Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thực trạng sử dụng PHẦN MỀM KẾ TOÁN tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.75 KB, 10 trang )

Thực trạng sử dụng PHẦN MỀM KẾ TOÁN tại Việt Nam
1 - Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin nói chung trong các doanh
nghiệp tại Việt Nam
1.1) Kết nối Internet
Theo số liệu thống kê của Bộ Thương Mại thì có tới 80% số doanh nghiệp đã kết
nối Internet- một tỉ lệ khá cao trong bối cảnh đất nước đang phát triển và lĩnh vực
công nghệ thông tin còn rất non trẻ. Trong số những doanh nghiệp đã kết nối
Internet thì tỉ lệ sử dụng băng thông rộng tăng nhanh. Đặc biệt tỉ lệ doanh nghiệp
truy cập Internet bằng ADSL chiếm trên 70%. Điều này cho thấy sự phát triển của
ADSL là động lực thúc đẩy ứng dụng Internet trong các doanh nghiệp. Với chi phí
ngày càng rẻ và chất lượng dịch vụ ngày càng cao ADSL đang được lựa chọn ngày
càng nhiều như một phương thức hiệu quả phục vụ nhu cầu thông tin và giao dịch
của doanh nghiệp.
1. 2) Đầu tư công nghệ thông tin
Trong những năm gần đây, đất nước đang đi vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện
đại hoá, việc ứng dụng tin học vào trong công tác điều hành quản lý hoạt động của
các doanh nghiệp không còn là điều mới mẻ. Tuy nhiên không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng nắm bắt được xu thế thời cuộc đó.
Kết quả điều tra tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp
cho thấy tỉ trọng đầu tư vào công nghệ thông tin trên tổng chi phí cho hoạt động
thường niên của các doanh nghiệp còn tương đối thấp. Dự kiến, đến năm 2010,
Việt Nam sẽ có 500.000 Doanh Nghiệp, tuy nhiên theo số liệu thống kê sơ bộ của
VCCI cho thấy, tỉ lệ ứng dụng công nghệ thông tin trong cộng đồng này hiện
chỉ đạt 30%, vào hàng thấp nhất trong khu vực. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp đang
còn thờ ơ với tính hiệu quả của công nghệ thông tin. Trong khoảng 70% doanh
nghiệp được khảo sát chi dưới 5% cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông
tin bao gồm cả chi phí phần cứng , phần mềm, bảo dưỡng hệ thống và đào tạo ứng
dụng công nghệ thông tin. Chỉ có khoảng 6% doanh nghiệp cho biết chi trên 15%
chi phí cho công nghệ thông tin. Không chỉ thấp về tỉ trọng mà đầu tư của doanh
nghiệp cho công nghệ thông tin còn chưa hợp lý. Chỉ 7,7% doanh nghiệp cho biết
có dự án triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử và có phân


bổ nguồn vốn riêng. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp thường chú trọng đầu tư
vào phần cứng nhiều hơn vào phần mềm. Đặt trong tương quan với thế giới thì đây
là một điều bất hợp lý và đòi hỏi phải có sự thay đổi trong tư duy quản lý cũng như
nhận thức về vai trò của công nghệ thông tin của doanh nghiệp.
Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
Thứ nhất là do nhận thức hạn chế của doanh nghiệp. Họ chưa nhìn thấy những
lợi ích của công nghệ thông tin mang lại cho doanh nghiệp của họ vì bởi lẽ tình
trạng ứng dụng công nghệ thông tin ở các doanh nghiệp còn rất sơ khai. Các phần
mềm sử dụng phổ biến nhất là các phần mềm văn phòng của Microsoft, sau đó là
ứng dụng Internet cơ bản như lướt Web hay thư điện tử. Theo điều tra gần đây của
VCCI, tại 526 doanh nghiệp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 98% doanh
nghiệp trả lời có máy tính nhưng hầu hết chỉ dùng ở cấp độ văn phòng như: soạn
thảo văn bản, gửi thư điện tử, chương trình Excel, cao hơn nữa sử dụng phần mềm
quản trị nguồn lực ERP; 65% doanh nghiệp có website nhưng không cập nhật
thông tin cho trang web; 85% doanh nghiệp có trang web không quan tâm về an
ninh, an toàn trên mạng. Mặt khác có một số doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp lớn thiếu động lực để áp dụng. Họ bảo thủ cho rằng từ trước đến nay không
ứng dụng công nghệ thông tin thì họ vẫn hoạt động được.
Nguyên nhân thứ hai là do Nhà nước chưa có cơ chế chính sách khuyến khích cụ
thể để tạo điều kiện đưa nhanh tiến bộ khoa học-kỹ thuật-công nghệ và sản phẩm
công nghệ thông tin phục vụ doanh nghiệp. Chính sách của nhà nước về vấn đề này
còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với nhu cầu của cuộc sống. Thứ nhất, chính sách
ban hành chậm được thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cụ thể là
căn cứ pháp lý của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử vẫn chưa có. Người dân và
doanh nghiệp ở các nước trong khu vực đã được hưởng lợi từ việc cấp văn bằng,
chứng chỉ hay chỉ khai báo hải quan qua mạng, nhưng chúng ta mới chỉ dừng lại ở
những đề án. Bên cạnh đó, cơ chế đầu tư cho ứng dụng CNTT còn nhiều bất
cập.Thứ hai, những chính sách thúc đẩy tin học hoá xã hội còn chung chung và
được đưa ra như một sự lựa chọn thêm. Nhà nước chưa có các định hướng cụ thể
cho các doanh nghiệp như là khi nào thì nên bắt đầu đầu tư vào công nghệ thông

tin hay là đầu tư như thế nào là đúng để không lãng phí mà lại đạt được kết quả tốt
nhất, để giúp cho các doanh nghiệp có những hướng đi cụ thể trong việc triển khai
ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý doanh nghiệp. Nếu không có những
định hướng cụ thể đó thì chắc hẳn doanh nghiệp sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi bước
chân vào thế giới rộng lớn của công nghệ thông tin. Đó là nguyên nhân khiến họ
rụt rè trong việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý hoạt
động sản xuất. Theo điều tra của ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin thì
chỉ có 9% số doanh nghiệp được hỏi tỏ ra hài lòng với chính sách hỗ trợ của nhà
nước về công nghệ thông tin.
Nguyên nhân thứ ba khiến cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào doanh
nghiệp còn chậm trễ là cho các doanh nghiệp thiếu nguồn nhân lực có năng lực và
trình độ về công nghệ thông tin. Trong thực tế không phải giám đốc doanh nghiệp
nào cũng có trình độ về công nghệ thông tin và quan tâm đúng mức tới công nghệ
thông tin. Nếu giám đốc điều hành công việc bằng công nghệ thông tin thì tự khắc
các thành viên trong doanh nghiệp sẽ làm việc bằng công nghệ thông tin. Nhưng
cũng phải xem xét tới một thực tế là nhiều doanh nghiệp nhỏ còn chưa có cả máy
fax , giám đốc phải lo từng ngày để trả lương đúng hạn cho nhân viên thì cũng khó
nói tới việc ứng dụng công nghệ thông tin. Vấn đề đặt ra ở đây là để khai thác hiệu
quả hệ thống thông tin thì cần phải có những cán bộ chuyên trách về hệ thống
thông tin. Theo số liệu thống kê chưa chính xác thì có tới 90% doanh nghiệp thiếu
cán bộ phân tích dữ liệu. Các công ty phần mềm khi bán sản phẩm thường phải
kiêm luôn chức năng của nhà tư vấn. Điều đó dẫn tới những khó khăn trong việc
phối hợp giữa người bán giải pháp và các doanh nghiệp có nhu cầu. Người mua
không cụ thể hoá được nhu cầu của mình còn người bán thì không có cơ sở chính
xác để tùy biến sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Do vậy mới
dẫn đến tình trạng “tiền mất mà tật vẫn mang”. Có những doanh nghiệp bỏ ra một
khoản tiền lớn để mua phần mềm ứng dụng nhưng phần mềm không đáp ứng được
tối đa các yêu cầu của doanh nghiệp hoặc là phần mềm không thuận lợi cho người
sử dụng. Và hậu quả là doanh nghiệp lại phải bỏ tiền ra mua một phần mềm khác
dù biết trước rằng hiệu quả sử dụng là rất thấp. Theo số liệu thống kê của tập đoàn

khảo sát thị trường IDC thì mọi đối tượng người dùng phần mềm từ người quản lý
đến các nhân viên đều mới chỉ sử dụng được khoảng 15% tính năng của phần
mềm. Đó là một ví dụ điển hình của việc không có trình độ về tin học sẽ dẫn đến
những sự lãng phí không cần thiết và hiệu quả làm việc mang lại không được là
bao nhiêu.
1. 3) Những lợi ích mà công nghệ thông tin mang lại cho các doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết việc phát triển công nghệ thông tin mang lại cho doanh
nghiệp nói riêng và cho xã hội nói chung những lợi ích to lớn. Những doanh
nghiệp nắm bắt được xu thế của thời cuộc đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Và thực tế công
nghệ thông tin đã chứng minh hiệu quả ưu việt của mình. Trong những năm gần
đây một ứng dụng to lớn nhất mà công nghệ thông tin mang lại cho các doanh
nghiệp đó là họ có thể tham gia vào thương mại điện tử. Trong xu thế toàn cầu hoá
như hiện nay thì thương mại điện tử là chiếc cầu nối quan trọng cho các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận với thế giới. Các doanh nghiệp có thể quảng bá được
hình ảnh và thương hiệu của mình tới bạn bè năm châu, đưa hàng hoá của Việt
Nam tới tay hàng triệu người tiêu dùng trên khắp thế giới. Thương mại điện đang
phát triển với một tốc độ chóng mặt. Một số dịch vụ công liên quan đến thương
mại điện tử bắt đầu được triển khai. Việc bộ Tài chính triển khai khai hải quan điện
tử được coi là bước cải cách lớn trong khối dịch vụ công,giúp doanh nghiệp tiết
kiệm thời gian, chi phí và giảm cơ hội phát sinh tiêu cực. Ngoài việc nâng cấp dịch
vụ truyền visa điện tử hàng dệt may sang Hoa Kỳ(ELVIS) bộ thương mại đã nâng
cấp dịch vụ tra cứu trực tuyến thông tin visa điện tử của các doanh nghiệp hàng dệt
may, giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh. Các webside thương
mại điện tử đựơc xây dựng và đi vào hoạt động. Tại Việt Nam, theo điều tra sơ bộ
của Bộ Thương mại, hiện có khoảng hơn 20 website bán hàng và cung ứng dịch
vụ, hơn mười sàn giao dịch trực tuyến dành cho phương thức kinh doanh B2B
(Business to Business). Thanh toán điện tử bắt đầu được nghiên cứu triển khai tại
các Ngân hàng Công thương, Ngoại thương. Hình thức bán hàng trên mạng thông
qua website bắt đầu có tác dụng mặc dù còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn ngành

đường sắt Việt Nam triển khai đăng ký bán vé tàu Tết qua mạng. Một xã trồng rau
ở Nghệ An đã biết dùng Website để quảng bá cho sản phẩm của mình. Các dịch vụ
tải nhạc chuông, tải hình nền, dự đoán kết quả thi đấu thể thao, bình chọn sự kiện
qua điện thoại di động... đã nhanh chóng thu hút được khách hàng do chi phí thấp,
đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu. Dịch vụ trực tuyến phát triển, nổi bật nhất là trò
chơi trực tuyến đã tạo nên một lượng khách hàng đông đảo. Trò chơi trực tuyến là
lĩnh vực kinh doanh hứa hẹn tiềm năng doanh thu cao, trở thành mục tiêu của
nhiều doanh nghiệp. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng cho phát
triển thương mại điện tử.

×