Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.29 KB, 12 trang )

Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nớc (CPH DNNN) ở Việt Nam
1.1 Những vấn đề chung về DNNN ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm DNNN
Theo Luật doanh nghiệp Nhà nớc năm 1995, DNNN là tổ chức kinh tế do
Nhà nớc đầu t vốn; thành lập và tổ chức quản lý; hoạt động kinh doanh hoặc công
ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nớc giao. DNNN có t
cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động kinh doanh. DNNN là bộ phận chủ yếu của khu vực kinh tế Nhà nớc _
một lực lợng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội của Nhà nớc . Nh vậy, DNNN phải thoả mãn 3 điều kiện : (1) vốn của doanh
nghiệp do Nhà nớc đầu t, (2) doanh nghiệp đợc thành lập bởi Nhà nớc, (3) doanh
nghiệp đợc trực tiếp quản lý bởi Nhà nớc. Trong 3 điều kiện trên, điều kiện (1) là
quan trọng nhất. Việc xác định DNNN không dựa vào quyền chi phối của Nhà n-
ớc đối với doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là những doanh nghiệp mà Nhà nớc
có quyền chi phối nhng không giữ 100% vốn không phải là DNNN. DNNN chịu
sự quản lý trực tiếp của Nhà nớc. Điều này có nghĩa là cơ chế quản lý trong
DNNN do pháp luật quy định. Ngời quản lý DNNN là ngời đại diện cho doanh
nghiệp, do chủ sở hữu là Nhà nớc cử ra. DNNN có t cách pháp nhân nên phải thực
hiện những nghĩa vụ tài sản và phi tài sản một cách đầy đủ với các chủ nợ, đối tác
của mình, ngay cả khi việc thực hiện những nghĩa vụ đó có thể chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp. DNNN không đợc phép viện lý do Nhà nớc không cấp vốn hay
không cho phép thực hiện (trừ những trờng hợp luật định) để từ chối thực hiện các
nghĩa vụ đã cam kết. Trách nhiệm của Nhà nớc chỉ giới hạn trong phạm vi phần
vốn mà Nhà nớc đã đầu t vào doanh nghiệp.
Khái niệm DNNN đợc phát triển tiếp trong Luật doanh nghiệp Nhà nớc
năm 2003. Theo điều 1 của Luật này, DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nớc sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, đợc tổ chức dới hình
thức công ty Nhà nớc, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn . Luật
DNNN năm 2003 có một điểm mới đặc biệt quan trọng, đó là : DNNN chỉ cần
thoả mãn một điều kiện là đợc chi phối bởi Nhà nớc. Theo quy định của Luật này,


quyền chi phối doanh nghiệp bao gồm các quyền : thông qua hay sửa đổi điều lệ
tổ chức và hoạt động; bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý chủ chốt; tổ
chức quản lý và hoạch định các chính sách quan trọng khác của doanh nghiệp.
Nh vậy, DNNN không nhất thiết chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nớc.
Những doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhng Nhà nớc giữ quyền chi phối thì
vẫn là DNNN. Một doanh nghiệp Nhà nớc giữ cổ phần chi phối có thể không còn
là DNNN nữa nếu trong quá trình tồn tại của doanh nghiệp, do sự vận động của cổ
phần giữa các cổ đông với nhau, Nhà nớc không còn giữ đủ số lợng cổ phần để
đảm bảo quyền chi phối.
1.1.2 Phân loại DNNN
Xét theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, các DNNN đợc chia thành
2 loại :
(1) DNNN hoạt động công ích sản xuất những hàng hoá đặc biệt trong các
lĩnh vực an ninh - quốc phòng, y tế cộng đồng Hiệu quả hoạt động của những
DNNN này là hiệu quả về mặt chính trị - xã hội. Những doanh nghiệp này dựa
vào sự bao cấp của Nhà nớc. Nhà nớc giao vốn và chi phối hoạt động của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất theo kế hoạch và đơn đặt hàng của Nhà nớc. Theo
số liệu của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW, năm 2004 cả nớc có 734
DNNN công ích, chiếm 13% tổng số DNNN, tổng vốn của các doanh nghiệp này
là 15.125 tỷ đồng.
(2) DNNN hoạt động kinh doanh tiến hành bất cứ công đoạn nào của quá
trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nhà nớc giao vốn ban
đầu cho doanh nghiệp; sau đó doanh nghiệp phải tự chủ sản xuất kinh doanh, bảo
tồn và phát triển vốn. Khả năng bảo toàn, phát triển vốn là thớc đo hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
và nếu hoạt động yếu kém thì phải giải thể hay phá sản.
Việc phân loại DNNN nh trên tạo điều kiện cho việc áp dụng những u đãi
dành riêng cho các DNNN hoạt động công ích và để các DNNN hoạt động kinh
doanh hoạt động cùng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
trong một môi trờng kinh doanh bình đẳng.

Xét theo mức độ chi phối của Nhà nớc đối với doanh nghiệp, các DNNN đ-
ợc chia thành 3 loại:
(1) doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nớc, đợc gọi là công ty Nhà nớc, hoạt
động theo Luật DNNN năm 2003
(2) công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn có 100% vốn Nhà n-
ớc
(3) công ty có cổ phần hoặc vốn góp chi phối của Nhà nớc.
1.1.3 Vai trò của DNNN
Các DNNN trực tiếp sản xuất, cung cấp các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu
trong các lĩnh vực : kết cấu hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, nớc, thông tin liên
lạc ..); giáo dục; y tế; an ninh - quốc phòng , là công cụ chủ yếu để Nhà nớc
tạo ra sức mạnh vật chất, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, giữ vững ổn định xã hội. Với
những lĩnh vực quan trọng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài, khó thu lợi
nhuận nh xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác khoáng sản, chế tạo vật liệu mới,
các thành phần kinh tế khác không muốn đầu t hoặc cha đủ khả năng đầu t,
DNNN phải có trách nhiệm đầu t trớc. DNNN hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển, thúc đẩy cả nền kinh tế phát triển.
Các DNNN đợc Đảng và Nhà nớc giao trọng trách lớn trong việc phát triển
nền kinh tế đất nớc, tuy nhiên các DNNN đã không thực hiện tốt vai trò này. Nhìn
chung, hệ thống DNNN hoạt động còn thiếu hiệu quả.
1.1.4 Tình trạng hoạt động kém hiệu quả của DNNN và nguyên nhân
Tại Việt Nam, DNNN phát triển mạnh trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung với t cách là thành phần kinh tế chủ đạo. DNNN đã góp phần quan trọng
trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nớc và xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH. Tuy nhiên, những yếu kém của DNNN đã bộc lộ rõ khi đất nớc chuyển
sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Các tiêu chuẩn do Bộ tài chính đa ra
năm 1999 đối với một DNNN hoạt động hiệu quả là : bảo toàn và phát triển vốn,
trích đủ khấu hao tài sản cố định, lơng bình quân không thấp hơn mức lơng bình
quân của các doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn, trả đầy đủ các khoản nợ
đến hạn, nộp đủ tiền sử dụng vốn, lập đủ các quỹ của doanh nghiệp nh : quỹ dự

phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ đầu t phát triển, quỹ khen thởng,
quỹ phúc lợi. Tuy nhiên, theo Báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài
sản DNNN tại thời điểm 0 h ngày 01/01/2000 của Ban đổi mới và phát triển
doanh nghiệp TW :
- Tổng giá trị tài sản của các DNNN theo sổ sách kế toán là 517.654 tỷ
đồng. Sau khi kiểm kê, định giá lại tài sản, tổng giá trị tài sản của các DNNN là
527.256 tỷ đồng.
- Tổng số nợ phải thu của các DNNN là 187.091 tỷ đồng, chiếm 35,5%
tổng giá trị tài sản (đã đợc đánh giá lại) của các DNNN.
- Tổng số nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn phải trả là
10.171 tỷ đồng, bằng 2,3 lần vốn Nhà nớc cấp.
- Hàng hoá tồn kho là 45.688 tỷ đồng, trong đó, hàng ứ đọng, mất phẩm
chất, không dùng đến là 1.600 tỷ đồng.
Theo số liệu trong Đề án Tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển DNNN
của Ban cán sự Đảng Chính phủ, tính đến tháng 5/2001 cả nớc có 5.655 DNNN
với tổng tài sản là 126.000 tỷ đồng (cha bao gồm giá trị quyền sử dụng đất). Theo
đó, chỉ có khoảng 40% các DNNN kinh doanh có hiệu quả. Năm 2000, đóng góp
của DNNN vào tổng thu ngân sách chỉ chiếm 39,2%. Tình trạng kém hiệu quả,
thua lỗ là phổ biến ở các DNNN.
Theo báo cáo của Bộ T i chính, trong năm 2003 , 77,2% số DNNN có lợi
nhuận, nhng chỉ có 40% số DNNN có mức lãi bằng hoặc thấp hơn lãi suất Ngân
hàng. Nếu tính đủ các yếu tố chi phí, tỷ lệ DNNN có lợi nhuận sẽ thấp hơn. Tỷ
suất lợi nhuận trên vốn bình quân của DNNN chỉ đạt 7,34%. Các DNNN nắm giữ
70% t i sản quốc gia, 50% vốn đầu t toàn xã hội, chiếm phần lớn nguồn tín dụng
từ các ngân h ng, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)... nh ng chỉ đóng góp đ-
ợc 38% GDP, trong khi đó các doanh nghiệp t nhân với tiềm lực kinh tế yếu hơn
đã đóng góp tới 42% GDP; tốc độ tăng trởng của các DNNN thấp hơn tốc độ tăng
trởng của các doanh nghiệp t nhân từ 7 đến 8%. Trong 3 năm 2001 - 2003, tốc độ
tăng trởng bình quân của các DNNN là 10%, của các doanh nghiệp t nhân là 18%.
Theo số liệu của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW, năm 2004,

tổng vốn của các DNNN khoảng 189.000 tỷ đồng, tuy nhiên số thuế thu nhập đã
nộp chỉ đạt 8.000 tỷ đồng. Tổng số nợ phải thu, phải trả lên đến 300.000 tỷ đồng,
gấp 1,6 lần vốn của tất cả các DNNN, trong đó số nợ xấu khoảng 18.000 tỷ đồng.
Chính phủ phải cứu các DNNN bằng các biện pháp tài chính nh khoanh nợ,
giãn nợ
Tại phiên họp ngày 14/4/2005 của UBTVQH về việc xây dựng Luật các
công cụ chuyển nhợng, ông Lê Đức Thuý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc đã trình
bày về tình trạng nợ khó đòi giữa các DNNN. Ông công bố số nợ giữa các DNNN
là 31.935 tỷ đồng, trong đó nợ phải thu là 21.218 tỷ đồng, nợ phải trả là 10.717 tỷ
đồng, nợ khó đòi trên 300 tỷ đồng. Nhiều khoản nợ giữa các DNNN không đợc
xác nhận bằng văn bản. Các doanh nghiệp khách nợ bị giải thể, phá sản dẫn đến
không có ngời kế thừa nghĩa vụ nợ. Các doanh nghiệp chủ nợ khó đòi đợc nợ vì
không có đủ tài liệu chứng minh.
Khả năng cạnh tranh của các tổng công ty trên thị trờng quốc tế còn thấp.
Điều này đợc thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu của các tổng công ty. Theo số liệu
của Bộ thơng mại năm năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu của 18 tổng công ty
91 là 3,45 tỷ USD, trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của 17 tổng công ty chỉ
đạt 230 triệu USD (33,22 tỷ USD còn lại là kim ngạch xuất khẩu của riêng Tổng
công ty dầu khí). DNNN gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh ngay trên thị trờng nội địa vì chất lợng sản phẩm của các
DNNN thấp, không ổn định, chỉ có 15% số sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu,
65% đạt mức độ trung bình để tiêu dùng nội địa, 20% số sản phẩm kém chất lợng.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng hoạt động kém hiệu quả ở các DNNN :
Thứ nhất, tình trạng cha chung không ai khóc trong các DNNN đã dẫn
tới sự lãng phí, tham nhũng ngày càng trở nên phổ biến. Giám đốc và cán bộ công
nhân viên trong DNNN thiếu ý thức tiết kiệm cho doanh nghiệp vì họ vẫn đợc h-

×