Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nguyên Tắc Công Bằng Trong Luật Thuế Thu Nhập Cá Nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.27 KB, 65 trang )

Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là sản phẩm của con người, là công cụ mà người dân thông qua cơ quan đại
diện (Quốc hội) cho phép Chính phủ sử dụng phối hợp với những công cụ chính sách
vĩ mô khác nhằm đạt các mục tiêu công ăn, việc làm, bình ổn chỉ số giá tiêu dùng, tăng
trưởng kinh tế bền vững, bảo vệ môi trường thiên nhiên, phân phối thu nhập và của cải
xã hội thích hợp về mặt chính trị. Thế nhưng, trong thời kì đế quốc, phong kiến, thuế
được đặt ra không vì những mục tiêu đó mà mục đích của nhà cầm quyền là thông qua
thuế để thực hiện chính sách vơ vét, bóc lột nhân dân, dùng tiền thuế của dân để phục
vụ cho sự thống trị của mình. Từ đó tư tưởng chống sưu cao thuế nặng hằn sâu vào
tâm trí của người dân và trở thành phản xạ khi nói đến việc nộp thuế. Cho nên, đối với
Thuế thu nhập cá nhân - một loại thuế trực thu, người dân trực tiếp thấy sự "mất mát"
trong thu nhập của mình nên đối với loại thuế này dễ bị sự phản ứng từ phía người dân
nhất dẫn đến nhiều tranh luận kể cả chỉ trích và sẽ không bao giờ chấm dứt nếu không
có một cơ sở chung để giữ tính định hướng thì có thể dẫn đến những nhận định cảm
tính, phiến diện từ đó người dân không chấp hành hoặc chấp hành miễn cưỡng chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều đó có thể thấy ở chỗ, Luật Thuế thu
nhập cá nhân ngay từ khi bắt đầu soạn thảo đến khi chính thức đi vào đời sống xã hội
đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của đông đảo nhân bởi một lẽ hiển nhiên nó có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của họ, với nhiều luồng ý kiến trái chiều nhau, thế nhưng
để những tranh luận đó mang tính xây dựng thì cơ sở chung mang tính định hướng đó
là cần nắm vững một số nguyên tắc cơ bản khi Nhà nước xây dựng luật thuế. Từ đó có
thể hiểu hơn về mục tiêu, chính sách cũng như ý đồ của Nhà nước trong quá trình vận
hành nền kinh tế, đời sống xã hội của một quốc gia thông qua luật.
Một luật thuế ra đời trên cơ sở nhiều nguyên tắc để làm sao có thể cân bằng một
cách tốt nhất có thể được lợi ích của người nộp thuế và một chủ thể đặc biệt là Nhà
nước. Nhằm góp phần vào việc tìm hiểu mục tiêu, chính sách mà Nhà nước đặt ra
trong thuế thu nhập cá nhân từ đó có thể có câu trả lời cho những tranh luận xung
quanh luật thuế này, người viết quyết định chọn đề tài "Nguyên tắc công bằng trong
luật thuế thu nhập cá nhân" để nghiên cứu trong khuôn khổ của một luận văn. Do đó
người viết chỉ xoay quanh vấn đề chính là tìm hiểu, chỉ ra và đi sâu phân tích nguyên


tắc công bằng trong thuế thu nhập cá nhân thông qua cách xác định từng thành phần
của luật thuế trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật so sánh đối chiếu với
thực tiễn để đưa ra những đánh giá ban đầu góp phần làm tư liệu tham khảo để có thể
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

1

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
nâng cao tính công bằng trong thuế - một đòi hỏi quan trọng để một luật thuế có thể
thực thi một cách tốt nhất. Đó cũng chính là mục đích sau cùng mà luận văn mong
muốn đạt được. Tuy nhiên giữa mong muốn và thực tế đạt được luôn tồn tại khoảng
cách, mặc dù có sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của Cô Lê Thị Nguyệt Châu - giáo
viên hướng dẫn và sự nỗ lực hết mình của bản thân nhưng do kiến thức còn hạn chế,
cách diễn đạt có thể chưa thể hiện được hết suy nghĩ của người viết vì vậy mong được
sự góp ý của Thầy, Cô cũng như người đọc để người viết có thể thực hiện tốt hơn
những nghiên cứu sau này.
Trong quá trình nghiên ở góc độ lý luận người viết đã sử dụng phương pháp phân
tích luật viết: phân tích câu chữ, so sánh, tổng hợp, suy lý ngược... để tiếp cận vấn đề.
Cấu trúc của luận văn gồm:
Lời mở đầu: Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài.
Chương 1: Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân.
Nêu khái quát lược sử phát triển về thuế thu nhập cá nhân, tìm hiểu bản chất, vai
trò cũng như những nguyên tắc chung khi xây dựng một luật thuế.
Chương 2: Phân tích nguyên tắc công bằng trong luật thuế thu nhập cá nhân.
Chương này đi sâu nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc công bằng trong luật mà
cụ thể là phân tích tính công bằng trong việc xác định đối tượng nộp thuế, thu nhập
chịu thuế, giảm trừ gia cảnh, biểu thuế, thuế suất và miễn giảm thuế, từ đó đưa ra các

giải pháp góp phần tăng tính công bằng cho luật thuế thu nhập cá nhân.
Kết luận

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

2

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Lược sử sự phát triển Thuế thu nhập cá nhân
Về danh nghĩa, từ trước năm 2007 Việt Nam chưa có Thuế thu nhập cá nhân mà
chỉ có những sắc thuế mang tính chất của thuế thu nhập cá nhân như thuế Lợi tức
lương bổng được áp dụng ở Miền Nam nước ta từ năm 1962 sau đó đươc cải cách vào
năm 1972.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (30/4/1975) đến năm 1990 Nhà nước ta
chưa chú trọng việc thu thuế, chưa nhận thấy rõ vai trò và vị trí của thuế là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách Nhà nước do vào thời kỳ này các khoản thu chủ yếu của Nhà
nước là các khoản vay, khoản viện trợ từ các nước Xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ
thu quốc doanh (gián thu) và chế độ trích nộp lợi nhuận (trực thu), chỉ thực hiện chế
độ thuế đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh.
Sau sự sụp đổ của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô và
cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, Nhà Nước ta quyết định cải cách hệ thống
thuế để trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà Nước. Việc Hội đồng Nhà
nước ban hành hàng loạt luật thuế mới trong thời gian này (trong đó có Pháp lệnh về
thuế đối với người có thu nhập cao ban hành ngày 27/12/1990, có hiệu lực ngày
01/04/1991) được xem là cuộc cải cách toàn diện, sâu sắc và căn bản bởi hệ thống thuế

đã bao trùm mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, mọi doanh nghiệp thuộc tất cả các
thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, tư nhân), bên cạnh đó việc cải tổ và hoàn
thiện tổ chức ngành thuế, bộ máy hành thu, tăng cường tính cưỡng chế của thuế, nộp
thuế là một nghĩa vụ luật định thực sự, mở ra một hướng mới trong việc dùng thuế như
một công cụ sắc bén và hữu hiệu điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Qua quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh về thuế đối với người có thu nhập cao
Quốc Hội đã sửa đổi bổ sung nhiều lần vào các năm 1992, 1993, 1994, 1997, 2001,
2004. Đến ngày 21 tháng 11 năm 2007 một sắc thuế chính thức mang tên Thuế thu
nhập cá nhân ra đời (tại kỳ họp thứ 2 Quốc Hội khóa 12) có hiệu lực vào ngày 01
tháng 01 năm 2009. Đây là bước tiến quan trọng của nền lập pháp nước ta, góp phần
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước, đảm bảo công bằng trong phân phối thu
nhập.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

3

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
1.2 Khái niệm
Thu nhập là số tiền hoặc số sản phẩm nhận được do sức lao động của mình1; là
khoản tiền bạc của cải thu nhập được trong khoảng thời gian nhất định (tháng hoặc
năm)2.
Trong lĩnh vực kinh tế, thu nhập được hiểu là tổng đại số các giá trị trên thị trường
của các nguồn lợi được hưởng dưới dạng tiêu dùng và những thay đổi giá trị thuộc các
nguồn sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định3, như vậy thu nhập hoàn chỉnh là
thu nhập bằng tiền thực tế nhận được và cả thu nhập tiềm năng như lãi cho vay, lãi từ
sự tăng giá tài sản, được đo bằng sự tăng lên thuần túy về sức mua của mỗi cá nhân

trong một thời kì nhất định.
Trong lĩnh vực thuế, các văn bản pháp quy về thuế thu nhập không có một định
nghĩa chung về thu nhập một cách đầy đủ, chính xác mà chỉ có quy định danh mục các
khoản thu nhập thuộc diện đánh thuế vì vậy khi muốn xác định một khoản thu nào đó
có phải là thu nhập hay không thì phải dựa vào nhiều yếu tố cụ thể trong từng trường
hợp, đó có thể là các khoản thu bằng tiền, bằng hiện vật có được từ hoạt động kinh
doanh, từ lao động dịch vụ hoặc từ một quan hệ xã hội nào đó mà mỗi cá nhân nhận
được trong một khoảng thời gian nhất định hoặc theo từng lần phát sinh, theo đó người
có thu nhập cao đóng thuế nhiều, người có thu nhập thấp đóng thuế ít.
Như vậy, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân
nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân
sách Nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc
khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với
các khoản thu nhập từ đầu tư, kinh doanh...4
1.3 Đặc điểm của Thuế thu nhập cá nhân
Nếu như thuế nói chung xuất hiện trong xã hội loài người khi thỏa mãn hai điều
kiện cần và đủ là sự xuất hiện của Nhà nước và thu nhập xã hội thì Thuế thu nhập cá
nhân không chỉ dừng lại ở đó mà nó xuất hiện khi thu nhập xã hội đạt đến một mức độ
tạo nên khoảng cách chênh lệch giữa các cá nhân trong xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ
Thuế thu nhập cá nhân có tác dụng phân phối lại thu nhập trong xã hội trên cơ sở xem
xét đến hoàn cảnh cụ thể của người nộp thuế đảm bảo người có thu nhập thấp thì chưa

1
2
3
4

Từ điển từ và ngữ Việt Nam, trang 1760 – Nguyễn Lân, NXB TP HCM
Đại từ điển tiếng Việt, trang 1593 – Nguyễn Như Ý, NXB VHTT
Bản chất của thuế thu nhập cá nhân , Tạp chí Thuế nhà nước số 37 (107) kỳ 1 tháng 10/2006

Giáo trình luật thuế, trang 25 – TS Lê Thị Nguyệt Châu, Tủ sách ĐH Cần Thơ

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

4

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, những người có thu nhập
như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn;
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu vì vậy nó phản ánh sự đồng nhất giữa
đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế, người chịu
thuế thu nhập cá nhân không thể chuyển gánh nặng về thuế cho người khác tại thời
điểm đánh thuế nên người nộp thuế cảm nhận rõ những “mất mát” trong thu nhập, do
đó thuế thu nhập cá nhân dễ bị phản ứng từ phía người dân;
Về nguyên tắc, thuế phải có tính trung lập, không nhằm những mục tiêu khác nhau,
tuy nhiên thuế thu nhập cá nhân được xây dựng có một số khoản được khấu trừ có tính
chất xã hội trước khi tính thuế, việc xem xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp
thuế ít nhiều cho thấy thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của quốc
gia nhưng ở mức độ đảm bảo cuộc sống của người nộp thuế, công bằng giữa các
khoản thu nhập phải chịu thuế và tính hiệu quả trong việc thu thuế;
Phạm vi điều chỉnh của Thuế thu nhập cá nhân rất rộng: thứ nhất, đối tượng chịu
thuế trong Thuế thu nhập cá nhân là toàn bộ thu nhập không phân biệt thu nhập đó có
nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp
thuế thu nhập cá nhân là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân
của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường
xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp
luật thuế thu nhập cá nhân;

Do là loại thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân nên các yếu tố kỹ thuật
của một sắc thuế như: xác định các khoản thu nhập nằm trong phạm vi xác định thu
nhập chịu thuế, các chi phí được khấu trừ, thuế suất, biểu thuế, miễn giảm thuế thu
nhập sẽ phản ánh các chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định;
Thuế thu nhập cá nhân là một khoản đóng góp bắt buộc mang tính không hoàn trả
trực tiếp. Nếu như các khoản đóng góp bắt buộc như phí, lệ phí người đóng sẽ nhận
được những dịch vụ trực tiếp tương ứng với từng loại phí theo tên gọi còn đối với thuế
thu nhập cá nhân người nộp thuế không hề nhận được một dịch vụ đối ứng trực tiếp
nào mà chỉ có thể nhận được một cách gián tiếp thông qua việc tiêu dùng hàng hóa
công cộng: an ninh xã hội, môi trường, chăm sóc sức khỏe... Thông qua đó thể hiện
mối quan hệ khắng khít giữa công dân và Nhà Nước;
Thuế thu nhập cá nhân đảm bảo chính sách điều tiết công bằng thông qua biểu thuế
lũy tiến từng phần đối với các thu nhập chủ yếu như từ kinh doanh, tiền lương, tiền
công với mức độ tăng dần về thu nhập tính thuế và thuế suất. Do đó Thuế thu nhập cá

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

5

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
nhân điều tiết mạnh từ người có thu nhập cao, động viên sự góp vốn từ người có thu
nhập thấp, thu nhập trung bình để góp phần thực hiện công bằng xã hội. Điều này thể
hiện ở chỗ: trong nền kinh tế thị trường người giàu ngày càng giàu lên nhanh chóng,
người nghèo ngày càng nghèo hơn, để giảm bớt sự phân cực đó và không làm mất đi
những thành quả mà nền kinh tế thị trường mang lại, đảm bảo xã hội phát triển ổn
định;
Thuế thu nhập cá nhân ra đời từ yêu cầu đảm bảo công bằng trong phân phối thu

nhập. Nói như vậy không có nghĩa là không khuyến khích người dân làm giàu mà
ngược lại thông qua sắc thuế, Nhà nước có thể hiện ý chí của mình cũng như mục tiêu
quản lý như: đâu là mức thu nhập mà người lao động có thể tự nuôi sống bản thân,
những người phụ thuộc (không đánh thuế); đâu là mức để người dân có thể tích lũy
(đánh thuế với mức thuế suất hợp lý); đâu là mức mà Nhà Nước khuyến khích người
dân nghỉ ngơi (đánh thuế ở mức cao) và cuối cùng đảm bảo được người có thu nhập
cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn so với
người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. Tuy nhiên vì tính chất của thuế trực thu
(người chịu thuế cũng là người nộp thuế) nên không thể chuyển gánh nặng thuế cho
người khác mà người nộp thuế dễ có phản ứng tiêu cực như trốn thuế, tránh thuế. Vì
vậy để quản lý thuế thu nhập cá nhân một cách chặt chẽ thì cơ chế quản lý phức tạp,
việc quản lý thuế đòi hỏi phải có trình độ, kỹ thuật cao, sự nghiêm chỉnh, chính xác từ
khâu sổ sách kế toán, chứng từ do đó đưa chi phí quản lý thuế thu nhập cá nhân
thường lên rất cao;
Thu nhập thông thường được xác định mỗi năm một lần, do đó thuế thu nhập cũng
được tính toán xác định chung cho cả năm theo năm dương lịch. Tuy nhiên, để có số
thu vào ngân sách kịp thời, tùy từng nước qui định chế độ tạm thu hàng tháng, quý
hoặc 6 tháng một lần.
Việc thiết kế, xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân luôn đặt trong mối liên hệ
khăng khít với thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì xét cho cùng cả hai loại thuế này đều
đánh vào lợi tức do các cá nhân trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế sáng tạo ra.
Do đó cần phải phối hợp khi xây dựng biểu thuế suất sao cho thuế suất bình quân của
thuế thu nhập cá nhân cao hơn thuế suất thu nhập doanh nghiệp nhằm khắc phục tình
trạng tránh thuế dưới hình thức phân tán bớt lợi tức công ty chuyển sang thu nhập cá
nhân để giảm bớt nghĩa vụ thuế. Do đó thu nhập cá nhân tăng lên đến một mức nào đó
sẽ làm tăng số thuế thu nhập cá nhân.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

6


SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Như vậy, một xã hội nếu có điều chỉnh chi tiết về thuế thu nhập cá nhân không chỉ
là một xã hội công bằng mà còn thể hiện được tính nhân văn cao. Một cách tự nhiên,
đó là một xã hội có tính ràng buộc hữu cơ giữa nhà nước và công dân một cách mật
thiết.
1.4 Vai trò của Thuế thu nhập cá nhân
Trong nền kinh tế thị trường quá trình phân phối thu nhập luôn không bình đẳng,
người giàu lại càng giàu thêm, người nghèo lại càng nghèo, hai thái cực “giàu”,
“nghèo” ngày càng cách xa nhau, nguy cơ tạo ra sự đối lập giữa các tầng lớp dân cư
làm cho xã hội không ổn định. Nhà nước với một trong những chức năng là can thiệp,
điều chỉnh kinh tế, thiết lập khuôn khổ pháp luật để lập lại trật tự trong phân phối thu
nhập, ổn định kinh tế và xã hội bằng cách thông qua Thuế thu nhập cá nhân điều tiết
một cách hợp lý, người có thu nhập càng cao đóng thuế càng nhiều, người có thu nhập
thấp sẽ đóng thuế ít hơn hoặc không phải đóng thuế. Sử dụng thuế thu nhập cá nhân
Nhà nước đóng vai trò trung tâm phân phối thu nhập trong xã hội, một mặt huy động
thu nhập của người có thu nhập cao để chi cho các chương trình phúc lợi công cộng
phục vụ trở lại xã hội, mặt khác chuyển sang những người nghèo, người có mức sống
thấp.
Nhà nước có vai trò quản lý xã hội, thế nhưng không thể dùng các mệnh lệnh hành
chính để can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, xã hội mà chỉ có thể đưa ra các
chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để
hướng các hoạt động kinh tế xã hội đi theo nhằm đạt được mục tiêu kinh tế đề ra, tạo
hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế, xã hội thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật5, và thuế thu nhập cá nhân là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng
này, thể hiện ở chỗ thông qua việc tăng cường hay giảm bớt điều tiết thu nhập làm cho
tổng cầu xã hội tăng hoặc giảm, từ đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế. Thông

qua cơ chế điều tiết trực tiếp thu nhập của cá nhân mà nhà nước có thể chủ động điều
chỉnh nền kinh tế. Khi nền kinh tế “quá nóng” đến mức có thể gây lạm phát cao, khó
làm chủ được, Nhà nước có thể tăng thêm gánh nặng thuế khoá trực tiếp lên người
dân, làm giảm sức mua của dân cư dẫn tới thu hẹp sản xuất. Ngược lại khi nền kinh tế
suy thoái Nhà nước có thể kích thích tăng sức mua của dân cư, kích thích phục hồi
kinh tế.

5

Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Quách Đức Pháp

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

7

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, là một
bộ phận trong hệ thống chính sách thuế. Sở dĩ như vậy là do thuế TNCN có diện đánh
thuế rộng, mọi người dân có thu nhập vượt trên mức khởi điểm chịu thuế đều nộp thuế
thu nhập cá nhân đảm bảo chi tiêu nội bộ của bộ máy hành chính.
Thuế thu nhập cá nhân còn là công cụ để Nhà nước thực hiện việc kiểm soát, thống
kê thu nhập của các tầng lớp dân cư. Nhà nước có thể nắm được tương đối chính xác
thu nhập của cá nhân thông qua cơ chế quỹ tiền lương và những quy định báo cáo bắt
buộc như báo cáo kế toán, quyết toán kinh doanh, kê khai tình hình lãi cổ phần, lãi tín
dụng…để hạn chế tham nhũng, thực hành tiết kiệm.
Qua phân tích trên có thể nói Thuế thu nhập cá nhân tác động trực tiếp đến tiết
kiệm và khả năng thanh toán của các cá nhân, thông qua thuế thu nhập cá nhân nhà

nước đã chi phối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng cho phù hợp với đường lối phát
triển kinh tế của chính phủ. Thuế thu nhập cá nhân là một cơ chế định hướng kinh tế.

1.5 Các nguyên tắc cơ bản trong luật thuế
Nguyên tắc đánh thuế của Nhà nước là hệ thống quan điểm chỉ đạo, chi phối sâu
sắc việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp tới
quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế. Thuế liên quan đến quyền lợi trực tiếp
của người nộp thuế và Nhà nước. Dù là trực thu hay gián thu người nộp thuế cũng phải
trích một phần tài sản để chuyển cho Nhà Nước mà không thể khước từ hay trì hoãn.
Ngược lại, Nhà Nước nào cũng phải mong chờ nguồn thu từ thuế để đảm bảo nguồn
vật chất đầu vào cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ. Rõ ràng, việc thu nộp thuế
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cả hai loại chủ thể. Yêu cầu đặt ra là việc thu
nộp thuế phải đạt tới mục tiêu sao cho lợi ích của cả hai bên đều đạt được hoặc có thể
chấp nhận được (về phía người nộp thuế). Nếu không xác định hoặc xác định không
đúng nguyên tắc đánh thuế, Nhà nước sẽ không nhận được sự ủng hộ của dân chúng,
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chống thuế hoặc trốn thuế. Có rất nhiều
nguyên tắc để đảm bảo cho sắc thuế có thể thực thi một cách tốt nhất nhưng tựu trung
lại có các nhóm nguyên tắc cơ bản sau:
1.5.1 Nguyên tắc khả thi
Thuế thu nhập cá nhân với đặc điểm là loại thuế trực thu, người nộp thuế cũng là
người chịu gánh nặng về thuế, vì vậy mà đây là sắc thuế dễ gặp phản ứng từ phía
người dân nhất. Từ đó muốn thuế thu nhập cá nhân có thể đi vào cuộc sống và được
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

8

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân

người dân chấp nhận đòi hỏi khi xây dựng luật phải cân nhắc cẩn thận đến khả năng
đóng thuế để có cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân
đóng thuế khi họ không có khả năng đóng góp.
Thuế là một khoản thu bắt buộc, người dân chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ thuế đối
với Nhà nước mà không có quyền đòi hỏi một lợi ích trực tiếp hay thương lượng, mặc
cả, do đó khả năng đóng góp thể hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu
nhập chịu thuế của họ là khoản thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần
thiết đối với bản thân, người thân (có đủ điều kiện theo luật định) và khoản đóng góp
không bắt buộc đối với vai trò là một công dân trong xã hội. Do đó Nhà nước đặt ra
một ngưỡng nhất định, là khoản chi tiêu cần thiết cho mọi người dân. Nếu thu nhập
của họ không vượt qua ngưỡng mà Nhà nước đặt ra, họ không phải đóng thuế thậm chí
được nhận một khoản trợ cấp nhất định. Bởi suy cho cùng thu nhập chưa đủ phục vụ
cho nhu cầu thiết yếu của bản thân, để có thể tái tạo sức lao động mà Nhà nước vẫn
thu thuế thì có hai khả năng xảy ra: thứ nhất, người dân tìm đủ mọi cách trốn thuế làm
cho chi phí quản lý về thuế tăng lên, nguy hiểm hơn lòng tin của nhân dân vào một xã
hội công bằng dân chủ không còn dẫn đến những Chính sách của Đảng và Pháp luật
của Nhà nước ban hành khó được người dân nghiêm chỉnh thực hiện. Thứ hai, nếu
Nhà nước thu được thuế, người dân lao động nhưng không có đủ chi phí để tái tạo sức
lao động, không có cơ hội nuôi sống bản thân thì chuyện tích lũy tài sản là điều không
tưởng, vô hình chung họ trở thành gánh nặng cho xã hội, đến lúc đó số thuế mà Nhà
Nước thu được liệu có thể gánh vác đươc hậu quả của một chính sách thuế tận thu?
Tính khả thi còn thể hiện ở chỗ cần xác định khoản thu nhập nào có thể đưa vào
chịu thuế để vừa đảm bảo bao quát được hết nguồn thu vừa có thể đảm bảo không xảy
ra vấn đề thuế chồng lên thuế đối với một đối tượng nộp thuế, ngoài ra việc xác định
đúng đối tượng chịu thuế, người nộp thuế và số thuế phải thu để chi phí Nhà nước bỏ
ra để quản lý thuế luôn đảm bảo phải nhỏ hơn số thuế thu được.
1.5.2 Nguyên tắc rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu
Đóng thuế là nghĩa vụ và đã là nghĩa vụ thì bắt buộc phải thực hiện, tuy nhiên để
việc thực hiện được nhanh chóng thì dựa vào ý thức của người dân. Ý thức đó được
hình thành khi người nộp thuế hiểu rõ nghĩa vụ thuế của mình. Đóng thuế tức là người

dân đã trích một phần thu nhập của mình nộp vào ngân sách Nhà Nước theo quy định
của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ công dân do đó người dân có quyền được hiểu
pháp luật về thuế của Nhà Nước.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

9

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Thuế không đơn thuần là công cụ tạo nguồn thu cho ngân sách mà thông qua thuế
có thể thấy rõ ý đồ của nhà cầm quyền, có thể thông qua sắc thuế nói lên bản chất của
một Nhà nước. Thế nhưng, đối với người dân một sắc thuế nói chung hay thuế thu
nhập cá nhân nói riêng ra đời họ không quan tâm đến cái vĩ mô như Nhà Nước mà vấn
đề quan trọng đối với họ khi đứng trước luật thuế xem mình có phải là đối tượng chịu
thuế không? Thu nhập bao nhiêu mới phải nộp thuế? Nếu có, số thuế phải nộp là bao
nhiêu? Nếu không nộp hay nộp trễ thì sẽ như thế nào? Thế nhưng để tự tìm được câu
trả lời cho những câu hỏi trên sẽ không dễ dàng đối với người dân nếu luật thuế không
được xây dựng một cách rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu:
Rõ ràng: có nghĩa là mỗi người nộp thuế phải được biết một cách minh bạch số tiền
thuế phải nộp, thủ tục nộp thuế như thế nào? Các ưu đãi về thuế. Ngoài ra, nguyên tắc
rõ ràng còn được thể hiện ở quá trình làm luật thuế, nó phải chặt chẽ từ khâu soạn thảo
đến khâu tổ chức thực hiện;
Đơn giản: là không quá rườm rà, phức tạp. “Không quá” có nghĩa là có cân nhắc
lựa chọn phương án đơn giản nhất trong điều kiện có thể nhưng phải đảm bảo được
yêu cầu về nội dung của luật thuế. Vì thường thì nguyên tắc đơn giản và công bằng
mâu thuẫn nhau, cho nên cần lựa chọn phương án tối ưu nhất;
Yêu cầu dễ hiểu thường thuộc về kỹ thuật, được thể hiện qua cách trình bày nội

dung của luật thuế sao cho logic, mạch lạc, rõ ràng bằng các từ phổ thông để hiểu rõ,
hiểu đúng.
Nếu xây dựng một luật thuế đơn giản, dễ hiểu thì dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát việc
thực hiện trong thực tế, là điều kiện để đạt được những mục tiêu mà Nhà nước đề ra.
1.5.3 Nguyên tắc ổn định
Trong các loại thuế thì thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người
dân và xã hội vì đây là loại thuế có đối tượng chịu thuế rộng, tác động trực tiếp đến
sinh hoạt của người dân, chỉ cần một biến động nhỏ trong việc tính thuế sẽ kéo theo
hàng loạt thay đổi trong đời sống của người nộp thuế. Luật thuế thu nhập cá nhân ra
đời không những là nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển, là nguồn thu cho ngân
sách quốc gia mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội. Vì vậy luật thuế thu nhập cá
nhân được ban hành và thực thi khi đến một thời điểm thích hợp, việc sửa đổi hoặc bổ
sung cần phải có kế hoạch và thời hạn đủ để các đối tượng liên quan chuẩn bị, không
làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của từng người dân cũng như xã hội trước sự thay đổi
của một sắc thuế sẽ là điều kiện quan trọng để ổn định môi trường đầu tư kinh doanh,
đảm bảo cho các cá nhân lựa chọn và quyết định hình thức đầu tư. Sự biến động của
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

10

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
giá cả thị trường, yếu tố trượt giá làm cho sức mua của đồng tiền thay đổi trong từng
giai đoạn nhất định đòi hỏi nhà làm luật phải tính đến để đảm bảo tính khả thi trong
một thời gian hợp lý. Không phủ nhận luật ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
nhưng không có nghĩa luật luôn “chạy” theo sau các quan hệ xã hội, mà các nhà làm
luật cần có tầm nhìn, dự đoán được sự phát triển của xã hội để xây dựng một luật thuế
ổn định bảo đảm cho người dân yên tâm lao động để có thể đóng góp vào ngân sách

Nhà nước thông qua con đường thuế thu nhập bởi không ai có thể yên tâm làm việc
một khi không biết chính xác mình được giữ lại bao nhiêu trong toàn bộ thu nhập sau
khi thực hiện xong nghĩa vụ đối với Nhà nước.
1.5.4 Nguyên tắc hiệu quả
Để xây dựng được một văn bản luật Nhà nước đã phải đầu tư nhiều công sức, tiền
bạc, luật thuế thu nhập cá nhân ra đời cũng không ngoại lệ. Dù mang trên mình tên gọi
nào hay mục tiêu gì thì thuế cũng không loại trừ mục tiêu tạo nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước, vì vậy một sắc thuế mà chi phí xã hội bỏ ra để thu được thuế nhiều hơn số
thuế thu được, được xem là không có hiệu quả. Một luật thuế được xem là có hiệu quả
khi mọi tác dụng của thuế được khai thác một cách tối đa, thể hiện ở chỗ không chỉ
giới hạn ở việc tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước mà có tác dụng đến nhiều mặt
hoạt động của đời sống xã hội, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.5.5 Nguyên tắc công bằng
Trong tiếng Việt khi nói đến công bằng người ta thường liên tưởng đến sự bằng
nhau tức sự bình đẳng. Thật ra công bằng và bình đẳng có liên quan tới nhau nhưng đó
là hai khái niệm khác nhau. Công bằng có khía cạnh bình đẳng đồng thời có khía cạnh
bất bình đẳng. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân trước pháp luật hay sự bất
bình đẳng về hưởng thụ do sự không ngang nhau về phẩm chất và năng lực trong lao
động là một trong những yếu tố của công bằng xã hội.
Có thể nói công bằng là một khái niệm thuộc phạm trù nhân quyền - một quyền cơ
bản nhất đối với mọi công dân ở bất kì quốc gia nào. Muốn công bằng thì mọi vấn đề
phải được thực thi theo đúng lẽ phải, đúng pháp luật, không ưu tiên thiên vị cá nhân
nào. Sở dĩ người ta coi công bằng là rường cột của một thể chế văn minh pháp quyền
vì từ đây mọi hoạt động xã hội mới có cơ hội duy trì theo kỷ cương, nền nếp, quy củ.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tất cả các nguyên tắc, là yêu cầu quan trọng
trong việc xây dựng luật mà đặc biệt là luật thuế. Công bằng nói ở đây không có nghĩa
là mọi người phải nộp một số thuế giống nhau mà là công bằng hợp lý, công bằng xã
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

11


SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
hội. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế thể hiện ở hai nguyên tắc, đó là
công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc:
Công bằng theo chiều ngang là mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp
thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử thuế như
nhau. Điều này thể hiện ở chỗ, nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác
nhau nhưng cùng loại phải được đối xử về thuế tương xứng, các đối tượng có điều
kiện như nhau phải nộp loại thuế giống nhau, những đối tượng được khuyến khích, ưu
đãi khi có đủ điều kiện họ cũng được đối xử ưu đãi tương ứng.
Công bằng theo chiều dọc là người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp
thuế cao hơn những người khác, đó là sự đối xử về thuế khác nhau đối với các đối
tượng có tình trạng và khả năng đóng thuế khác nhau.
Xét ở khía cạnh khác, công bằng trong thuế là yêu cầu Nhà nước đáp ứng một tỉ lệ
tương ứng các dịch vụ, hàng hóa công cộng của Nhà nước mà người nộp thuế nhận
được sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế. Xét ở khía cạnh lý luận, quan điểm này rất hợp
lý, thể hiện quan điểm nhân văn cũng như dân chủ của chính sách thuế, tránh được
tình trạng tận thu thuế cũng như đòi hỏi Nhà nước phải chú ý đến việc cung cấp các lợi
ích công cộng tương ứng với sự đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế có
một số khó khăn khi vận dụng quan điểm này. Xuất phát từ sự hoàn trả không trực tiếp
của thuế, rất khó cân đo đong đếm sao cho một người nhận được những lợi ích công
cộng tương đương với đóng góp của họ hay không, ở những trường hợp mà mục tiêu
của thuế là điều tiết thu nhập, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo
thì việc xác định là rất khó.
Như vậy, công bằng trong pháp luật thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau6:
- Công bằng nhưng không có nghĩa là cào bằng, tức là nội dung quy định pháp luật
thuế phải căn cứ vào thu nhập, căn cứ và sự hưởng lợi của người dân lên đối tượng

chịu thuế để có mức thu thuế phù hợp;
- Công bằng trong thuế cần phải đảm bảo mức điều tiết từ thuế là hợp lý dựa trên
khả năng chi trả của các đối tượng nộp thuế có tính đến các yếu tố chi phí và điều kiện
sống;
- Công bằng không chỉ được thể hiện ở nội dung quy định của pháp luật thuế mà còn
thể hiện trong quá trình áp dụng và thi hành. Nếu công bằng chỉ dừng lại ở các quy
định của pháp luật thì tính công bằng lúc này chỉ là công bằng hình thức, tô điểm cho

6

Vận dụng nguyên tắc công bằng trong ban hành thuế thu nhập cá nhân – Nguyễn Thị Thủy, Phan
Phương Nam, Nghiên cứu lập pháp số 2 (93) T2/2007

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

12

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
những ý tưởng cao đẹp, những nguyện vọng, những mục tiêu xa vời của pháp luật.
Điều này có thể tạo nên một mối nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của pháp luật
và có thể làm cho tính pháp chế của Nhà nước sẽ bị phá vỡ nghiêm trọng. Cho nên khi
và chỉ khi sự công bằng được thể hiện cả trong công tác thu, nộp thuế và hành thu thuế
trên thực tế thì mới có thể đáp ứng yêu cầu công bằng trong pháp luật thuế.
Tóm lại, công bằng trong thuế là một đòi hỏi khách quan, tuy nhiên cũng không thể
yêu cầu công bằng một cách tuyệt đối mà chỉ có thể dựa trên những nguyên tắc mang
tính định hướng để luật thuế đạt đến một mức độ công bằng cao nhất có thể được.
1.6 Các yếu tố cơ bản cấu thành luật Thuế thu nhập cá nhân

Để bao trùm mọi mặt của hoạt động kinh tế xã hội, mỗi quốc gia xây dựng cho mình
một hệ thống thuế gồm nhiều loại thuế. Tuy nhiên các loại thuế có nhiều đến đâu đi
chăng nữa thì cũng được cấu thành từ các yếu tố căn bản giống nhau. Bởi khi bất kỳ
một luật thuế nào ra đời, trước tiên Nhà nước cần xác định: Luật thuế này đánh vào cái
gì? Ai là người phải nộp số thuế đó vào ngân sách Nhà nước? Mức thuế phải nộp là
bao nhiêu? Có loại trừ trong trường hợp nào không? Và khi người nộp thuế rơi vào
một số trường hợp đặc biệt không thể thực hiện nghĩa vụ thuế thì hướng giải quyết ra
sao?
Thuế thu nhập cá nhân cũng là một loại thuế, qua tên gọi của nó đã bao hàm nội
dung, phạm vi và mục đích điều chỉnh tuy nhiên muốn luật thuế được thực thi thì cần
phải cụ thể hơn thông qua việc trả lời các câu hỏi trên - những yếu tố cơ bản trong luật
thuế:
1.6.1. Đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là người trực tiếp chuyển thuế vào kho bạc
Nhà nước từ các thu nhập mà cá nhân đó có được ghi trong luật phải chịu thuế. Do tồn
tại cơ chế chuyển gánh nặng thuế nên trong luật thuế thường gặp hai thuật ngữ “người
nộp thuế” và “người chịu thuế”, tuy nhiên hầu hết các luật thuế đều xác định rất rõ
người nộp thuế mà thường không thể hiện người chịu thuế bởi một điều “tế nhị” người chịu thuế chính là người chịu gánh nặng của thuế, trực tiếp thấy sự “mất mát”
trong thu nhập của mình, trong thuế gián thu hai đối tượng này thường được thấy một
cách rõ ràng. Còn đối với Thuế thu nhập cá nhân, một loại thuế trực thu, người nộp
thuế cũng chính là người chịu thuế nên cảm nhận rõ gánh nặng thuế. Vì vậy việc xác
định đối tượng nộp thuế sao cho có thể kiểm soát tất cả các thu nhập có thể phát sinh
và người nộp thuế không thể tránh thuế.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

13

SVTH: Trần Thị Bích Trương



Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Mặt khác đối tượng nộp thuế còn phải được xác định là đối tượng cư trú theo quy
định của pháp luật vì vậy cần có tiêu chí để phân biệt đâu là cá nhân cư trú, đâu là cá
nhân không cư trú
1.6.2 Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế trong một luật thuế là cơ sở để chỉ rõ luật thuế đó đánh vào cái
gì, và cái đó là duy nhất. Từ tên gọi Thuế thu nhập cá nhân ta có thể hiểu đây là loại
thuế nhằm vào thu nhập mà cá nhân có được, do đó xác định đúng thu nhập chịu thuế
là cơ sở quan trọng để tính thuế chính xác, như đã phân tích ở mục 1.5.1 Nhà nước chỉ
có thể đánh thuế khi thu nhập vượt qua một ngưỡng nhất định, như vậy thu nhập chịu
thuế của đối tượng nộp thuế trong kỳ tính thuế là tổng thu nhập trừ đi các khoản chi
phí sử dụng để tạo ra thu nhập. Tuy nhiên mỗi nguồn thu nhập lại có những đặc thù
riêng về cách thức nhận thu nhập và chi phí được sử dụng để tạo ra thu nhập, vì vậy
việc xác định nguồn gốc của thu nhập là điều rất quan trọng do sự đa dạng của nó: thu
nhập từ lao động, thu nhập từ tài sản, từ đầu tư vốn, từ quà tặng... từ đó mà xác định
khoản chi phí nào được khấu trừ hoặc không được khấu trừ.
1.6.3 Cơ sở để tính thuế
Cơ sở để tính thuế trong thuế thu nhập cá nhân thực chất là một phần trong đối
tượng chịu thuế, bởi lẽ không phải một cá nhân có phát sinh bất kì một thu nhập nào
cũng phải nộp thuế trên tất cả khoản thu nhập đó vì còn tồn tại mức tối thiểu không
phải nộp thuế, được miễn giảm thuế. Hay nói cách khác cơ sở tính thuế hẹp hơn rất
nhiều so với đối tượng chịu thuế. Vì vậy khi xây dựng một luật thuế, sau khi xác định
xong thuế đánh vào cái gì (đối tượng chịu thuế) thì phải tiếp tục xác định thu như thế
nào (cơ sở để tính thuế).
1.6.4 Thuế suất, biểu thuế
Mức thuế, thuế suất là yếu tố quan trọng nhất của một sắc thuế, có thể nói, đó là
“linh hồn” của một sắc thuế, phản ánh yêu cầu và mức độ động viên của Nhà nước
trên một cơ sở tính thuế, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế.
Vì vậy khi xác định thuế suất trong luật thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi trọng
lợi ích của quốc gia vừa chú ý thích đáng đến lợi ích của người nộp thuế .

Căn cứ vào mục tiêu, vai trò của từng loại thuế mà áp dụng các phương thức đánh
thuế khác nhau tương ứng với nhiều mức nộp thuế khác nhau, thuế thu nhập cá nhân
áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần. Và biểu thuế lũy tiến từng phần là biểu thuế
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

14

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
trong đó các mức thuế được quy định tăng lên theo từng phần thu nhập tăng thêm do
đó biểu thuế suất lũy tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng vì không có sự
chênh lệch quá nhiều về số tiền thuế phải nộp giữa các mức thu nhập, muốn vậy khi
xây dựng biểu thuế cần phải đảm bảo:
- Mức thuế suất không quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao động, tiết kiệm và đầu
tư. Mặt khác thuế suất cao gây cảm giác nặng nề của gánh nặng thuế, đối tượng nộp
thuế sẽ tìm mọi cách để trốn thuế, tránh thuế...
- Khoảng cách giữa các mức thuế trong biểu thuế không quá chênh lệch nhau đảm
bảo điều tiết thu nhập một cách hợp lý;
- Xây dựng mức thuế suất ưu đãi linh hoạt đối với một số khoảng thu nhập nhất định
phù hợp với các mục tiêu, yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Nói tóm lại, việc thiết kế một biểu thuế nói chung hay biểu thuế thu nhập nói
riêng không chỉ mang yếu tố kỹ thuật đơn thuần là tính toán sao cho thu được thuế
nhiều nhất và tiết kiệm chi phí nhất, mà chứa đựng những nội dung kinh tế, xã hội nhất
định, đồng thời phản ánh thái độ của Nhà nước trong điều tiết và quản lý thu nhập.
1.6.5 Miễn, giảm thuế
Miễn, giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế, theo đó,
quy định cụ thể các trường hợp, đối tượng nộp thuế được phép miễn thuế hoặc giảm
bớt nghĩa vụ thuế so với thông thường (vì một số lý do khách quan bất khả kháng như

thiên tai, địch họa hoặc tai nạn bất ngờ, hoặc vì một số lý do nhằm thực hiện chính
sách xã hội của Nhà nước...). Do đó khi áp dụng chính sách miễn giảm thuế đồng
nghĩa với giảm số thu vào ngân sách Nhà nước, đồng thời đó là những ngoại lệ trong
công tác quản lý thuế. Xét về phương diện pháp lý thì miễn giảm thuế có thể ảnh
hưởng đến sự công bằng giữa các chủ thể thực hiện nghĩa vụ thuế, tuy nhiên xét về
phương diện kinh tế thì miễn, giảm thuế thể hiện sự công bằng theo chiều dọc như đã
phân tích ở trên việc thiết kế thuế suất trong biểu thuế bị chi phối bởi các yếu tố kinh
tế, xã hội.
Khi thực hiện chế độ miễn, giảm thuế không đồng nghĩa với giảm nhẹ tính cưỡng
chế của thuế mà ngược lại nó cho thấy rõ tính linh hoạt của Nhà nước khi dùng thuế.
Chính ở đây, chính sách dùng thuế như một công cụ kích thích sự vận hành của nền
kinh tế, điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã hội theo các định hướng của Nhà nước,
được thể hiện tập trung và rõ nét.
Như vậy, muốn đánh giá luật thuế thu nhập cá nhân không còn cách nào khác là
phải xem xét từng phần cấu tạo nên nó. Chính từ những bộ phận này sẽ phản ánh mục
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

15

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
tiêu, chủ trương của Nhà nước cũng như khả năng đi vào thực tế của một văn bản
luật. Một luật thuế sẽ được nhân ủng hộ khi nó đảm bảo được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản mà trong đó nguyên tắc công bằng giữ tính chủ đạo. Và vấn đề này
sẽ được làm rõ trong chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, việc cắt giảm dần các khoản thuế nhập
khẩu để thực hiện cam kết quốc tế đã gây ảnh hưởng không nhỏ cho nguồn thu của
ngân sách Nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân ra đời không chỉ đáp ứng yêu cầu tăng
cường các khoản thu từ thuế khác để bù đắp cho khoản giảm đó mà còn phù hợp với
xu hướng chung của thế giới. Việc thực hiện nghĩa vụ thuế của công dân đối với Nhà
nước là một nghĩa vụ hiến định, tại điều 80 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: Công dân
có nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật. Đây là điều khoản thể hiện sự
cưỡng chế của Nhà nước buộc các cá nhân thực hiện nghĩa vụ và nghĩa vụ này phải
tuân theo các văn bản pháp luật về thuế. Do đó để tránh việc đánh thuế trở thành gánh
nặng đối với người dân thì luật thuế khi được ban hành phải hợp lý, trong đó yếu tố
công bằng phải được ưu tiên hàng đầu. Quán triệt nguyên tắc công bằng trong luật
thuế nói chung hay luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng là sự phù hợp với thông lệ
quốc tế và phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng. Theo thông lệ quốc tế thì
việc ban hành luật thuế thu nhập cá nhân phải theo nguyên tắc đóng thuế theo khả
năng, tức là người có thu nhập nhiều phải nộp nhiều, người có thu nhập ít thì nộp ít và
có tính đến điều kiện sống của từng chủ thể nộp thuế. Bên cạnh việc xác định nghĩa vụ
của người nộp thuế, Nhà nước có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ công cộng cho
toàn xã hội mà trong đó người nộp thuế được hưởng (nhưng không phải là đối giá), có
nghĩa là người dân thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, song song đó họ phải được hưởng
những dịch vụ công cộng mà Nhà nước đem lại. Một cách khái quát thì nguyên tắc
công bằng trong pháp luật thuế là các định hướng về việc xác định những nội dung,
yêu cầu trong các quy định của pháp luật thuế nhằm đảm bảo việc thu thuế là hợp lý
dựa trên khả năng chi trả của đối tượng nộp thuế, trên cơ sở có xem xét, cân nhắc đến
các yếu tố hoàn cảnh, điều kiện sống nhằm bảo đảm những người có thu nhập khác
nhau sẽ có nghĩa vụ nộp thuế khác nhau, người có thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế
cao hơn và những người có điều kiện, hoàn cảnh như nhau có thu nhập ngang nhau sẽ
phải nộp thuế như nhau.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

16


SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Do đó để đánh giá một luật thuế có công bằng hay không không thể nói chung
chung mà phải xem xét từng điều khoản cụ thể được quy định trong luật, trong khuôn
khổ nghiên cứu của mình người viết chỉ phân tích những vấn đề mà theo người viết
chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng hoặc vì lý do nào đó mà nguyên tắc công bằng
không thể được vận dụng một cách triệt để cũng như lý giải để làm sáng tỏ một số vấn
đề có thể ảnh hưởng đến tính công bằng của luật thuế từ đó đưa ra những giải pháp
góp phần tăng cường tính công bằng của luật thuế thu nhập quan trọng này.
2.1. Trong việc xác định đối tượng nộp thuế
Một trong những mục đích của việc Nhà nước ban hành và áp dụng luật Thuế thu
nhập cá nhân là nhằm khắc phục những bất cập từ thực tiễn thi hành Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam, trong số những bất cập đó là việc
xác định đối tượng nộp thuế. Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao thì xác định đối tượng nộp thuế dựa trên hai tiêu chí là quốc tịch và nơi cư trú.
Trong đó, có sự phân biệt người nộp thuế là người Việt Nam với nhau, giữa người
Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau. Như vậy, tiêu chí
quốc tịch được áp dụng với người Việt Nam, còn tiêu chí “cư trú” áp dụng đối với
người nước ngoài. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao áp dụng
biểu thuế lũy tiến từng phần cho công dân Việt Nam có mức khởi điểm chịu thuế suất
dương thấp hơn, đồng thời độ dốc lũy tiến cao hơn so với người nước ngoài. Điều đó
có nghĩa cùng một mức thu nhập công dân Việt Nam nộp thuế nhiều hơn người nước
ngoài. Quy định này từng được lý giải là nhằm khuyến khích người nước ngoài đến
làm việc tại Việt Nam để mang theo kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật tiên tiến... Tuy
nhiên lý do đó không đủ thuyết phục và không thể làm nhòa đi sự bất công trong nghĩa
vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, đồng thời cho thấy Nhà nước đã vô tình làm thay
hoặc làm mất đi khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc thu hút mọi nguồn

lực cho sự phát triển. Bên cạnh đó cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, Việt
Nam chính thức xóa bỏ chế độ "hai giá" để phân biệt mức chi tiêu của người Việt Nam
và người nước ngoài. Mặt khác, theo thông lệ quốc tế việc xác định đối tượng nộp thuế
dựa trên đối tượng cư trú và không cư trú, người có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập bao
gồm cá nhân không phân biệt quốc tịch, ngành nghề kinh doanh, nguồn phát sinh thu
nhập, người làm công ăn lương, người hành nghề độc lập, cá nhân có thu nhập từ bản
quyền, thu nhập từ tài sản cho thuê, đầu tư vốn. Xuất phát từ những lý do trên nên thuế
thu nhập cá nhân được Quốc hội khóa 12 kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11
năm 2007 quy định như sau:
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

17

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
1. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế
quy định tại Điều 3 của luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá
nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tai Điều 3 của luật này phát sinh
trong lãnh thổ Việt Nam.
2. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
a. Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong một năm dương lịch hoặc tính
theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;
b. Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú
hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
3. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2
điều này.7
Như vậy, đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định của Luật thuế thu
nhập cá nhân gồm cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Tình trạng cư trú của cá

nhân có ảnh hưởng lớn đến việc xác định nghĩa vụ thuế phải nộp của mỗi cá nhân cả
về phạm vi thu nhập chịu thuế và mức thuế suất cụ thể trong biểu thuế đối với toàn bộ
thu nhập trong kỳ tính thuế. Vấn đề đặt ra là việc phân biệt cá nhân cư trú và cá nhân
không cư trú dẫn đến việc đối xử khác nhau về thuế có ảnh hưởng đến nguyên tắc
công bằng không khi mà đều là thu nhập, cụ thể là:
- Những người được xác định là đối tượng cư trú của Việt Nam sẽ phải nộp số thuế
đối với thu nhập toàn cầu, nghĩa là họ phải tính thuế trên thu nhập nhận được có nguồn
gốc tại Việt Nam và thu nhập nhận được ngoài Việt Nam. Ví dụ, một người Singapo
làm việc có thu nhập tại Việt Nam trong năm tính thuế được xác định là cá nhân cư trú
tại Việt Nam và trong cùng thời gian này người đó có ngôi nhà riêng tại Singapo đang
được sử dụng để cho thuê thì ông ta phải tính thuế theo biểu thuế lũy tiến tại Việt Nam
đối với nguồn thu nhập cho thuê nhà tại Singapo (có tính đến giảm trừ gia cảnh).
Đương nhiên Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa Việt Nam và Singapo sẽ được áp
dụng để xem xét giảm bớt một phần số thuế phải nộp tại Việt Nam vì khoản thu nhập
cho thuê nhà của ông ta đã nộp thuế tại nước Singapo theo luật của nước này.
- Đối với những người được xác định là cá nhân không cư trú tại Việt Nam thì chỉ
phải tính nộp thuế theo luật thuế của Việt Nam đối với khoản thu nhập có được do làm
việc tại Việt Nam.
Để lý giải vấn đề trên cần xem xét các khía cạnh sau: thứ nhất, việc xác định đối
tượng nộp thuế theo tiêu chí cư trú bảo đảm mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều
7

Điều 10, khoản 4 Luật thuế thu nhập cá nhân

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

18

SVTH: Trần Thị Bích Trương



Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử
thuế như nhau vì dù là người Việt Nam hay người nước ngoài thì suy cho cùng số thuế
mà họ nộp cũng xuất phát từ thu nhập do lao động, do đó nếu xét trên một địa bàn cư
trú, điều kiện lao động, sinh sống như nhau thì thu nhập của người Việt Nam hay
người nước ngoài không chênh lệch nhau, vì vậy nếu đánh thuế khác nhau giữa hai đối
tượng này sẽ tạo nên sự bất công cho người nộp thuế; thứ hai, nếu một người được xác
định là cá nhân không cư trú thì thu nhập chịu thuế của họ không được giảm trừ bất kỳ
khoản nào khi tính thuế và được áp dụng một mức thuế suất nhất định tùy vào từng
loại thu nhập dẫn đến cùng một mức thu nhập nhưng người được xác định là cá nhân
không cư trú có thể nộp thuế nhiều hơn cá nhân cư trú, bởi lẽ bất luận thu nhập được
tạo ra bởi công dân mang quốc tịch nào, hễ phát sinh trong lãnh thổ của quốc gia nhất
định thì cũng đã được cung cấp sự bảo hộ, đảm bảo về tiện ích công cộng của nước
chủ nhà. Đó là cơ sở để buộc một cá nhân không cư trú phải nộp thuế khi thu nhập đó
phát sinh ở Việt Nam, tuy nhiên cá nhân này không được xem xét để giảm trừ gia cảnh
như cá nhân cư trú bởi thời gian có mặt của họ ở Việt Nam không đủ dài để ràng buộc
Nhà nước đảm bảo cũng như chăm lo đến hoàn cảnh cá nhân thông qua việc giảm trừ
gia cảnh trước khi tính thuế.
Như đã nói ở trên, tình trạng cư trú của cá nhân có ảnh hưởng lớn đến nghĩa vụ thuế
cho nên việc xác định thế nào là cá nhân cư trú là rất quan trọng. Theo mục I phần A
thông tư của Bộ tài chính số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành nghị định số
100/2009/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật thuế thu nhập cá nhân thì việc xác định tình trạng cư trú của cá nhân dựa vào một
trong hai tiêu chí, đó là:
- Hiện diện tại Việt Nam 183 ngày trở lên trong năm tính thuế, hoặc;
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, trong đó người nước ngoài có nhà thuê để ở
tại Việt Nam trong thời hạn 90 ngày trở lên trong năm tính thuế.
Vấn đề phát sinh ở chỗ tiêu chí "nơi ở thường xuyên" của người nước ngoài bao

gồm các trường hợp: thuê nhà ở nhiều nơi, cá nhân ở khách sạn, tại nhà khách, nhà
nghỉ, nhà trọ, ở tại nơi làm việc, ở tại trụ sở cơ quan... không phân biệt cá nhân tự thuê
hay người lao động thuê hoặc bố trí cho cá nhân người lao động. Theo logic của vấn
đề có thể nói việc xác định cá nhân nước ngoài có phải là cá nhân cư trú hay không
suy cho cùng chỉ căn cứ vào một tiêu chí duy nhất là 90 ngày, lý do là vì bất cứ ai
cũng sẽ có "nhà ở" như trên.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

19

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
Quan sát ở một khía cạnh khác, trong thực tế do đòi hỏi của công việc buộc cá nhân
phải có mặt thường xuyên 24/24 để túc trực và đảm bảo các hoạt động được liên tục,
việc nghỉ ngơi sau giờ trực diễn ra tại nơi làm việc như công nhân kỹ thuật viên hoạt
động trên giàn khoan dầu khí hoặc tàu biển ngoài khơi... Với những đối tượng này cơ
quan sử dụng lao động không thể bố trí được khách sạn, nhà nghỉ hay bất cứ nơi nào
để họ nghỉ ngơi sau giờ làm việc và thay đổi luân phiên theo ca. Những đối tượng này
nếu có tổng số thời gian từ 90 ngày trở lên ở tại nơi làm việc, khi đó căn cứ vào câu
chữ của Thông tư 84 thì được xác định là cá nhân cư trú dẫn đến tình trạng không
công bằng đối với những đối tượng này bởi khi đối chiếu với luật nhà ở ngày
29/11/2005 thì nhà ở là "công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân" càng không công bằng hơn so với những nhân
viên khác được cơ quan thu xếp cho ở khách sạn, biệt thự hoặc ở những nơi thuận tiện
hơn.
Như vậy việc quy định đối tượng nộp thuế theo tiêu chí cư trú làm cho người Việt
Nam và người nước ngoài cùng được điều chỉnh trong một biểu thuế nếu đáp ứng đủ

điều kiện luật định. Một mặt cho thấy chế độ đãi ngộ công dân, thực hiện nguyên tắc
công bằng khi xây dựng luật thuế của Nhà nước Việt Nam, tạo cho cá nhân không phải
là người Việt Nam nhận thấy mình không bị “phân biệt, đối xử” về thuế khi đến Việt
Nam đầu tư, hợp tác. Mặt khác việc quy định tiêu chí để xác định đối tượng là cá nhân
cư trú vẫn còn một số bất cập có thể dẫn đến mất công bằng như đã phân tích ở trên.
Do đó theo người viết, đối với những đối tượng có công việc đặc thù buộc phải ở lại
ngay nơi làm việc chỉ nên áp dụng tiêu chí 183 ngày để xác định có phải là cá nhân cư
trú hay không, như vậy sẽ phù hợp với quy định của Luật nhà ở 2005. Bên cạnh đó
cũng sẽ dễ dàng hơn trong công tác quản lý thuế đối với các đối tượng này so với quy
định hiện tại, bởi nếu theo tiêu chí 90 ngày thì thực tế những đối tượng này do yêu cầu
tính chất của công việc sẽ không ổn định khi ở Việt Nam nên việc đăng ký thuế, cấp
mã số thuế, đăng ký kê khai, hồ sơ người phụ thuộc, giảm trừ gia cảnh... rất khó để xác
định đúng.
2.2. Trong việc xác định thu nhập chịu thuế
Có thể hiểu thu nhập là số của cải thu được của một cá nhân trong khoảng thời gian
nhất định. Trong nền kinh tế thị trường thì thu nhập của cá nhân rất đa dạng, có thể
đến từ nhiều nguồn khác nhau, tùy theo tiêu chí phân chia mà có thể có các loại thu
nhập như: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên; thu nhập thực tế
phát sinh và thu nhập tiềm năng; thu nhập phát sinh ở trong nước và thu nhập phát sinh

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

20

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
ở nước ngoài; thu nhập hợp pháp và thu nhập bất hợp pháp... Theo đó, pháp lệnh về
thuế thu nhập cao đã chia thu nhập chịu thuế của cá nhân thành hai loại là thu nhập

thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để áp dụng biểu thuế và mức thuế suất
với hai loại thu nhập là khác nhau. Đối với thu nhập thường xuyên được tạm nộp hàng
tháng và được quyết toán vào cuối năm, trong khi đó đối với thu nhập không thường
xuyên phải nộp ngay khi nhận thu nhập cuối năm không nhận quyết toán. Dẫn đến sự
mất công bằng trong điều tiết thu nhập dễ gây ra hiện tượng trốn thuế. Để khắc phục
tình trạng đó cũng như cùng với quá trình phát triển kinh tế toàn cầu làm cho số lượng
người đầu tư vào thị trường tăng lên đặt ra vấn đề kiểm soát thu nhập đối với tất cả
nguồn thu, thông qua việc mở rộng diện điều chỉnh, áp dụng hầu hết đối với cá nhân
có thu nhập, không phân biệt cá nhân kinh doanh hay không kinh doanh, cá nhân là
người nước ngoài hay công dân Việt Nam mà theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX và
X đã xác định "Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối
tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển" và "Hoàn thiện
hệ thống thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính
sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp
lý thu nhập". Cần xác định, Thuế thu nhập cá nhân không phải là thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao cho nên hễ cá nhân có thu nhập là phải chịu thuế thu nhập cá
nhân, dĩ nhiên thu nhập tính thuế là sau khi trừ đi các khoản thiết yếu để tạo ra thu
nhập đó như: chi phí sinh hoạt bình quân của người nộp thuế; chi phí nuôi dưỡng
người phụ thuộc; chi phí tạo ra thu nhập (tiền đầu tư vốn, chi phí kinh doanh); chi phí
phục hồi sức lao động hoặc bồi thường (tiền khám chữa bệnh không do bảo hiểm chi
trả, tiền bồi thường thiệt hại... đồng nghĩa với việc người có thu nhập thấp cũng có thể
phải nộp thuế, đây không phải là tận thu mà là mở rộng và tạo nguồn cho ngân sách
Nhà nước, bởi để tồn tại và hoạt động, nhà nước cần phải chi tiêu, chi cho: duy trì
quân đội để bảo vệ đất nước; duy trì công an để bảo vệ trật tự trị an; duy trì bộ máy
nhà nước để cung cấp các dịch vụ khác cho công chúng, rồi giáo dục, y tế, đầu tư cơ
sở hạ tầng, chi trả gốc và lãi vay... Nói cách khác, nhà nước cung cấp các dịch vụ thiết
yếu cho đời sống, mà chúng ta vẫn coi là nghiễm nhiên và chỉ khi thiếu chúng thì mới
thấy hết tầm quan trọng (như khi có cướp bóc, rối loạn, bất ổn xã hội,...). Tiền cho các
khoản chi đó được lấy ra từ đâu? Những khoản thu chính của nhà nước có thể phân
thành các loại sau: các khoản thuế và có tính chất thuế; thu từ bán tài sản nhà nước

(bán nhà công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, và nhiều nhất hiện nay là bán tài
nguyên thiên nhiên); vay trong và ngoài nước. Tài nguyên bán mãi rồi cũng hết. Vay

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

21

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
thì thế hệ sau phải trả. Nợ nước ngoài của ta hiện nay khoảng 18 tỉ USD, cộng với nợ
trong nước thì khoản nợ cũng không phải nhỏ và nhiều món đã bắt đầu phải trả gốc.
Nói như thế để thấy về lâu dài nguồn thu chính của ngân sách là từ các khoản thuế của
nhân dân và các doanh nghiệp. Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế quan trọng. Có
thể nói Nhà nước là người cung cấp dịch vụ, người dân, các doanh nghiệp là những
người hưởng dịch vụ, và thuế là cách họ “trả tiền” cho các dịch vụ đó, trình bày như
thế để thấy nghĩa vụ đóng thuế và việc mở rộng đối tượng chịu thuế trong thuế thu
nhập cá nhân có cái lí của nó. Mặt khác bản chất của thuế thu nhập cá nhân là một loại
thuế trực thu đánh vào thu nhập của cá nhân phát sinh từng lần hoặc trong khoảng thời
gian nhất định từ một nguồn thu xác định. Vấn đề đặt ra trong luật thuế thu nhập cá
nhân là xác định khoản thu nhập chịu thuế để đảm bảo lợi ích của Nhà nước và người
nộp thuế, đảm bảo công bằng giữa các cá nhân nộp thuế.
Về nguyên tắc công bằng trong luật thuế thu nhập cá nhân thì bất cứ cá nhân cư trú
có thu nhập phát sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có
thu nhập phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam đều phải tính đó là khoản thu nhập chịu
thuế, nên đòi hỏi các quy định về thuế thu nhập cá nhân nêu được hết các nguồn thu
nhập thường xuyên hay không thường xuyên hợp pháp của cá nhân, vì vậy mà tại Điều
3 Luật thuế thu nhập cá nhân có quy định thu nhập chịu thuế bao gồm từ: kinh doanh;
tiền lương, tiền công; đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn; từ chuyển nhượng bất động

sản; thu nhập từ trúng thưởng; từ bản quyền; nhượng quyền thương mại; từ nhận thừa
kế là chứng khoán; phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh; bất động sản
và các tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng... Nhưng điều quan
trọng là để thu được thuế và tạo ra sự công bằng giữa các cá nhân nộp thuế thì Nhà
nước phải quản lý và kiểm soát được tất cả các thu nhập phát sinh của đối tượng nộp
thuế. Nếu khả năng kiểm soát các khoản thu nhập cá nhân của Nhà nước tốt thì việc
mở rộng các khoản thu nhập của cá nhân phải chịu thuế mà vẫn đảm bảo tính khả thi
của luật và nguyên tắc công bằng trong việc cá nhân thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Thế nhưng đối với nước ta khả năng kiểm soát thu nhập còn hạn chế, cá nhân
vẫn còn thói quen dùng tiền mặt thì để đảm bảo nguyên tắc công bằng và khả thi thì
nên quy định thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp thực tế đã
phát sinh và Nhà nước có thể kiểm soát được, cụ thể như:
2.2.1. Thu nhập từ kinh doanh
Theo khoản 1 Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân:
Thu nhập từ kinh doanh bao gồm:
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

22

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
a) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ;
b) Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Việc mở rộng các thu nhập chịu thuế góp phần tạo bình đẳng, công bằng trong nghĩa
vụ thuế giữa các cá nhân, nếu cùng là thu nhập do cá nhân tạo ra phải được đối xử như
nhau, bảo đảm nguyên tắc Thuế thu nhập doanh nghiệp điều tiết vào thu nhập của
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân điều tiết vào thu nhập của cá nhân không phân

biệt nguồn tạo ra thu nhập từ kinh doanh hay làm công ăn lương. Tuy nhiên theo Luật
doanh nghiệp 2005 quy định có đến bốn loại hình doanh nghiệp là: doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Như vậy,
các khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư vốn vào các loại hình doanh nghiệp
trên đây phải được đánh thuế như thế nào để đảm bảo công bằng, điều tiết chính xác
thu nhập của cá nhân vào Thuế thu nhập cá nhân? Để trả lời cho câu hỏi này thì cần
nhớ lại nguyên tắc xác định đối tượng nộp thuế, thuế thu nhập là thuế trực thu, đánh
trực tiếp trên thu nhập của tổ chức, cá nhân nên chủ thể nào có thu nhập thì chủ thể ấy
là đối tượng chịu thuế đồng thời là đối tượng nộp thuế hay nói cách khác doanh nghiệp
chịu thuế thu nhập doanh nghiệp thì chủ sở hữu của nó chỉ phải chịu thuế thu nhập cá
nhân khi chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp là những chủ thể độc lập nhau.
Về mặt pháp lý, doanh nghiệp được xem là độc lập khi có tư cách pháp nhân mà
theo quy định tại Điều 84 BLDS 2005 quy định bốn tiêu chí xác định tư cách pháp
nhân của một tổ chức, theo đó một tổ chức có tư cách pháp nhân nếu: thứ nhất, được
thành lập hợp pháp; thứ hai, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; thứ ba, có tài sản độc lập với
cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; thứ tư, nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Doanh nghiệp nếu thỏa mãn đồng
thời các dấu hiệu trên được coi là pháp nhân kinh doanh, tuy nhiên trong phần phân
tích về nghĩa vụ thuế của cá nhân này yếu tố quan trọng có vai trò quyết định đến tư
cách pháp nhân của một tổ chức là tổ chức đó phải có tài sản riêng và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Từ các lập luận trên đối chiếu với mô hình của bốn
danh nghiệp hiện nay ta thấy:
Thứ nhất, đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân. Hiểu theo luật doanh nghiệp
2005, đây là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp hay nói cách khác
chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ phát sinh trong mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Với nguyên tắc mỗi khoản thu nhập phát sinh chỉ chịu một lần

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


23

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
thuế thu nhập nên việc đưa chủ doanh nghiệp tư nhân vào đối tượng nộp loại thuế nào
là tùy thuộc vào chủ trương khuyến khích của Nhà nước. Nếu như Pháp lệnh về thu
nhập đối với người có thu nhập cao quy định thu nhập của cá nhân kinh doanh thuộc
diện điều chỉnh của Thuế thu nhập doanh nghiệp dẫn đến tình trạng cũng cùng là thu
nhập do cá nhân tạo ra nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm mà
nộp theo thuế suất 28% và không được chiết giảm trừ gia cảnh, trong khi đó thu nhập
từ tiền lương, tiền công trên mức khởi điểm 05 triệu đồng mỗi tháng mới nộp thuế và
áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần từ 0% đến 40% và có tính đến giảm trừ gia cảnh.
Quy định này dẫn đến hệ quả là cùng với một mức thu nhập 10 triệu đồng/ tháng, cá
nhân có thu nhập từ kinh doanh phải nộp thuế 28% trên tổng thu nhập tương đương
2,8 triệu đồng, cá nhân có thu nhập từ tiền lương nộp 0,5 triệu đồng tức 5% trên thu
nhập. Ngược lại cá nhân có mức thu nhập đến 100 triệu đồng/ tháng thì người có thu
nhập từ tiền lương nộp thuế 31,5% trên thu nhập, người có thu nhập từ kinh doanh chỉ
nộp 28% trên tổng thu nhập. Do đó nếu so sánh tương quan giữa các cá nhân thì thấy
rõ mâu thuẫn phát sinh đó là chính sách thuế đang điều tiết cao đối với người có thu
nhập thấp, điều tiết thấp đối với người có thu nhập cao. Chính những bất cập này mà
việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp Thuế thu nhập cá nhân, áp dụng thống nhất
biểu thuế lũy tiến từng phần, được giảm trừ gia cảnh, được trừ các khoản đóng góp từ
thiện, nhân đạo như cá nhân có thu nhập từ tiền công, tiền lương là hợp lý. Do đó, xét
về bản chất pháp lý thì áp dụng luật Thuế thu nhập cá nhân đối với những đối tượng
như chủ doanh nghiệp tư nhân mới công bằng giữa các đối tượng chịu thuế. Tuy nhiên
hiện nay chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp với lý do hiện nay hầu hết doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ,
vốn ít, là một loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, Quốc

hội đã biểu quyết tiếp tục áp dụng Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp tư nhân mà không chuyển sang thu thuế thu nhập cá nhân, thực hiện chủ trương
khuyến khích người dân trực tiếp đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, thành lập doanh
nghiệp mới. Nhưng điều này chưa hoàn toàn hợp lý bởi theo lý luận trên thì dù doanh
nghiệp tư nhân có quy mô lớn đến đâu đi chăng nữa thì cũng không thể nào thu được
thuế thu nhập cá nhân.
Thứ hai, đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Luật doanh
nghiệp 2005 quy định công ty trách nhiện hữu hạn một thành viên là do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn đã đưa vào kinh doanh, tức là có sự

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

24

SVTH: Trần Thị Bích Trương


Nguyên tắc công bằng trong Luật thuế thu nhập cá nhân
tách bạch về mặt tài sản của chủ sở hữu công ty với bản thân công ty. Trở lại với
nguyên tắc trực thu, chủ thể nào phát sinh thu nhập chịu thuế thì chủ thể đó trở thành
đối tượng nộp thuế thu nhập, do đó công ty phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và
chủ sở hữu của nó phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Luật Doanh nghiệp 2005 còn quy định hai loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó chủ
sở hữu doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của doanh nghiệp, đó
là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ phần. Theo đó
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, còn cổ đông công ty cổ phần chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Như vậy
dù có sự khác biệt về cách thức góp vốn và giới hạn trách nhiệm của thành viên (cổ

đông) công ty với các khoản nợ của công ty nhưng cả hai loại hình này chủ sở hữu
doanh nghiệp đều không phải trả nợ thay cho doanh nghiệp, tức là có sự tách bạch
giữa doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp. Do đó đối với hai loại hình này thì đồng thời
với việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thì chủ sở hữu công ty vẫn phải nộp thuế thu
nhập cá nhân bởi công ty và chủ sở hữu công ty là những chủ thể độc lập với nhau.
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của cổ đông công ty cổ phần là cổ tức nhận được
từ việc góp vốn cổ phần và đối với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn là phần lợi
tức nhận được trên vốn góp.
Ngoài ra còn loại hình doanh nghiệp nhiều chủ khác mà việc xác định thu nhập chịu
thuế khá phức tạp đó là công ty hợp danh. Theo quy định tại điều 130 Luật doanh
nghiệp 2005 thì công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có ít nhất hai cá nhân hợp
danh, ngoài ra có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, trong khi đó thành viên
góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty. Mặt khác có hai loại công ty hợp danh, một là công ty chỉ có thành viên hợp
danh; hai là công ty vừa có thành viên hợp danh vừa có thành viên góp vốn. Do đó
điểm đặc biệt ở công ty hợp danh loại hai cần phân tích về trách nhiệm thuế ở chỗ
công ty có hai loại thành viên với địa vị pháp lý hoàn toàn khác nhau. Thu nhập của
công ty cũng chính là thu nhập của các thành viên hợp danh, do vậy nếu công ty đã
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thì thành viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập
cá nhân để tránh tình trạng đánh thuế trùng mặt khác tạo công bằng cho đối tượng nộp
thuế. Trong khi đó thu nhập từ việc góp vốn vào công ty hợp danh của thành viên góp
vốn vẫn phải chịu thuế thu nhập cá nhân bởi họ và công ty có sự độc lập về tài sản.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

25

SVTH: Trần Thị Bích Trương



×