hàm lượng
lipid ở trong gan tụy, gạch và thịt cua sau thí nghiệm khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0.05) với cua trước thí nghiệm. Hàm lượng đạm (12,92 - 14,25%) của thịt
cua, hàm lượng đạm (12,14 - 12,92%) và khoáng (0,23 - 0,27%) của gạch cua,
hàm lượng khoáng (0,13 - 0,15%) của gan tụy cua sau thí nghiệm không có sự
khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (p>0.05). Màu sắc của vỏ cua
trước và sau thí nghiệm không khác nhau nhưng màu sắc của gạch cua sau thí
nghiệm có khác biệt với màu sác của gạch trước thí nghiệm. Trong thí nghiệm
này, nghiệm thức III cho hiệu quả kinh tế với chi phí thấp nhất (107.800 đồng)
và lợi nhuận cao nhất (170.000 đồng). Đồng thời, nghiệm thức III vẫn đảm bảo
tỷ lệ sống, tăng trọng, rất tốt so với các nghiệm thức khác.

4


MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ...................................................................................................... i
TÓM TẮT........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii

DANH SÁCH BẢNG........................................................................................ iv
DANH SÁCH HÌNH .......................................................................................... v
Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1
1.1. Giới thiệu................................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu đề tài......................................................................................... 1
1.3. Nội dung nghiên cứu............................................................................... 1
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU..................................................................... 2
2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển.............................................................. 2
2.1.1. Hình thái cấu tạo và phân loại .......................................................... 2
2.1.2. Phân bố ............................................................................................. 3
2.1.3. Vòng đời ........................................................................................... 3
2.1.4. Tập tính sống .................................................................................... 3
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng ....................................................................... 4
2.1.6. Lột xác và sinh trưởng...................................................................... 4
2.1.7. Đặc điểm sinh sản............................................................................. 5
2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển ................... 6
2.2.1. Độ mặn ............................................................................................. 6
2.2.2. Nhiệt độ ............................................................................................ 6
2.2.3. Oxy hòa tan ...................................................................................... 6
2.2.4. pH ..................................................................................................... 7
2.2.5. Địch hại ............................................................................................ 7
2.3. Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển........................................................ 7
2.3.1. Nghiên nuôi cua biển trên thế giới ................................................... 7
2.3.2. Nuôi cua biển ở Việt Nam................................................................ 8
Phần 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 11
3.1. Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài.................................................. 11
3.2. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................... 11
3.3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 11
3.4. Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu.................................. 13


5


3.4.1. Phương pháp thu thập và tính toán số liệu ..................................... 13
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu.............................................................. 15
Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN............................................................ 16
4.1. Các yếu tố môi trường........................................................................... 16
4.1.1. Nhiệt độ .......................................................................................... 16
4.1.2. pH ................................................................................................... 16
4.1.3. Độ mặn ........................................................................................... 17
4.1.4. NO2- ................................................................................................ 17
4.1.5. TAN................................................................................................ 18
4.2. Tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch và sinh khối cua ở các nghiệm
thức với các loại thức ăn khác nhau ............................................................. 18
4.3. Thành phần dinh dưỡng của gan tụy, gạch, thịt của cua trước và sau thí
nghiệm.......................................................................................................... 21
4.4. GSI và tỷ lệ gạch/gan tụy của cua trước và sau thí nghiệm.................. 22
4.5. Hiệu quả kinh tế của nuôi cua gạch trên bể xi măng ............................ 25
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐÈ XUẤT ............................................................... 27
5.1. Kết luận ................................................................................................. 27
5.2. Đề xuất .................................................................................................. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 28
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 31

6


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 1: Thành phần nguyên liệu và dinh dưỡng của thức ăn nhân tạo............ 12
...............................................................................................................................

Bảng 2: Giá trị trung bình của các yếu tố môi trường ở các bể trong
thí nghiệm ......................................................................................................... 16
Bảng 3: Tăng trưởng của cua trong thí nghiệm ................................................ 18
Bảng 4: Lượng thức ăn cần thiết để nuôi 1kg cua gạch ................................... 19
Bảng 5: Tỷ lệ sống, tỷ lệ đạt gạch, sinh khối của cua trong thí nghiệm........... 20
Bảng 6: Thành phần dinh dưỡng của gan tụy, gạch, thịt cua trước thí nghiệm và
sau thí nghiệm................................................................................................... 21
Bảng 7: GSI và tỷ lệ gạch/gan tụy của cua trước và sau thí nghiệm ................ 22
Bảng 8: Hiệu quả kinh tế nuôi cua gạch trên bể xi măng ................................. 24
Bảng 9: Cơ cấu chi phí nuôi cua gạch trong bể xi măng .................................. 25

7


DANH SÁCH HÌNH
Hình 1: Hình thái của loài cua biển Sscylla paramamosain theo phân loại của
Estampador (1949).............................................................................................. 2
Hình 2: Cua dùng để bố trí thí nghiệm ............................................................. 11
Hình 3: Ảnh bố trí thí nghiệm nuôi cua gạch trong bể xi măng ....................... 12
Hình 4: Màu sắc của gạch cua trước thí nghiệm .............................................. 14
Hình 5: Màu sắc của gạch cua sau thí nghiệm.................................................. 15
Hình 6: Màu sắc của vỏ cua được luộc chín sau 15 phút trước thí nghiệm ..... 23
Hình 7: Màu sắc của vỏ cua được luộc chín sau 15 phút sau thí nghiệm......... 24
Hình 8: Cơ cấu chi phí nuôi cua gạch trong bể xi măng .................................. 26

8


Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Giới thiệu

Ngành thủy sản thế giới và nước ta đang có những bước phát triển nhanh chóng
trong nhiều lĩnh vực như kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật khai thác thủy
sản, quản lý môi trường - nguồn lợi thủy sản, quản lý dịch bệnh thủy sản, công
nghệ sinh học ứng dụng trong thủy sản và chế biến thủy sản. Ngành thủy sản đã
và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Ở nước ta, Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị trí và vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển thủy sản của cả nước, chiếm trên 80% tổng diện
tích nuôi và sản lượng nuôi của cả nước. Với diện tích mặt nước hơn 300.000
ha vùng ven biển Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có một tiềm năng rất
lớn cho việc phát triển nghề nuôi thủy sản nước lợ. Trong suốt hơn thập kỷ qua,
nghề nuôi hải sản đã phát triển rất nhanh với nhiều đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế. Trong đó, cua biển (Scylla paramamosain) từ lâu đã được liệt vào loại
đặc sản quý, có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là giá trị xuất khNu. Cùng với sự
không ổn định của đối tượng nuôi truyền thống nước lợ là tôm sú ở ĐBSCL do
giá cả bấp bênh và dịch bệnh, trong khi đó giá cua biển vẫn luôn ổn định và có
giá cao. Đồng thời, thịt cua biển chứa nhiều protein, vitamin, khoáng, canxi…
Hiện nay, trên thị trường có bán nhiều mặt hàng cua biển như cua thịt, cua lột,
cua gạch son… Tuy nhiên, giá trị cao nhất và được mọi người ưa thích nhất vẫn
là cua gạch son. Tùy từng nơi với những điều kiện mùa vụ khác nhau mà nghề
nuôi cua biển hiện nay được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau như nuôi
cua con thành cua thịt trong các đầm quảng canh, trong mô hình nuôi tôm rừng
hay nuôi trong đăng quầng ở các bãi triều, nuôi cua gạch trong ao và lồng, nuôi
cua lột và cua ốp thành cua chắc trong ao. Trong đó, hình thức nuôi vỗ béo cua
gạch non lên gạch đầy được người nuôi thực hiện với nhiều hình thức nuôi như
trong lồng và trong ao đất với nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có của địa phương.
Tuy nhiên, nuôi cua gạch hiện nay còn gặp khó khăn trong vấn đề chăm sóc và
quản lý, thời gian nuôi kéo dài hay màu sắc của gạch không đẹp nên sẽ làm
giảm giá trị của cua biển trên thị trường. Từ cơ sở đó, để nâng cao hơn nữa
nghề nuôi cua gạch ở ĐBSCL, đề tài “nghiên cứu nuôi cua (Scylla
paramamosain) gạch trong bể xi măng với các loại thức ăn khác nhau” đã

được thực hiện.
1.2. Mục tiêu đề tài
Nhằm đánh giá khả năng nuôi cua gạch trong bể xi măng với các loại thức ăn
khác nhau để chủ động và tiện lợi, dễ dàng trong việc quản lý và thu hoạch cua
gạch, cũng như tiêu thụ sản phNm.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên khả năng thành thục
và màu sắc của gạch cua trong bể xi măng và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi
cua gạch trong bể xi măng.

9


Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển
2.1.1. Hình thái cấu tạo và phân loại
Cua biển có tên tiếng anh là Mub Crab, Green Crab, hay Mangrove Crab; tên
tiếng Việt là Cua biển, Cua xanh, Cua bùn (Nguyễn Anh Tuấn và ctv, 1994).
Cua biển phân bố khắp ở các vùng biển nước ta trong đầm lầy rừng ngập mặn
nước lợ và vùng ven biển cửa sông. Cua biển ở vùng sông Ông Đốc-Cà Mau,
Rạch Giá - Hà Tiên… màu sắc mai cua đậm, chân càng đỏ khác cua ở vùng
Cần Giờ - TP. Hồ Chí Minh, Cần Giuộc, Cần Đước - Long An, Gò Công - Tiền
Giang, Duyên Hải - Trà Vinh và Bình Đại - Bến Tre có màu sáng xanh hơn.
Cua biển cũng là một trong những loài hải sản có giá trị cao trong thực phNm và
y dược học (Nguyễn Chung, 2006).
Cua biển có thân hình dẹp theo hướng lưng bụng. Toàn bộ cơ thể được bao bọc
trong lớp vỏ Khitin có tNm vôi và có màu xanh lục hay vàng sẫm (Nguyễn Anh
Tuấn và ctv, 1994). Cua có mai trơn, láng, không có lông. Cua có trọng lượng
lớn, có thể đạt trọng lượng đến 2 kg (Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp
Huế, 1994).

Bằng phương pháp điện di và hình thái giải phẫu, Keenan (1999) đã đi đến kết
luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân biệt và được định danh trong hệ thống
phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Portunidae
Giống: Scylla
Loài: Scylla paramamosain

Hình 1: Hình thái của loài cua biển Sscylla paramamosain theo phân loại của
Estampador (1949)

10


2.1.2. Phân bố
Loài Scylla paramamosain được phân bố khắp khu vực biển Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương, từ Nam Phi đến Biển Đỏ, từ Okinnawa đến Tahiti và xuống
tận miền Bắc nước Úc, Nhật Bản, Nam Trung Quốc: Xiamen, Hong Kong,
Singapore, Cambodia…; ở Trung Java: Indonesia và ở Việt Nam chủ yếu là
vùng ĐBSCL (Keenan và ctv, 1998; Gopurenko và ctv, 1999 được trích dẫn bởi
Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Ngô Trọng Lư (2003) cho rằng cua biển ưa sống
ở vùng biển nông, các cửa sông, eo vịnh nơi có nhiều mùn bã hữu cơ.
Cua biển là đối tượng nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là giá trị xuất
khNu ở nhiều nước (Hoàng Đức Đạt, 2003; Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Cua
biển ở nước ta có hai loài chủ yếu là Scylla paramamosain (Cua sen) và Scylla
olivacea (cua lửa) (Keenan, 1998 và Macintosh, 1998 được trích dẫn bởi
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Nhưng DANIDA - Bộ Thủy

Sản (2003) cho rằng cua biển phân bố rộng ở Việt Nam, đặt biệt là vùng triều,
cửa sông và rừng ngập mặn, có cả ở châu thổ ĐBSCL và sông Hồng.
2.1.3. Vòng đời
Vòng đời cua trải qua 13 lần lột xác, nhờ có lông cảm giác (có tác dụng như cơ
quan khứu giác) mà cua dễ dàng tìm mồi (Ngô Trọng Lư, 2003). Theo Ong
(1964), ấu trùng cua sau khi nở là Zoea1, trải qua 5 lần lột xác trở thành Zoea5
trong khoảng 17 - 20 ngày. Zoea5 biến thái thành Megalopa và giai đoạn này
kéo dài 8 - 11 ngày, sau đó ấu trùng trở thành cua con. Cua con trải qua 16 - 18
lần lột xác nữa trước khi thành thục, thời gian này ít nhất khoảng 338 - 523
ngày. Nhìn chung, chu kỳ sống của cua được chia làm 4 giai đoạn chính: giai
đoạn ấu trùng, giai đoạn cua con (CW: 20 - 80 mm), giai đoạn tiền trưởng thành
(CW: 75 - 150 mm) và giai đoạn trưởng thành (CW: ≥ 150 mm). Cua cái thuộc
họ Portunidae có thể là nhóm giáp xác duy nhất hoàn tất quá trình sinh trưởng
của chúng khi thành thục, do đó con cái thành thục có cỡ khác nhau là do phần
trăm trong lượng sau mỗi lần lột xác khác nhau (Ong, 1966).
2.1.4. Tập tính sống
Giai đoạn ấu trùng Zoea và Megalopa sống trôi nổi và nhờ vào dòng nước đưa
vào ven bờ, sau đó biến thái thành cua con (Warner, 1977 được trích dẫn bởi
Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004)
cho rằng cua con có tập tính sống đáy và thường dấu mình trong những chỗ Nn
nấp như bụi rậm, rễ cây hoặc trong hang vào ban ngày, ban đêm chúng bắt đầu
hoạt động kiếm mồi. Rừng ngập mặn là môi trường sống rất tốt cho cua từ giai
đoạn cua con đến cua trưởng thành. Giai đoạn thành thục cua có tập tính di cư
ra vùng nước mặn ven biển để đẻ (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2000; Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển
rất xa. Đặc biệt vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt rào chắn để ra biển
sinh sản (Hoàng Đức Đạt, 1995; Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; DANIDA - Bộ
Thủy Sản, 2003). Cua có thể di chuyển trung bình 13 giờ/ngày và gần như suốt
đêm. Quảng đường cua di chuyển trong một đêm là 461 m, dao động từ 219 -


11


910 m (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2004).
Nhìn chung, ấu trùng Zoea thích hợp với độ mặn 25 - 30‰. Giai đoạn cua con
và cua trưởng thành phát triển tốt trong phạm vi 2 - 38‰. Tuy nhiên trong giai
đoạn đẻ trứng, độ mặn cần được duy trì ở 22 - 32‰ (Phạm Thị Tuyết Ngân,
2005). Cua không thể tồn tại ở 0‰ quá 3 ngày trong điều kiện thí nghiệm mặc
dù ngoài tự nhiên cua con vẫn xuất hiện ở vùng cửa sông trong mùa mưa khi độ
mặn giảm xuống 0‰ (Vũ Ngọc Út, 2006). Sự phân bố của cua trong tự nhiên
có liên quan đến dòng chảy, trong đó, vận tốc nước thích hợp là 0,06 - 1,6
m/giây (Hyland, 1984 được trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 1999).
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Cua là động vật ăn thịt, thích bắt cá, tôm, động vật hai mãnh vỏ (DANIDA - Bộ
Thủy Sản, 2003). Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv (2005) cho rằng thức ăn tự nhiên
của cua chứa 50% nhuyễn thể, 21% giáp xác, 29% các mãnh vụn hữu cơ, ít khi
có cá trong ống tiêu hóa của cua. Tính ăn của cua biến đổi tùy theo giai đoạn
phát triển. Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn thực vật và động vật phù du cua con
chuyển dần sang ăn tạp như rong tảo, giáp xác, nhuyễn thể, cá hay ngay cả xác
chết động vật. Cua con 2 - 7 cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua 7 - 13 cm thích ăn
nhuyễn thể và cua lớn hơn thường ăn cua nhỏ, cá… (Nguyễn Anh Tuấn và ctv,
1994; Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2000). Theo Nguyễn Thanh
Phương và Trần Ngọc Hải (2004), thức ăn ưa thích của ấu trùng cua là tảo
khuê, ấu trùng giáp xác, và nhuyễn thể, giun… Tuy nhiên, những thông tin chi
tiết về tính ăn của cua trong tự nhiên không nhiều. Khác với cua lớn hoạt động
về đêm ấu trùng cua có tính hướng quang rất mạnh và có thể dùng ánh sáng để
kích thích bắt mồi. Cua có tập tính trú Nn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban
đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn đói 10
- 15 ngày (Nguyễn Anh Tuấn và ctv,1994; Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn

Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2000; Nguyễn Chung, 2006).
2.1.6. Lột xác và sinh trưởng
Quá trình phát triển của cua trải qua nhiều lần lột xác biến thái để lớn lên. Thời
gian giữa các lần lột xác thay đổi theo từng giai đoạn. Ấu trùng có thể lột xác
trong vòng 2 - 3 hoặc 3 - 5 ngày/lần. Cua lớn lột xác chậm hơn nữa tháng hay
một tháng một lần. Sự lột xác của cua có thể bị tác động bởi 3 loại kích thích tố:
kích thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đNy lột xác và kích thích tố điều
khiển hút nước lột xác. Đặc biệt, trong quá trình lột xác cua có thể tái sinh lại
những phần đã mất như chân, càng… Cua thiếu phụ bộ hay phụ bộ bị tổn
thương có khuynh hướng lột xác hơn (Nguyễn Anh Tuấn và ctv, 1994; Trần
Ngọc Hải và ctv, 1999). Theo Hoàng Đức Đạt (1995) và Nguyễn Chung (2006),
ở cua giống và cua trưởng thành thời gian lột xác dài hơn và thường lột xác vào
chu kỳ của thủy triều. Cua biển trải qua 12 lần lột xác, khi tuyến sinh dục bắt
đầu phát triển, cua lột xác lần thứ 13 trước khi giao phối (Trung tâm khuyến
ngư Quốc Gia - Bộ Thủy Sản, 2006). Cua trưởng thành có khoảng cách giữa 2

12


lần lột xác là từ 20 - 28 ngày (Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp Huế,
1994).
Tuổi thọ trung bình của cua từ 2 - 4 năm qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua
tăng trung bình 20 - 50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể đạt từ 19 – 28
cm với trọng lượng từ 1 - 3 kg. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ
trung bình khoảng 7,5 - 10,5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài
hay chiều rộng carapace thì cua đực nặng hơn cua cái (Nguyễn Thanh Phương
và Trần Ngọc Hải, 2004). Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục, được đặc
trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích thước và trọng lượng. Cua lột xác để tăng
kích thước và quá trình này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện dinh dưỡng, môi
trường và giai đoạn phát triển của cơ thể. Theo Ong (1966), tăng trưởng trung

bình của cua Scylla ở điều kiện tự nhiên nhanh hơn so với điều kiện ương nuôi
trong phòng thí nghiệm, mặc dù chất lượng nước trong phòng thí nghiệm tốt
hơn.
2.1.7. Đặc điểm sinh sản
Cua đực và cua cái có thể phân biệt dựa vào hình dạng yếm cua. Ở con cái, yếm
cua có 6 đốt phân biệt rõ ràng và các khớp cử động bình thường.Trước thời kỳ
thành thục, yếm cua hơi vuông, khi thành thục yếm nở rộng, tròn, màu sẫm. Cơ
quan sinh dục của cua cái gồm hai noãn sào nằm lượn khúc trên gan tụy vòng
qua hai bên mang thật. Hai ống dẫn trứng to và thẳng đổ ra hai lỗ sinh dục nằm
dưới đôi chân thứ 3. Ở con đực, yếm có hình chữ V, chỉ có các đốt 1, 2 và 6 là
thấy rõ cử động bình thường, các đốt 3, 4 và 5 liên kết với nhau thành đốt liên
hợp, không cử động được giữa các khớp. Cơ quan sinh dục của cua đực có hai
dịch hoàn trắng và dài, nối tiếp theo bằng 2 ống dẫn tinh cuộn khúc nằm giữa 2
cơ đùi đổ ra lỗ sinh dục dưới chân ngực 5, từ đây có cơ quan giao cấu ngắn
(Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004).
Cua biển thành thục sinh dục vào khoảng 1 - 1,5 tuổi. Lúc này chiều rộng của
vỏ khoảng 10 cm và khối lượng thân trên dưới 150 g (Nguyễn Thanh Phương
và Trần Ngọc Hải, 2004). Đối với vùng nhiệt đới cua đẻ quanh năm. Ở Việt
Nam, mùa vụ sinh sản chính của cua từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (Hoàng
Đức Đạt, 2003). Tới mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền
giao vĩ. Trước khi đẻ trứng, cua đực và cua cái bắt cặp với nhau trong thời gian
3 - 4 ngày, sau đó cua cái lột xác và bắt đầu giao vĩ. Túi tinh của con đực được
đưa vào túi chứa tinh của con cái ở gốc chân thứ tư và thứ năm. Túi tinh này
được giữ trong nhiều tuần để thụ tinh qua nhiều lần sinh sản, tức là một lần giao
phối có thể thụ tinh cho cua cái từ 1 - 3 lần đẻ. Cua cái đẻ rất khỏe. Một con cái
có thể đẻ từ vài trăm ngàn đến 2 - 3 triệu trứng mỗi năm. Trong một năm cua đẻ
2 - 3 lần. Phần lớn trứng đẻ ra được ấp trong khoang bụng của cua mẹ cho đến
khi nở. Trứng cua được ấp ở nơi có độ mặn cao, nhiệt độ ổn định. Thời gian ấp
trứng dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiệt độ nước. Nhiệt độ càng cao thời gian ấp
trứng càng nhanh. Trong điều kiện thuận lợi, trứng có thể nở đồng loạt khoảng

3 - 6 giờ. Trứng cua mới đẻ có đường kính trung bình 0,3 mm và có màu vàng
tươi (Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Hoàng Đức Đạt (2003) cho rằng cua ôm
trứng trong nước biển có độ mặn từ 24 - 28‰ và nhiệt độ từ 25 - 30oC, phôi

13


phát triển bình thường và sau 11 - 13 ngày thì ấu trùng nở. Theo sự phát triển
của phôi, màu sắc trứng phôi từ màu vàng chuyển sang màu xám xanh về sau
chuyển thành màu đen và sau một thời gian ngắn thì nở thành ấu trùng. Cua
luôn luôn không đẻ theo chu kỳ tuần trăng trong tháng hay thời điểm nhất định
trong ngày. Cua cái tốt hầu hết có thể đẻ và nở thành công mà không qua lột
xác và bắt cặp với cua đực. Cua có thể đẻ trên 2 lần nhưng sức sinh sản sẽ giảm
đi (Nguyễn Chung, 2006).
2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển
2.2.1. Độ mặn
Trong tự nhiên, từ giai đoạn cua con trở đi, cua có thể chịu đựng độ mặn từ 2 60‰ (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2004). Theo Hoàng Đức Đạt (1995), Trần Ngọc Hải và ctv (1999), Hoàng Đức
Đạt (2003), Nguyễn Chung (2006) cua có khả năng thích ứng cao với sự thay
đổi độ mặn của nước. Manjulatha và Babu (1998) cho rằng loài Scylla
paramamosain có thể chịu đựng được sự dao dộng bất thường của nồng độ
muối. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt cho đến độ mặn 33‰.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đẻ trứng, ấp trứng và thời kỳ ấu trùng cua đò hỏi độ
mặn từ 28 - 32‰. Ong (1964) nhận thấy rằng giai đoạn Megalopa lớn nhanh
hơn khi độ mặn xuống còn 21 - 27‰ và chúng có khuynh hướng di chuyển vào
trong vùng nước lợ.
2.2.2. Nhiệt độ
Cua biển là loài chuyên sống đáy, thích ứng với nhiệt độ rộng. Nhiệt độ thích
hợp là 18 - 32oC, nhiệt độ dưới 18oC cua giảm hoạt động và bắt mồi, nhiệt độ là
7oC cua dừng hoạt động hoàn toàn, vùi mình trong bùn chỉ để lộ 2 mắt và rơi

vào trạng thái ngủ, nhiệt độ 5oC cua sống được 4 - 5 ngày. Nếu nhiệt độ nước
cao đến 35oC cua nằm ngửa và dơ chân bò lên trời để phần bụng không tiếp xúc
với bùn đất hay nằm bò trên bãi bùn, nhiệt độ nước lên đến 39oC mai cua xuất
hiện những chấm đỏ xám, cua yếu dần rồi chết (Trung tâm khuyến ngư Quốc
Gia - Bộ Thủy Sản, 2006). Tuy nhiên, theo Nguyễn Chung (2006) cua phát
triển tốt ở nhiệt độ 25 - 29oC, chịu đựng nhiệt độ thấp dưới 10 - 15oC, nhiệt độ
trên 32oC sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý và có thể làm cua chết. Ở
vùng biển phía Nam nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 - 29oC.
Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua là một
trong những nguyên nhân gây chết (Hoàng Đức Đạt, 2003). Nhiệt độ cũng ảnh
hưởng rất lớn đến sự thành thục của cua biển, nhiệt độ cao có thể làm tăng tốc
độ tăng trưởng vì thế làm giảm thời gian thành thục của cua (Fielder và
Heasman, 1978 được trích dẫn bởi Quách Kha Ly, 2007).
2.2.3. Oxy hòa tan
Hàm lượng oxy hòa tan lớn hơn 2 mg/l, cua bắt mồi rất nhiều. Khi hàm lượng
oxy hòa tan nhỏ hơn 1 mg/l, cua phản ứng chậm chạp, không bắt mồi, xuất hiện
nổi đầu, thậm chí chết. Khi cua lột xác yêu cầu hàm lượng oxy hòa tan rất cao,

14


nếu không đủ oxy việc lột xác không thuận lợi, cua sẽ chết (Trung tâm khuyến
ngư Quốc Gia - Bộ Thủy Sản, 2006).
2.2.4. pH
Cua sống ở vùng nước lợ có độ pH trong khoảng 7,5 - 9,2, thích hợp nhất là 7,5
- 8,2. Tuy nhiên, cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp hơn 6,5
(Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Chung, 2006).
2.2.5. Địch hại
Theo Hoàng Đức Đạt (2003) cua có nhiều địch thủ lợi hai, cua cũng ăn đồng
loại. Nhiều loài động vật sống trong nước, trên cạn, ăn hại cua như các loài cá

dữ, các loài chim ăn thịt, chuột, rắn… Trong mỗi giai đoạn phát triển của cua
cũng có những địch hại riêng.
2.3. Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển
2.3.1. Nghiên nuôi cua biển trên thế giới
Trên thế giới, nuôi cua biển đã phát triển ở Trung Quốc từ hơn 100 năm và hơn
30 năm tại các nước Châu Á khác. Trên thế giới có hai cách nuôi cua cơ bản là
nuôi vỗ béo và nuôi cua thịt. Các nước có nghề nuôi cua phát triển như
Srilanka, Thái Lan, Malaysia, Phillipinne, Đài Loan… (Keenan, 1999). Tuy
nhiên, theo Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp Huế (1994), Hoàng Đức
Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat (1999) ở Việt Nam
ngoài 2 cách thức nuôi trên còn có hình thức nuôi cua lột. Tại Malaysia, Tan
(1999) tổng kết nuôi vỗ béo cua cần 10 - 20 ngày để đạt kích cỡ xuất bán trên
150g. Trong điều kiện Việt Nam nuôi vỗ béo cần 25 - 35 ngày với mật độ 0,5 1 kg/m2 trong ao và 10 - 25 kg/m2 trong lồng (Hoang Duc Dat, 1999). Tại
Indonesia, Cholik (1999) thí nghiệm nuôi cua với 3 mật độ là 1,3 và 5 con/m2
trong 6 ao 96m2 sau 90 ngày cua đạt kết quả tương ứng 146, 159 và 158 g/con
với tỷ lệ sống 81,2%, 43,1% và 32,9%. Về nuôi cua lột, trên thế giới chư có
nhiều báo cáo về nuôi cua lột. Tại Việt Nam, Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng
Hợp Huế đã đề cập đến kỹ thuật này. Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đề cập đến
trong sách “Kỹ thuật nuôi cua biển”. Năm 1999, trong báo cáo tại Hội nghị
Sinh học và nuôi cua biển tại Australia, Hoang Duc Dat mô tả: sử dụng cua 30 60 g, bẻ càng và chân bò chỉ chừa lại 2 chân chèo. Cho cua vào lồng tre (1,5 x 1
x 0,25 m) hoặc ao, sau 11 - 20 ngày có thể thu sản phNm cua lột. Trước đó, kỹ
thuật này được Doan Van Dau et al báo cáo tại Hội nghị quốc tế về nuôi cua tại
Phillipine năm 1998 nhưng với cỡ cua 50 - 100 g với mật độ (ao hoặc lồng) 10 12 kg/m2 và thời gian cua lột xác là 20 - 30 ngày. Năm 2006, Trần Ngọc Hải và
ctv đã phát triển kỹ thuật nuôi cua lột trong hệ thống bể tuần hoàn.

15


2.3.2. Nuôi cua biển ở Việt Nam
2.3.2.1. Tình hình nuôi cua biển ở Việt Nam

Nghề nuôi cua biển ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1980. Cua biển Việt
Nam dồi dào, giá hấp dẫn nên các công ty ở Hồng Kông, Đài Loan đến mua.
Khi sản lượng khai thác cua tự nhiên giảm sút nhưng lợi nhuận hấp dẫn nên ở
Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre nhiều người đã bắt cua giống, cua ốp ngoài tự
nhiên về thả nuôi (Nguyễn Chung, 2006). Năm 1993, Việt Nam đạt sản lượng
nuôi 3.800 tấn trên diện tích 1.600 ha (Doan Van Dau et al, 1998). Theo
DANIDA - Bộ Thủy Sản (2003) cua được nuôi rộng rãi khắp các tỉnh ven biển
đặc biệt vùng cửa sông Châu thổ phía Bắc (Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định)
và các tỉnh duyên hải Nam bộ với năng suất cua nuôi đạt 1.000 kg/ha/vụ.Năm
2004, khối lượng cua biển xuất khNu Việt Nam đạt gần 6000 tấn, giá trị hơn 25
triệu USD ().
Tại ĐBSCL, theo điều tra của Vũ Ngọc Út (2005) có 8 tỉnh nuôi cua: Cà Mau,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Tiền Giang, Bến Tre và Long An.
Ở Tiền Giang, phong trào nuôi cua còn rất kém phát triển, chỉ rãi rác ở huyện
Gò Công. Trong khi đó, Long An là địa phương duy nhất có mô hình nuôi cua
lột rất phát triển ở huyện Cần Giuộc. Sóc Trăng, Kiên Giang và Bến Tre là các
địa bàn có các hình thức nuôi đơn trong ao phổ biến và một số hình thức nuôi
kết hợp cua - tôm và cua - tôm - rừng. Cà Mau và Bạc Liêu phổ biến nhất với
các mô hình (ngoại trừ nuôi cua lột), trong đó kết hợp cua - tôm và cua - tôm rừng là chủ lực.
2.3.2.2. Nghiên cứu về cua biển ở Việt Nam
Nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cua biển nước ta chủ yếu là bắt từ tự
nhiên. Cua giống tự nhiên thường được vận chuyển xa từ địa bàn nuôi và qua
nhiều thương lái nên khi vào đến ao nuôi thường yếu và có tỷ lệ sống không cao
(Vũ Ngọc Út, 2005). Về hình thức nuôi, theo Doan Van Dau et al (1998),
Hoang Duc Dat (1999) gồm có nuôi cua thịt, nuôi cua vỗ béo và nuôi cua lột.
Tuy nhiên, theo Vũ Ngọc Út (2005) nuôi cua được phát triển dưới các hình
thức như nuôi cua đơn (trong ao), nuôi cua kết hợp với tôm (cua-tôm) hoặc nuôi
cua kết hợp với tôm trong rừng (cua - tôm - rừng). Theo Ngô Trọng Lư (2003)
nuôi cua ghép với rong câu (Gracilaria), cua lớn nhanh, tỷ lệ cua thu hoạch là
50% (tăng 20% so với nuôi đơn) hay nuôi ghép với tôm rảo.Với các hình thức

nuôi cua đơn thì có các mô hình nuôi cua thịt (từ cua giống lên kích thước
thương phNm), nuôi cua gạch và nuôi cua lột. Ý tưởng nuôi cua trong hộp nhựa
PP tại Việt Nam được Nguyễn Chung (2006) đề cập đến trong sách “Kỹ thuật
sản xuất giống và nuôi ghẹ xanh, cua biển”.
Nuôi cua lột đây là loại cua thương phNm đặc biệt có giá trị cao (Hoàng Đức
Đạt, 1995; Nguyễn Chung, 2006). Nuôi cua lột không cần diện tích lớn, công
trình đơn giản, thời gian nuôi ngắn và lợi nhuận cao (Trần Văn Hòa và ctv,
2000). Mô hình nuôi cua lột rất phát triển ở huyện Cần Giuộc - Long An từ năm
1998 (Vũ Ngọc Út, 2005). Theo Nguyễn Chung (2006) có hơn 500 tấn cua lột
thương phNm tiêu thụ trong nước và xuất khNu vào năm 2000. Cua nguyên liệu

16


khoảng 30 - 100 g/con, không bị tổn thương, bẻ càng, chỉ giữ lại 2 chân bơi và
thả vào ao nuôi hoặc lồng nuôi. Mật độ: 6- 12 kg/lồng; 10 - 12 con/m2. Cua sẽ
lột sau 11 - 12 ngày thả nuôi, tỷ lệ thành phNm là 50 - 55% (Hoàng Đức Đạt,
1995). Tuy nhiên, các kết quả của Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp Huế
(1994), Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat
(1999), Nguyễn Chung (2006) chưa trình bày rõ trọng lượng và chiều dài mai
cua tăng thêm bao nhiêu sau khi lột. Các số liệu này đã được Trần Ngọc Hải Và
ctv (2006) trình bày trong nghiên cứu “Nuôi cua lột (Scylla sp.) trong hệ thống
tuần hoàn với các loại thức ăn và mật độ khác nhau”.
Nuôi vỗ béo cua được Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp Huế đề cập năm
1994. Có thể thuật ngữ nuôi vỗ béo cua được đề cập từ tài liệu này. Hoàng Đức
Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Đoàn Văn ĐNu 1998), Hoang Duc Dat
(1999)… là những tác giả tiếp theo đề cập đến vấn đề nuôi vỗ béo cua trong hệ
thống lồng tre. Ý tưởng nuôi cua vỗ béo trong lồng nhựa 0,05m2 chỉ được
Nguyễn Chung đề cập vào năm 2006.
Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) các giai đoạn thành thục của cua cái

gồm có bốn giai đoạn với hệ số GSI giai đoạn I là thấp và dưới 0,5% cua cái
chưa thành thục tuyến sinh dục mỏng và trong suốt; giai đoạn II tuyến sinh dục
đang phát triển noãn sào màu trắng kem hay vàng, GSI dao động 0,5 - 1,5%;
giai đoạn III cua đang thành thục noãn sào nở rộng chiếm khoảng 1/2 - 3/4 diện
tích gan tụy, noãn sào có màu cam, GSI từ 2,5 - 8,0%; giai đoạn IV noãn sào có
màu cam hay đỏ, nở rộng chiếm hết diện tích gan tụy và cả khoang ruột, có thể
nhìn thấy màu vàng từ phía sau giáp đầu ngực và yếm, GSI đạt 15,85 cua sẵn
sàng đẻ trứng.
Nuôi cua thịt, năm 1994, Khoa Sinh - Trường Đại học Tổng Hợp Huế xuất bản
sách “ Kỹ thuật nuôi và vỗ béo cua biển” phục vụ cho Chương trình Quốc tế EC
về tái hòa nhập người Việt Nam hồi hương. Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đã tập
hợp các công trình nghiên cứu về cua biển và viết sách “ Kỹ thuật nuôi cua
biển” đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Các nghiên cứu tiếp theo của Hoàng
Đức Đạt về các mô hình nuôi cua ở Việt Nam được trình bày tại Hội nghị Quốc
tế về sinh học và nuôi cua biển tai Australia năm 1999, của Doan Van Dau et al
tại Hội thảo Quốc tế về cua biển tại Phillipine năm 1998 về nuôi cua giống
Scylla ở Việt Nam. Đoàn Văn ĐNu và ctv (1998) đã công bố báo cáo “Kết quả
nghiên cứu sinh trưởng và và sinh sản của cua biển (Scylla serrata) nuôi trong
đầm nước lợ” trong tuyển tập các công trình nghiên cứu cá biển (tập 1)-Viện
nghiên cứu Hải Sản-Bộ Thủy Sản. Nghiên cứu này đề cập chi tiết về các yếu tố
môi trường, sinh trưởng,… bằng thực nghiệm tại ao. Các tác giả nước ngoài
nghiên cứu về nuôi cua ở Việt Nam nổi bật nhất là Johnston và Keenan với
khảo sát “Nuôi cua biển tại Minh Hải, Việt Nam”. Đề tài này được trình bày
năm 1999 ở Hội nghị Quốc tế về sinh học và nuôi cua biển tại Australia - tại hội
nghị này Keenan đã trình bày hoàn chỉnh về phân loại cua biển trên thế giới
trong đó có cua biển ở Việt Nam.
Có nhiều thực nghiệm cho thấy rằng các loài cua biển trong nhóm Scylla spp.
Vẫn có thể sử dụng tốt thức ăn chế biến mặc dù cho kết quả khác nhau tùy điều
kiện. Năm 1999, Millamena và Quinitio báo cáo, cua mẹ (Scylla serrata) nuôi
17



bằng thức ăn nhân tạo 46% đạm kết hợp với thức ăn tươi sống cho kết quả tốt
nhất về sinh sản, tiếp đến là thức ăn nhân tạo đơn thuần và kém nhất là thức ăn
tươi sống. Marasigan (1999) cho rằng, trong thí nghiệm cho cua ăn bằng thức
ăn nhân tạo của tôm dạng khô cho kết quả tăng trưởng khác biệt không ý nghĩa
so với các loại thức ăn cá tạp mặc dù có ý nghĩa thấp hơn so với thức ăn tươi
sống là hầu. Cholesterol cũng rất quan trọng trong quá trình lột xác của cua biển
và tốt nhất trong khoảng 0,51% (Sheen, 2000).
Trong nghiên cứu để tạo màu sắc cho động vật thủy sản người ta thường sử
dụng astaxanthin là một loại carotenoid được ly trích từ tảo Hematococcus
pluvialis trong học Volvocales thuộc ngành tảo lục. Astaxanthin (3,3’dihydroxy-β,βcarotene-4,4’-doine) là sắc tố tự nhiên làm gia tăng sắc tố cá hồi,
cá vền, tôm và đặt biệt trong sự tạo màu cho các cảnh. Ở nấm men Phaffia
rhodozyma và tảo Hematococcus pluvialis, Spirulina chứa hàm lượng cao
astaxanthin (>2.000 mg/kg) (Bùi Minh Tâm, 2008). Trên giáp xác, astaxanthin
là sắc tố chính chiếm ưu thế, được chiết ra từ võ tôm. Astaxanthin chiếm
khoảng 86 - 98% hàm lượng caraotenoid tổng cộng, làm cho tôm cua có màu
sắc hấp dẫn lúc luộc chín. Ảnh hưởng của carotenoid trong khNu phần thức ăn
lên sự hình sắc tố, đã được nghiên cứu bằng cách cho tôm he Nhật ăn nhiều loại
carotene khác nhau với nồng độ 100ppm. Kết quả cho thấy astaxanthin là
nguồn carotene hiệu quả nhất đối với việc hình thành sắc tố (Lê Thanh Hùng,
2008). Hàm lượng astaxanthin có trong thức ăn nuôi vỗ cá trống làm tăng tỷ lệ
trứng nở và hạn chế dị hình, khNu phần ăn phụ thuộc vào nồng độ của sắc tố
nhưng thông thường chiếm khoảng 3 - 7%. Sắc tố của tôm hùm tăng dần lên với
hàm lượng astaxanthin từ 50 - 300 mg/kg thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền, 2009).

18


Phần 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
+ Thời gian thực hiên đề tài: 60 ngày (từ tháng 04/2010 đến tháng 05/2010).
+ Địa điểm thực hiện đề tài: Ấp Cái Tràm – Thị trấn Hòa Bình – Huyện Hòa
Bình – Tỉnh Bạc Liêu
3.2. Vật liệu nghiên cứu
+ Bể lắng xi măng 12m3: 1 bể
+ Bể nuôi cua (1,5 x 1,8 x 0,7 m): 3 bể
+ Lồng nhựa (20 x 25 x 12 cm)
+ Dây sục khí, đá bọt
+ Cân đồng hồ, cân điện tử
+ Dụng cụ đo các thông số môi trường như độ mặn, nhiệt độ…
+ Test kit đo pH, NO2- và TAN
+ Nguyên liệu chế biến thức ăn: thành phần nguyên liệu các loại thức ăn nhân
tạo được trình bày trong bảng 1.
+ Cua biển gạch còn non
3.3. Phương pháp nghiên cứu
- Cua dùng trong thí nghiệm được mua từ Bạc Liêu với trọng lượng trung bình
khoảng 200 - 400 g, cua đã mang gạch non (thành thục ở giai đoạn II) kích cỡ
đồng đều và khỏe mạnh.

Hình 2: Cua dùng để bố trí thí nghiệm
19


-

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm
thức và 3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức:

Hình 3: Ảnh bố trí thí nghiệm nuôi cua gạch trong bể xi măng

+ Nghiệm thức I: Cho cua ăn cá Rô phi (Oreochromis niloticus)
+ Nghiệm thức II: Cho cua ăn thức ăn nhân tạo 35% đạm.
+ Nghiệm thức III: Cho cua ăn Sò voi
+ Nghiệm thức IV: Cho cua ăn Tôm bạc (Metapeneus tenuipes)
+ Nghiệm thức V: Cho cua ăn Ba khía (Sesarma mederi)
Bảng 1: Thành phần nguyên liệu và dinh dưỡng của thức ăn nhân tạo
Thành phần
dinh dưỡng
Đạm thô (%)
Lipid (%)
Xơ (%)

Thức ăn
viên

Cá rô phi

Sò voi

Tôm bạc

Ba khía

35

10,08

9,29

9,51


8,17

9

0,41

0,35

0,37

0,43

0,12

0,15

0,32

0,35

4,7

Khoáng (%)

18,64

Bột đường (%)

32,67


- Bể nuôi gồm 3 bể bằng xi măng được lắp ráp với bể lắng bằng hệ thống ống
nhựa PVC và có van để cấp nước. Mỗi bể có van xả và cấp nước riêng. Trong
mỗi bể có treo 20 lồng nhựa cỡ 20 x 25 x 12 cm, mỗi lồng chứa một con cua.
Mỗi nghiệm thức có 4 con trong mỗi bể và được treo thành một hàng. Mỗi bể
gồm có 5 hàng.
- Nước nuôi cua được lấy trực tiếp từ sông sau đó để lắng phù sa và thay nước
mỗi ngày 50% vào buổi sáng trước khi cho cua ăn.
20


- Cho cua ăn thỏa mãn nhu cầu mỗi ngày 2 lần vào lúc 7 giờ và 17 giờ. Trước
khi cho ăn tiến hành hút cặn loại bỏ hết thức ăn dư thừa trong bể bằng cách
siphon đáy bể.
- Mỗi bể gắn năm cục đá bọt sục khí liên tục.
- Sau 15 ngày tiến hành kiểm tra và thu tỉa những cua đã đạt gạch bằng cách ấn
nhẹ chổ mai và yếm xuống để quan sát gạch, những con chưa đạt gạch được
nuôi đến khi thu hoạch.
- Thời gian nuôi: 1 tháng
3.4. Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu
3.4.1. Phương pháp thu thập và tính toán số liệu
- Thu mẫu và phân tích các yếu tố môi trường
+ pH được đo mỗi ngày 2 lần vào lúc 7 giờ và 14 giờ đo bằng phương pháp so
màu bằng bộ test kit so màu hiệu Sera của Đức.
+ Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế mỗi ngày 2 lần vào lúc 7 giờ và 14 giờ.
+ Độ mặn được đo ba ngày/lần bằng tỷ trọng kế vào lúc 7 giờ.
+ NO2- và TAN được đo 3 ngày/lần vào lúc 7 giờ bằng phương pháp so màu
bằng bộ test kit so màu hiệu Sera của Đức.
- Thu mẫu và phân tích cua
+ Tỷ lệ sống (TLS) của cua trong thời gian thí nghiệm

Số cua thu x 100
TLS (%) =
Số cua thả
+ Tăng trưởng về khối lượng của cua trong quá trình nuôi
W = Wt – W0
+ Tăng trưởng về khối lượng/ngày
Wt – W0
DWG (g/ngày) =
t2 – t1
DWG (g/ngày) (Daily Weight Gain): Mức tăng khối lượng của cá/ngày.
Wt, W0 (g): Khối lượng trung bình của cá tại thời điểm t1, t2.
+ Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày)
Ln (Wt) – Ln (W0)
SGR (%/ngày) =
t2 – t1

21


SGR ( Special Growth Rate): Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày).
Wt, W0 (g): Giá trị khối lượng trung bình của cá tại thời điểm t1, t2.
+ Khoảng cách giữa mai và yếm (hở yếm) trước và sau khi nuôi (mm)
+ Chỉ số thành thục của cua cái (Female Mature Index – FMI) trước và sau khi
nuôi
Độ rộng nhất của yếm (đốt 5)
FMI =
Độ rộng tấm ngực giữa 2 chân chèo
+ Hệ số thành thục của buồng trứng cua cái (Ganadosomatic Index - GSI) trước
và sau khi nuôi
Khối lượng buồng trứng x 100

GSI (%) =
Khối lượng cua
+ Màu sắc tươi của buồng trứng và luộc chín (15 phút) của vỏ cua trước và sau
thí nghiệm.

22


Hình 4: Màu sắc của gạch cua trước thí nghiệm

Hình 5: Màu sắc của vỏ cua được luộc chín sau 15 phút trước thí nghiệm
+ Thành phần sinh hóa của thịt cua, buồng trứng và gan tụy cua trước và sau thí
nghiệm. Phương pháp phân tích:
* Protein (phương pháp Kjeldah)
* Lipid (phương pháp Soxhlet)
* Tro (nung ở 560oC)
- Thu thập và tính toán các chỉ số khác
+ Hiệu quả kinh tế nuôi cua gạch trên bể xi măng.
+ Sinh khối cua trước và sau khi nuôi.
+ Hệ số thức ăn (FR)
Khối lượng thức ăn sử dụng
FR =
Khối lượng cua thu hoạch
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng chương trình Excel và SPSS 14.0 để so sánh giá trị
trung bình và sự khác biệt của các chỉ tiêu giữa các nghiệm thức.

23



Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Các yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường ở các bể trong suốt thời gian thí nghiệm được trình bày ở
Bảng 2.
Bảng 2: Giá trị trung bình của các yếu tố môi trường ở các bể trong thí nghiệm.
Yếu tố
Nhiệt độ (OC)

Bể 1

Bể 2

Bể 3

Sáng

28,1 ± 0,68

28,2 ± 0,64

28,4 ± 0,56

Chiều

29,8 ± 0.76

29,9 ± 0,77

29,6 ± 1,91


Sáng

8,21 ± 0,08

8,19 ± 0,06

8,21 ± 0,08

Chiều

8,25 ± 0,08

8,25 ± 0,06

8,31 ± 0,08

Độ mặn (‰)

32,5 ± 0,82

32,5 ± 0,82

32,5 ± 0,82

Nitrite (mg/l)

2,27 ± 1,49

1,36 ± 0,67


2,39 ± 1,63

TAN (mg/l)

4,41 ± 2,58

5,68 ± 3,15

5,32 ± 3,45

PH

4.1.1. Nhiệt độ
Trong suốt thời gian thí nghiệm nhiệt độ trung bình ở bể 1 vào buổi sáng là 28,1
± 0,68oC, và buổi chiều là 29,8 ± 0,76oC; bể 2 vào buổi sáng là 28,2 ± 0,64oC
và buổi chiều là 29,9 ± 0,77oC; bể 3 là 28,4 ± 0,56oC vào buổi sáng và 29,6 ±
0,91oC vào buổi chiều. Nhìn chung, nhiệt độ ở các bể khá tương đương nhau và
có ít biến động (nhiệt độ dao động từ 27 - 31oC trong các bể).
Theo Ong (1966) cua biển có phạm vi nhiệt độ tốt nhất từ 23 - 32oC. Từ kết quả
nghiên cứu của Ong (1966) cho thấy nhiệt độ nước trong thí nghiệm dao động
trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của cua biển. Ở vùng biển phía Nam
nước ta cua biển cũng thích nghi với nhiệt độ từ 25 - 29oC (Hoàng Đức Đạt,
2003).
4.1.2. pH
pH là yếu tố rất quan trọng không thể không quan tâm khi nuôi các loài thủy
sản. Cua biển là loài sống ở vùng nước lợ có độ pH khoảng 7,5 - 9,2 thích hợp
nhất là từ 7,5 - 8,2 (Hoàng Đức Đạt, 2003). Theo Munawar và ctv (1998) cần
quản lý pH ở mức 7,5 - 8,5.
Nhìn chung, sự biến động pH trung bình giữa các bể không có sự chênh lệch
nhiều. pH trung bình ở bể 1, bể 2, bể 3 lần lượt là 8,21 ± 0,08; 8,19 ± 0,06; 8,21

± 0,08 vào buổi sáng và 8,25 ± 0,08; 8,25 ± 0,06; 8,31 ± 0,08 vào buổi chiều.
Từ kết quả thu được ta thấy, pH trong suốt quá trình thí nghiệm giữa các bể tuy
có sự dao động nhưng vẫn nằm trong khoảng cho phép và thích hợp cho sự sinh
trưởng và phát triển của cua (Bảng 2).
24


4.1.3. Độ mặn
Độ mặn cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
sinh trưởng và phát triển của cua biển. Từ kết quả Bảng 2 cho thấy không có sự
biến động về độ mặn giữa các bể. Độ mặn trung bình của các bể nuôi trong thí
nghiệm là 32,5 ± 0,82‰ là do các bể đều sử dụng chung một nguồn nước, tuy
vậy vẫn có sự thay đổi độ mặn trong từng bể vì phụ thuộc vào nguồn nước lấy
vào. Độ mặn có xu hướng tăng lên trong thời gian thí nghiệm vì thời gian thí
nghiệm nằm trong tháng 04/2010 - 05/2010 ở Hòa Bình - Bạc Liệu là vào mùa
khô, trời nắng gắt nên nhiệt độ tăng làm cho nước bốc hơi từ đó làm cho độ
mặn cũng tăng theo. Độ mặn tăng từ dần từ 31‰ đến33‰ trong suốt thời gian
thí nghiệm. Tuy nhiên, độ mặn trong thí nghiệm vẫn nằm trong khoảng thích
hợp cho sinh trưởng và phát triển của cua. Theo Hoàng Đức Đạt (1995), Trần
Ngọc Hải và ctv (1999), Nguyễn Chung (2006) Cua có khả năng thích ứng với
sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt
cho đến độ mặn trên 33‰. DANIDA - Bộ thủy sản (2003) cũng cho rằng giới
hạn để cua sống và phát triển từ 2 - 35‰ . Cua cũng có thể chịu đựng độ mặn
trong phạm vi 2 - 60‰ (Hill, 1974 được trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv,
2006).
4.1.4. NO2Trong quá trình thí nghiệm hàm lượng NO2- ở các bể trong thí ngiệm dao đông
tử 0 - 5 mg/l và có xu hướng tăng lên là do thức ăn thừa và chất thải từ cua thải
ra trong quá trình nuôi. Hàm lượng NO2- trung bình ở bể 1 là 2,27 ± 1,49 mg/l;
bể 2 là 1,36 ± 0,67 mg/l; bể 3 là 2,39 ± 1,63 mg/l. Không có nhiều thông tin về
khả năng chịu đựng hàm lượng NO2- trong nuôi cua gạch, tuy nhiên trong nuôi

tôm thịt, hàm lượng NO2- nên dưới 0,1 mg/l (Chanratchakool et al., 1995 trích
dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2006). Trương Quốc Phú (2006) cho rằng nồng
độ an toàn của NO2- đối với hậu ấu trùng tôm sú là 4,5mg/l.
Tuy vậy kết quả của thí nghiệm này vẫn cho thấy có thể nuôi cua gạch trên bể
xi măng với chế độ thay nước 50% mỗi ngày vì tỷ lệ sống của cua trong thí
nghiệm khá cao, nghiệm thức I là 75%; nghiệm thức III là 100%, nghiệm thức
IV và nghiệm thức V đều là 91,67%.
4.1.5. TAN
Hàm lượng TAN trong quá trình thí nghiệm tăng cao trong khoảng 15 ngày đầu
của thí nghiệm sau đó giảm xuống và bắt đầu tăng trở lại vào cuối thí nghiệm là
do thức ăn thừa và chất thải của cua trong quá trình nuôi. Cũng giống như NO2-,
không có nhiều thông tin về khả năng chịu đựng hàm lượng tổng đạm Amon

25


×