Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CẢI TIẾN KỸ THUẬT, QUẢN LÝ Ở ĐỐI TƯỢNG NGAO (MERETRIX SPP) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI HẢI PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 15 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 3/2013

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CẢI TIẾN KỸ THUẬT, QUẢN LÝ Ở
ĐỐI TƯỢNG NGAO (MERETRIX SPP) NI THƯƠNG PHẨM TẠI HẢI PHỊNG
STATUS AND PROPOSAL IMPROVED TECHNIQUES AND MANAGEMENT
FOR COMMERCIAL CLAM FARMING IN HAI PHONG
Nguyễn Hữu ng1, Đỗ Thị Hòa2
Ngày nhận bài: 26/11/2012; Ngày phản biện thơng qua: 28/02/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013

TĨM TẮT
Ni trồng thủy sản (NTTS) là một nghề truyền thống của nhân dân Hải Phòng đã và đang phát triển mạnh ở cả ba
vùng nước ngọt, lợ, mặn. Định hướng của ngành thủy sản Hải Phòng đến năm 2020 là xác định ni trồng thủy sản là lĩnh
vực có nhiều lợi thế phát triển, trong đó ưu tiên phát triển ni hải sản nước mặn khu vực ven đảo Cát Bà, Long Châu, Bạch
Long Vỹ... Quan tâm phát triển ni động vật thân mềm ven biển (ngao, vẹm, tu hài...), với diện tích 1.500 - 2.000ha, đặc
biệt triển nghề ni ngao. Hiện nay nghề ni ngao tại Hải Phòng vẫn mang tính tự phát, có nhiều rủi ro, khơng ít hộ ni
ngao đã bị thất thu do xuất hiện bệnh, làm chết hàng loạt ngao ni. Xuất phát từ thực tiễn trên, tơi thực hiện nghiên cứu
“Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng ngao ni thương phẩm (Meretrix spp) ni tại Hải Phòng”.
Đề tài sử dung bộ số liệu điều tra qua thống kê 5 năm (2005 - 2010) và điều tra ngẫu nhiên thơng qua bộ câu hỏi kết hợp
với thu mẫu ngao ni, đánh giá trực tiếp tại hiện trường.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện trạng nghề ni ngao tại Hải Phòng mới phát triển một hai năm gần đây. Bãi ni
ngao ni thường có diện tích nhỏ hơn 5ha/bãi, ni ở vùng trung hoặc hạ triều, có chất đáy chủ yếu là cát bùn. Kích cỡ
ngao giống các hộ thả ni chủ yếu thuộc nhóm từ 500 đến dưới 800 con/kg (chiếm tỷ lệ 40,62%), tiếp theo là cỡ từ 800
đến 1.200 con/kg (chiếm tỷ lệ 28,12%) và cỡ từ 400 đến dưới 500 con/kg (chiếm tỷ lệ 25%). Với tổng diện tích ni của
Hải Phòng có xu thế giảm dần từ 345 ha ni vào năm 2005, đến năm 2010 diện tích này chỉ còn 234 ha. Tuy nhiên, tổng
sản lượng thu được vào năm 2010 lại tăng rất cao, đạt 1.950 tấn so với 141 tấn năm 2005, sản lượng đã tăng 13,8 lần.
Từ khóa: ni trồng thủy sản, cải tiến kỹ thuật, ni ngao, Hải Phòng


ABSTRACT
Aquaculture was considered one of traditional job in Hai Phong city, now has been developing rapidly in fresh,
brackish and salt waters. Master plan in fishery approved by Hai Phong committee from now to 2020, aquaculture will be
priority field for development, especially in coastal areas around islands such as Cat Ba, Long Chau, Bach Long Vy. Of
which, bivalve culture (clams, mussel, otter clam...) is considered as the main commercial species. As the plan, the cultured
area for is estimated about 1.500 - 2.000ha with emphasis on clam culture. Clams is currently culturing spontaneously.
Therefore it has been faced to high risks. So many households lost their property due to mass death causing by environmental
and disease problems. Base on above problem, I studied the project “Status and proposal for technique improvements and
management for commercial clam culture in Hai Phong”. The study using statistical data collected in 5 yeas and random
survey method by questionnaire, random samples of cultured clams in the field also were collected.
The results show that clam culture is recently developing in Hai Phong. Cultured area is usually smaller than
5 ha/farm in the low or intertidal areas where having sand and sandy mud bottom. Clam sizes for rearing mainly from
500-800 individuals/kg (40,62%) following by 800-1.200 individuals/kg (28,12%) and 400-500 individuals/kg (25%). Total
culture area has a tendency of decreasing from 345 ha in 2005 to 234 ha in 2010. However, total production in 2010 was
1.950 tons, 13,8 times higher in comparison to the year 2005 (141 tons).
Keywords: aquaculture, improving techniques, clam culture, Hai Phong
1
2

Nguyễn Hữu ng: Cao học Ni trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
PGS.TS. Đỗ Thị Hòa: Viện Ni trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

84 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, nghề nuôi ngao bắt đầu có từ
những năm 90 của thế kỷ XX. Có nhiều loài thuộc
giống ngao Meretrix đã được nuôi phổ biến ở Việt

Nam, bao gồm các loài ngao dầu Meretrix meretrix,
ngao Bến Tre Meretrix lyrata, ngao vân Meretrix
lusoria... Tại Hải Phòng, nuôi động vật thân mềm đã
phát triển từ cuối năm 2000 với đối tượng nuôi chính
là ngao. Vùng nuôi chủ yếu tập trung tại các quận,
huyện như Cát Hải, Đồ Sơn, Tiên Lãng, Dương
Kinh và Kiến Thụy với tổng diện tích có thể nuôi là
2.185ha đã mang lại lợi nhuận cho nhiều nông dân
vùng ven biển. Tuy nhiên, đây là nghề sản xuất có
nhiều rủi ro, không ít hộ nuôi ngao đã bị thất thu do
dịch bệnh, làm ngao nuôi chết hàng loạt.
Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu
về hiện trạng kỹ thuật nuôi ngao ở Hải Phòng là
hết sức cần thiết và cấp bách. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu “Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ
thuật, quản lý ở đối tượng ngao nuôi thương phẩm
(Meretrix spp) nuôi tại Hải Phòng”, nhằm làm đầy đủ
thêm các nghiên cứu về cải tiến kỹ thuật nuôi, bệnh
và tác hại của bệnh đối với đối tượng ngao nuôi làm
cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo. Bên cạnh đó
kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế của nghề nuôi ngao tại Hải Phòng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về hiện trạng kỹ thuật ở đối tượng
ngao nuôi thương phẩm tại Hải Phòng.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Điều tra các số liệu thứ cấp
Điều tra thu thập tài liệu, số liệu thống kê nhiều
năm của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Hải Phòng, Cục Thống kê thành phố Hải Phòng,
Trung tâm khuyến ngư, với các thông tin: vùng nuôi
ngao, diện tích, năng suất, sản lượng ngao từ năm
2005 đến 2010, số hộ nuôi và phân bố của các hộ
nuôi trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
2.2. Điều tra các số liệu sơ cấp
2.2.1 Xây dựng bộ câu hỏi (lập phiếu điều tra)
Phỏng vấn những người trực tiếp và gián tiếp
thu thập thông tin tập trung vào vấn đề chính: Diện
tích bãi triều nuôi, chất đáy và công tác chuẩn bị cho
một vụ nuôi; Mùa vụ, đối tượng ngao nuôi; Cỡ ngao
giống và mật độ thả nuôi, công tác quản lý; Các dấu
hiệu chính bất thường ở ngao nuôi tại địa phương;
Mùa vụ, tác hại của bệnh gây chết ngao nuôi và sản
lượng nuôi (nếu có).

Số 3/2013
2.2.2 Phương pháp điều tra khảo sát hiện trạng
Phương pháp lựa chọn hộ điều tra ngẫu nhiên
thông qua bộ câu hỏi kết hợp với thu mẫu ngao
nuôi, đánh giá trực tiếp tại hiện trường (quan sát,
ghi chép, đo đếm thông số kỹ thuật) đại diện cho
toàn vùng điều tra.
2.3. Xử lý số liệu
Dùng phần mềm Excel để xử lý số liệu và xác
định các mối quan hệ giữa cỡ giống thả, mật độ
thả với năng suất, sản lượng ngao trên một đơn vị
diện tích nuôi, bệnh với môi trường, bệnh và kỹ
thuật nuôi.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

1. Diện tích, năng suất và sản lượng ngao nuôi
ở Hải Phòng
Bảng 1. Kết quả nuôi ngao ở bãi triều
Hải Phòng từ năm 2005 - 2009
Năm

Diện tích nuôi
ngao (ha)

Sản lượng ngao Năng suất trung
(tấn)
bình (tấn/ha)

2005

345

141

0,41

2006

160

160

1,00

2007


277

1.650

5,96

2008

297

1.705

5,74

2009

235

1.934

8,23

2010

234

1.950

8,33


(Nguồn: từ Cục thống kê Hải Phòng)

Trong năm năm gần đây (2005 - 2010), diện
tích nuôi ngao có xu thế giảm dần, từ 345ha nuôi
vào năm 2005, đến năm 2010 diện tích này chỉ còn
234ha. Tuy nhiên, tổng sản lượng thu được vào
năm 2010 lại tăng rất cao, đạt 1.950 tấn so với 141
tấn năm 2005, sản lượng đã tăng 13,8 lần. Năng
suất trung bình năm 2010 đạt 8,33 tấn/ha/năm.
2. Hiện trạng kỹ thuật nghề nuôi ngao thương
phẩm tại Hải Phòng năm 2010
2.1. Kỹ thuật chọn địa điểm nuôi ngao
Kết quả tổng hợp từ phiếu điều tra cho thấy, địa
điểm nuôi ngao thường ở khu vực trung triều hoặc
hạ triều nơi có ngao tự nhiên phân bố (do khai thác
thấy xuất hiện ngao), kết hợp với một trong số các
chỉ tiêu chất đáy thường là cát pha bùn hoặc bùn
pha cát để chọn địa điểm quây bãi nuôi ngao.
2.2. Diện tích bãi nuôi ngao
Kết quả tổng hợp từ phiếu điều tra cho thấy, có
tới 50% (32/64 hộ) số hộ nuôi ngao có diện tích nuôi
nhỏ (dưới 1 ha), có 40,62% (tương ứng với 26/64
hộ) số hộ có diện tích nuôi ngao (từ 1 - 3ha), chỉ có
9,38% số hộ có diện tích nuôi ngao lớn hơn 3ha.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 85


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 3/2013
giống ngao được mua chủ yếu từ người làm dịch
vụ giống (chiếm 82,8% số hộ được điều tra), nguồn
giống từ dịch vụ giống chủ yếu là nhập về từ các
cơ sở sản xuất giống tại Kiên Giang, Tiền Giang,
Cà Mau hoặc Trung Quốc. Số hộ mua giống từ các
cơ sở sản xuất giống tại Nam Định, Thái Bình chỉ
chiếm 6,3%, còn lại là thu vớt giống tự nhiên (chiếm
10,9%). Hải Phòng hiện chưa có nhiều trại sản xuất
ngao giống do nghề nuôi ngao tại Hải Phòng mới
phát triển một hai năm gần đây, diện tích nuôi chưa
nhiều. Kích cỡ ngao giống từ các hộ thả chủ yếu
thuộc nhóm từ 500 đến nhỏ hơn 800 con/kg (chiếm
40,62%), tiếp theo là nhóm từ 800 đến 1.200 con/kg
(chiếm 28,12%), nhóm từ 400 đến nhỏ hơn 500 con/kg
(chiếm 25%) và kích cỡ trên 1.200con/kg chỉ có
6,3% số hộ điều tra. Trong đó, 100% hộ nuôi thả
con giống đều không qua kiểm dịch.
2.6. Mật độ ngao và kỹ thuật thả nuôi tại Hải Phòng

2.3. Kỹ thuật chuẩn bị cho một vụ nuôi
Trước khi thả giống, 100% hộ nuôi ngao ở Hải
Phòng đã thực hiện các bước kỹ thuật như sau:
dùng phương pháp thủ công để dọn bãi, loại bỏ
rong, gạch đá và các động vật thủy sản khác như:
cua, ghẹ, ốc hương... Sau đó cày bừa cho xốp nền
đáy và san lại bãi nuôi cho phẳng.
2.4. Thời gian thả giống nuôi
Qua điều tra đã nhận thấy, người nuôi ngao ở Hải

Phòng tập trung thả ngao giống vào 2 thời điểm trong
năm là tháng 4 đến tháng 5 và tháng 10 đến tháng
11. Tuy nhiên, tần số gặp số hộ thả giống vào tháng
10 - 11 chiếm tới 69,94% (39/64 hộ), trong khi đó chỉ
có 39,06% (25/64 hộ) thả giống vào tháng 4 - 5.
2.5. Nguồn, cỡ và chất lượng giống ngao thả
Kết quả nghiên cứu thực tế 64/85 hộ nuôi ngao,
chiếm 75,3% tổng số hộ nuôi đã được phỏng vấn
về nguồn giống và cỡ giống ngao thả cho biết,

Bảng 2. Mật độ thả giống trong nuôi ngao thương phẩm ở Hải Phòng
Mật độ thả ngao giống (kg giống/ 1.000m2)
Loại cỡ giống
(con/kg)

< 100

Từ 100- <140

Từ 140- <200

≥ 200

Tần số

%

Tần số

%


Tần số

%

Tần số

%

0

0

2

12,50

8

50,00

6

37,50

Cỡ từ
500- <800 (n=26)

10


38,46

6

23,08

5

19,23

5

19,23

Cỡ từ
800 - 1.200 (n=18)

7

38,89

9

50,00

2

11,11

0


0

Cỡ >1.200 (n=4)

2

50

0

0

2

50,00

0

0

N = 64

19

Cỡ từ
400- <500 (n=16)

17


17

11

Tại Hải Phòng, xu thế người nuôi đã thả với các mật độ khác nhau, trong đó, số người thả ngao nuôi nhóm
cỡ giống từ 500 đến nhỏ hơn 800 con/kg là cao nhất 26/64 hộ (chiếm tỷ lệ 40,625%).
2.7. Phân tích ảnh hưởng của cỡ giống và mật độ thả nuôi tới năng suất ngao khi thu hoạch

Hình 1. Năng suất ngao trung bình (kg/1.000m2) của các hộ
thả nuôi cùng cỡ giống (từ 400 - < 500 con/kg)
nhưng với các nhóm mật độ khác nhau
Chú thích: n- Tần số gặp (hộ)

86 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Hình 2. Năng suất trung bình bình (kg/1.000m2) khi thả
nuôi cỡ ngao giống (từ 500 - < 800 con/kg)
nhưng với các mật độ khác nhau
Chú thích: n- Tần số gặp (hộ)


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Hình 3. Năng suất trung bình bình (kg/1.000m2) khi thả
nuôi cỡ ngao giống (từ 800 - 1.200 con/kg)
nhưng với các mật độ khác nhau

Số 3/2013

Hình 4. Năng suất trung bình bình (kg/1.000m2) khi thả

nuôi cỡ ngao giống ( >1.200 con/kg)
nhưng với các mật độ khác nhau

Chú thích: n - Tần số gặp (hộ)

Tóm lại: Ảnh hưởng của cỡ giống và mật độ thả nuôi tới năng suất ngao khi thu hoạch
- Ngao giống cỡ 400 - <500 con/kg, nuôi với mật độ từ 140 đến dưới 200kg/1.000m2 cho năng suất cao hơn.
- Ngao giống cỡ 500 - <800 con/kg, nuôi với mật độ từ 140 đến 200 kg/1.000m2 cho năng suất cao hơn.
- Ngao giống cỡ từ 800 - 1200 con/kg, nuôi với mật độ 100 - < 140 kg/1.000m2 cho năng suất cao hơn.
- Thả ngao giống cỡ hơn 1.200con/kg năng suất thu được thấp.
Qua kết quả trên, cỡ giống lựa chọn nuôi tốt 500 - <800 con/kg và thả với mật độ 140 đến 200kg/1.000m2,
cỡ giống 800 - 1.200 con/kg thả với mật độ từ 100 đến 140kg/1.000m2 sẽ cho năng suất trên 1 tấn/1.000m2.
3. Hiện tượng chết của ngao nuôi tại Hải Phòng năm 2010
Bảng 3. Hiện tượng ngao chết trong các bãi nuôi thương phẩm tại Hải Phòng năm 2010
Hiện tượng ngao nuôi thương phẩm bị chết

Kết quả điều tra (n = 64)
Tần số gặp (hộ)

Tỷ lệ %

Ngao không chết trong vụ nuôi

11

17,19

Ngao chết gây hao hụt ≤ 20 %

17


26,56

Ngao chết gây hao hụt 20- < 50%

8

12,50

Ngao chết gây hao hụt ≥ 50%

28

43,75

64

100

Tổng

Qua bảng 3, có tới 53/46 hộ nuôi ngao cho rằng đã phải đối mặt với hiện tượng ngao chết giảm sản lượng
nuôi ngao, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế (chiếm tỷ lệ 82,81%). Đặc biệt, tháng 5 năm 2010 tại vùng nuôi thuộc
xã Hiền Hào - Cát Hải, ngao đã nuôi được từ 1 đến 8 tháng tuổi đã có 21 trong tổng số 26 hộ nuôi ngao ở huyện
này thông báo rằng, ngao nuôi của họ đã chết hàng loạt và gây thất thu.

Hình 5. Hiện trường bãi ngao chết 100% và dấu hiệu bệnh tại vùng nuôi xã Hiền Hào,
từ ngày 17 - 20/5/2010

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 87



Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Tóm lại: Hiện trạng bệnh gây chết hoặc giảm
sản lượng nuôi ngao đã và đang xảy ra tại các vùng
nuôi của Hải Phòng.
Khi ngao chết, người nuôi ngao không phát
hiện được dấu hiệu bất thường của ngao chết tại
đợt bệnh xảy ra vào tháng 5/2010. Kết quả nghiên
cứu, chúng tôi nghi nhận được hiện trạng khi xảy
ra bệnh ngao là thời điểm giao mùa (từ mùa xuân
chuyển sang mùa hạ), có biến động lớn về khí hậu
và các yếu tố môi trường nước. Các nhà bệnh học
vẫn chưa tìm ra được tác nhân chính gây ra hiện
tượng ngao chết tại vùng nuôi trên.
4. Đề xuất giải pháp trong cải tiến kỹ thuật và
quản lý sức khỏe ngao nuôi tại Hải Phòng
4.1. Về chất lượng con giống
Các nông hộ nuôi ngao tại Hải Phòng nên lựa
chọn nguồn giống được cung cấp từ các cơ sở có
uy tín và được kiểm tra chất lượng, đảm bảo ngao
giống khỏe mạnh và không mang mầm bệnh nguy
hiểm trước khi thả giống.
4.2. Cỡ giống và mật độ thả
Cỡ và mật độ thả giống là 2 chỉ tiêu có quan
hệ mật thiết với nhau, do vậy tùy theo cỡ giống mà
chọn mật độ thả cho phù hợp:
- Cỡ giống từ 400 đến dưới 800 con/kg, thả nuôi
với mật độ từ 140 đến 200 kg/1.000m2.
- Nếu cỡ ngao giống từ 800 đến 1.200 con/kg

thì nên thả với mật độ 100 đến 140kg /1.000m2.
4.3. Quản lý sức khỏe ngao nuôi
- Người nuôi ngao tại cần thực hiện thường
xuyên kiểm tra lưới chắn để tránh thất thoát ngao ra
khỏi bãi nuôi và bắt bỏ các sinh vật là địch hại như
các loài ốc dùng ngao nhỏ làm thức ăn như: ốc mỡ
trơn (Polynices didyma Bottem), ốc mỡ hoa (Natica
maculosa Lamarch) hoặc các loài tảo độc.
- Thường xuyên theo dõi sinh trưởng và sức
khỏe ngao nuôi, định kỳ giải phẫu một thể để kiểm
tra độ no, độ béo và các dấu hiệu hiệu bất thường vì
khi ngao khỏe hay bệnh đều rất khó phát hiện bằng
các biểu hiện ở bên ngoài.

88 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 3/2013
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Kỹ thuật nuôi ngao tại Hải Phòng
- Giống ngao được nuôi chính là Meretrix, gồm
các loài ngao dầu Meretrix meretrix, ngao Bến Tre
Meretrix lyrata, ngao vân Meretrix lusoria, trong đó
ngao bến tre được nuôi nhiều nhất.
- Bãi nuôi ngao thường có diện tích nhở hơn
5ha, ở vùng trung hoặc hạ triều, có chất đáy chủ
yếu là cát bùn.
- Ngao giống thả nuôi thương phẩm phụ thuộc
hoàn toàn vào các cơ sở sản xuất thuộc tỉnh khác
(Nam Định, Thái Bình hoặc Bến Tre) thông qua

thương lái.
- Mật độ thả giống có sự thay đổi lớn phụ thuộc
vào cỡ giống thả, trong đó được lựa chọn nhiều ở
cỡ giống từ 500 đến dưới 800 con/kg và từ 800 đến
1.200 con/kg.
- Quản lý: người nuôi ngao thực hiện quản lý
bãi ngao nuôi như: trước khi thả giống, 100% hộ
nuôi ngao thực hiện dọn bãi, loại bỏ rong, gạch đá
và các động vật thủy sản khác như: cua, ghẹ, ốc
hương... Sau đó cày bừa cho xốp nền đáy và vệ
sinh lưới bao bọc bãi nuôi,..
1.2. Hiện trạng bệnh ở ngao nuôi tại Hải Phòng
Bệnh ở ngao nuôi đã gây chết hoặc giảm sản
lượng ngao thương phẩm ở nhiều vùng nuôi khác
nhau, gây thiệt hại về kinh tế cho các nông hộ nuôi
đối tượng này.
2. Kiến nghị
- Các cơ quan chức năng: cần quy hoạch vùng
nuôi ngao để tránh bị ảnh hưởng bởi các hoạt động
kinh tế khác; phát triển qui trình kỹ thuật nuôi và tập
huấn cho ngư dân nâng cao trình độ về công nghệ
nuôi đạt năng suất cao; phát triển quy trình kỹ thuật
để kiểm dịch động vật thân mềm.
- Các nhà khoa học cần nghiên cứu để phát
hiện nguyên nhân chính gây chết ngao ở Hải Phòng
từ đó tìm ra biện pháp phòng bệnh hiệu quả.


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 3/2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.

Nguyễn Chính, 1996. Một số loài động vật thân mềm (Mollusca) có giá trị kinh tế ở biển Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật,
Hà Nội, 96tr.

2.

Cục Thống kê Hải phòng, 2005; 2006; 2007; 2008 và 2009. Báo cáo chính thức thủy sản niên giám năm.

3.

FAO, 2005. Hướng dẫn chẩn đoán bệnh của động bật thủy sản Châu Á. NXB Nông Nghiệp, 131-135.

4.

Hà Quang Hiến, 1980. Kỹ thuật nuôi Hải sản. NXB Nông thôn, Hà Nội.

5.

Hà Lê Thị Lộc và Trương Sĩ Kỳ, 2003. Tình hình nuôi ngao Meretrix meretrix Linne, 1758 và Meretrix lusoria Roding, 1798
từ vùng biển Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Tuyển tập báo cáo Khoa học công nghệ về nuôi trồng thủy sản. NXB Nông
Nghiệp, Hà Nội, 347-355.

6.

Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng, 2008. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2002 - 2007, định

hướng đến năm 2010 - 2020.

7.

Cahn A, R, 1951. Clam Culture in Japan. Natural Resources Section Report, no 146, 24-30

8.

C. Paillard, P. Maes, 1994. Brown ring disease in the Manila clam Ruditapes philippinarum: establishment of a classification
svstem. Diseases of aquatic organisms, vol 19, 1994.

9.

FAO, 1999. The living marine resources of the western central pacific. vol 1, 320-35.

Tiếng Anh

10. Kyung-Il Park, Kwang-Sik Choi, 2004. Application of enzyme-linked immunosorbent assay for studying of reproduction in
the Manila clam Ruditapes philippinarum (Mollusca: Bivalvia). Aquaculture, Vol 241 (2004), 667-687.
11. Jintana Nugranad, 1999. Breeding of the oriental hard Clam Meretrix, Meretrix (Lineus, 1758). Proceedings of the 10th
Congress and Workshop Tropical Marine Mollusc Programe, Phuket Marine Biological Center Special publication 21(1),
203-210.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 3/2013


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHỀ NI TƠM HE
CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei Boone, 1931) Ở HẢI PHỊNG
CURRENT STATUS AND DEVELOPMENT SOLUTIONS OF WHITE-LEG SHRIMP
(Penaeus vannamei Boone, 1931) FARMING IN HAI PHONG
Nguyễn Văn Hòa1, Vũ Văn Dũng2
Ngày nhận bài: 26/9/2012; Ngày phản biện thơng qua: 26/10/2012; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013

TĨM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành từ 5/2010 đến 3/2011 bằng cách thu thập thơng tin và tiến hành điều tra, phỏng vấn 50
trang trại ni tơm he chân trắng tại Hải Phòng nhằm đánh giá hiện trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp thiết thực phát
triển nghề ni tơm he chân trắng nơi đây. Kết quả cho thấy, diện tích ni tơm he chân trắng của Hải Phòng tăng từ 16
ha trong năm 2006 đến 156 ha trong năm 2010; sản lượng ni đạt 1.653 tấn với năng suất bình qn khoảng 9 tấn/ha/vụ.
Trang trại có doanh thu cao nhất là 1.295 triệu đồng/ha; doanh thu trung bình của mỗi trang trại là 532 triệu đồng/ha với
lợi nhuận trung bình đạt 195 triệu đồng/ha. Có 72% trang trại ni có lãi và 28% trang trại bị thua lỗ; có 70% trang trại
ni gặp khó khăn về con giống, 42% về vốn, 36% về kỹ thuật ni, 16% về thị trường và 14% về th lao động. Tơm he
chân trắng được ni tại Hải Phòng theo 2 hình thức thâm canh và bán thâm canh; mật độ thả từ 20 - 140 con/m2; thời gian
ni từ tháng 4 đến tháng 10. Việc ni tơm he chân trắng đang góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tạo cơng ăn việc
làm, tăng thu nhập cho người dân ven biển và đóng góp hàng chục tỷ đồng mỗi năm cho thành phố Hải Phòng.
Từ khóa: tơm he chân trắng, Penaeus vannamei, ni trồng thủy sản, hiệu quả kinh tế - xã hội.

ABSTRACT
A survey was conducted from May 2010 to March 2011 for collecting related data from local agencies and 50
white-leg shrimp farmers in Hai Phong in order to evaluate the situation and suggest some solutions for development.
The results showed that total white-leg shrimp farming area in Hai Phong reached 156 ha in 2010; production reached
1.653 tons at an average yield of about 9 tons/ha/crop. Farm with the highest turnover reached 1.295 million VNDs/ha; the
average turnover was about 532 millions/ha with an average profit of 195 million VND/ha. Out of total 50 farms, there were
36 farms gained profit; some farms have been facing difficulty in seed supply, farming capital, culture techniques, market
and labor at the percentage of 70%, 40%, 36%, 16% and 14%, respectively. In Hai Phong, white-leg shrimp was basically

cultured by intensive and semi-intensive methods at an average stocking density of 140 shrimp/m2; culture season is from
April to October. White-leg shrimp farming is contributing to the improvement of production structure, solving the problem
of job and income of Hai Phong coastal citizens.
Keywords: white-leg shrimp, Penaeus vannamei, aquaculture, social-economic benefit.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tơm he chân trắng là lồi ngoại nhập có tiềm
năng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam nhờ khả năng
thích nghi cao và sức sống chịu tốt với biến động
của một số yếu tố mơi trường [3]. Thực tế đã chứng
minh hoạt động sản xuất giống, ni thương phẩm

1
2

và chế biến xuất khẩu tơm he chân trắng ở nước ta
phát triển mạnh trong giai đoạn 2000 - 2010 [5]. Hải
Phòng là một trong những tỉnh đầu tiên đưa tơm he
chân trắng vào ni thương phẩm ở Việt Nam. Nghề
ni tơm he chân trắng ở Hải Phòng đang phát triển
mạnh với nhiều lợi ích đi cùng mức độ rủi ro cao bởi

Nguyễn Văn Hòa: Cao học Ni trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
TS. Vũ Văn Dũng: Vụ Khoa học, Cơng nghệ và Mơi trường - Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn

90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
thiếu qui hoạch và định hướng phát triển [3]. Nhằm

phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng bền vững
ở Hải Phòng, việc phân tích hiện trạng kinh tế - kỹ
thuật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả là
công tác quan trọng và cấp thiết hiện nay. Dựa trên
kết quả phân tích những tồn tại hiện có, báo cáo này
giới thiệu một số giải pháp thiết thực có thể áp dụng
tại Hải Phòng nhằm phát triển ổn định hoạt động
nuôi tôm he chân trắng nơi đây.

Số 3/2013
trong khoảng từ 24 đến 68 tuổi. Số người trong độ
tuổi từ 30 đến 50 chiếm đa số (62%) với tỉ lệ chủ
trang trại là nữ rất thấp, chỉ 7,5%.

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành với các trang trại nuôi tôm
he chân trắng ở thành phố Hải Phòng, trong thời
gian từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 3 năm 2011.
2. Phương pháp thu thập số liệu
Các số liệu thứ cấp được thu thập thông qua số
liệu thống kê, tổng kết của Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hải Phòng, Phòng Kinh tế, Chi cục
Thống kê, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn các quận/huyện trên địa phận thành phố Hải
Phòng. Ngoài ra, một số báo cáo tổng kết đề tài, dự
án cũng như báo cáo tham luận liên quan đến hoạt
động nuôi tôm he chân trắng cũng được tham khảo.
Số liệu sơ cấp được thu thập qua khảo sát thực
tế, phỏng vấn cán bộ quản lý thủy sản và người

dân nuôi tôm địa phương dựa trên bộ câu hỏi được
chuẩn bị nhằm thu thập các thông tin chung về chủ
trang trại, hiện trạng kỹ thuật nuôi, hiệu quả kinh tế
và những khó khăn thường gặp của chủ hộ nuôi,...
Trên cơ sở tổng số khoảng 150 hộ nuôi tôm chân
trắng tại Hải Phòng tập trung tại vùng nuôi chính
như An Hải, Cát Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo và Dương
Kin, tiến hành thu mẫu và điều tra ngẫu nhiên 50
hộ nuôi [7]. Số lượng hộ nuôi được điều tra tại mỗi
vùng khoảng 10 hộ nhằm đảm bảo tính khách quan
của bộ số liệu thu được.
3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu thu thập được được mã hoá và xử lý theo
các nội dung của bộ câu hỏi điều tra sử dụng. Các số
liệu được lưu trữ, xử lý bằng phần mềm MS Excel với
chức năng phân tích thống kê kinh tế. Tổng chi phí,
doanh thu và lợi nhuận của trang trại nuôi tôm được
tính bằng các công thức thông thường.

Hình 1. Cơ cấu độ tuổi của chủ các trang trại nuôi tôm he
chân trắng tại Hải Phòng

Qua điều tra cho thấy, 8,6% chủ các trang trại
nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng có dưới 3 năm
kinh nghiệm; 41,5% có số năm kinh nghiệm từ 3 - 5
năm và số chủ trang trại có kinh nghiệm trên 5 năm
nhiều nhất chiếm 49,9%. Người nuôi tôm có nhiều
năm kinh nghiệm thường quản lý ao nuôi tốt hơn với
chi phí thấp và hiệu quả sản xuất cao hơn [1], [2].


Hình 2. Kinh nghiệm nuôi tôm chân trắng của chủ
các trang trại tại Hải Phòng

Kết quả cho thấy, số chủ trang trại nuôi tôm
chân trắng không có bằng cấp chiếm 34%; nhóm
tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn chiếm 42%;
nhóm có trình độ trung cấp chiếm 18% và nhóm có
trình độ đại học chiếm 6%. Số chủ trang trại có trình
độ học vấn cấp 1 chiếm tỷ lệ 24%; số có trình độ
cấp 2 chiếm 30% và 46% trong số đó có trình độ
học vấn cấp 3.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Thông tin chung về chủ các trang trại nuôi
tôm he chân trắng ở Hải Phòng
Tuổi trung bình của chủ các trang trại nuôi tôm
he chân trắng tại Hải Phòng là 46,5 ± 12,4; dao động

Hình 3. Trình độ chuyên môn của chủ các trang trại
nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
2. Hiện trạng kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng ở
Hải Phòng
2.1. Diện tích và sản lượng nuôi
Mặc dù tôm he chân trắng xuất hiện ở Hải
Phòng sớm hơn nhiều địa phương khác nhưng

diện tích nuôi loài tôm này ở Hải Phòng không đáng

Số 3/2013
kể, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích nuôi tôm sú.
Tuy vậy, tỉ lệ diện tích nuôi tôm he chân trắng có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Từ
xấp xỉ 0,5% vào năm 2006, tỉ lệ diện tích tôm chân
trắng so với tôm sú tăng lên 3% trong năm 2008 và
5% trong năm 2010 [6],[7].

Bảng 1. Diện tích nuôi và sản lượng tôm nuôi tại Hải Phòng giai đoạn 2006 - 2010
Năm

2006

2008

2010

3.299

1.900

3.022

Diện tích nuôi tôm he chân trắng (ha)

16

58


156

Sản lượng nuôi (tấn)

124

1.000

1.653

Diện tích nuôi tôm sú (ha)

Sản lượng tôm he chân trắng nuôi tại Hải
Phòng cũng chỉ được ghi nhận từ năm 2006 [6],[7].
Tuy vậy, bảng 1 cho thấy sản lượng tôm he chân
trắng nuôi tăng nhanh trong những năm gần đây và
đạt trên 1.600 tấn trong năm 2010 (gấp 15 lần sản
lượng năm 2006) [6],[7].
2.2. Đặc điểm ao nuôi
Đa số các trang trại nuôi tôm he chân trắng
ở Hải Phòng có diện tích dưới 2ha (chiếm 86%);
còn lại là các trang trại nuôi có tổng diện tích từ 2
đến 25ha. Ao nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
thường có độ sâu từ 1,6 đến 2,0m. Độ sâu này
nhìn chung cao hơn độ sâu ao nuôi thường thấy
(dưới 1,5m) ở các địa phương khác như Sóc Trăng,
Bạc Liêu [1],[4].
Ao nuôi tôm chân trắng ở Hải Phòng thường có
hình chữ nhật hoặc hình vuông, được gia cố bởi 3

phương pháp khác nhau thường thấy. Trong đó, ao
lót bạt nilon chiếm tới 69%, ao đất chiếm 18% và ao
gia cố bê-tông chiếm tỉ lệ thấp nhất là 13%.
Chất đáy ao nuôi tôm he chân trắng ở Hải
Phòng chủ yếu là cát bùn (42% số trang trại nuôi)
và bùn cát (38%). Đây là loại chất đáy tốt cho hoạt
động nuôi tôm he nói chung [3]. Ngoài ra, một số
ao nuôi có đáy bùn, chiếm 8%; còn lại là các ao có
chất đáy khác (sét, sét bùn,...), chiếm 12% số trang
trại nuôi.
2.3. Các hình thức nuôi
Tôm he chân trắng ở Hải Phòng chỉ được nuôi
theo hai hình thức là nuôi thâm canh và bán thâm
canh. Trong đó, 36% số trang trại nuôi theo hình
thức thâm canh và 64% trang trại nuôi theo hình
thức bán thâm canh. Do chi phí đầu tư cao và khả
năng quản lý dịch bệnh chưa thật tốt, hình thức nuôi
thâm canh chưa phải là lựa chọn hàng đầu của các
trang trại ở Hải Phòng.
2.4. Kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi
Kết quả điều tra cho thấy, tất cả các trang trại
đều thực hiện vét bùn, vệ sinh, diệt tạp và khử trùng

92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

ao nuôi trong chuẩn bị ao nuôi; đa số các trang trại
tiến hành phơi đáy ao nuôi (92%), số còn lại không
phơi được đáy ao khi cải tạo ao.
2.5. Quản lý và chăm sóc ao nuôi
Kết quả điều tra cho thấy, 25% số trang trại nuôi

tôm he chân trắng ở Hải Phòng thực hiện thay nước
thường xuyên trong thời gian nuôi. Số còn lại nuôi
theo hình thức khép kín, không hoặc rất ít thay nước
trong suốt chu kỳ nuôi. Lý do dẫn đến đa số trang
trại nuôi hạn chế thay nước trong quá trình nuôi là
những khó khăn trong cấp thoát nước cũng như lo
ngại lây nhiễm bệnh tôm từ nguồn nước bên ngoài.
Điều này cho thấy việc quản lý nước thải nuôi tôm
và dịch bệnh tôm trong khu vực còn nhiều bất cập,
chưa tuân thủ tốt các qui định nuôi tôm thâm canh
thường thấy [6].
Về phương pháp cho ăn, đa số trang trại nuôi
tôm có kiểm tra tình hình tôm sử dụng thức ăn khi
cho tôm ăn (78%); số trang trại nuôi còn lại chỉ cho
ăn dựa vào cảm tính và kinh nghiệm thực tế. Hầu
hết các trang trại nuôi tôm chân trắng cho tôm ăn 4
lần/ngày vào các thời điểm sáng, trưa, chiều và tối
(thường vào các thời điểm 6h, 12h, 18h và 24h).
3. Hiệu quả kinh tế
3.1. Tổng chi phí trong nuôi tôm he chân trắng
ở Hải Phòng
Chi phí trong nuôi tôm he chân trắng tại Hải
Phòng tăng dần qua các năm, năm 2008 tổng chi
phí cho 1 ha ao nuôi tôm he chân trắng là 306,6 triệu
đồng, năm 2009 là 334,8 triệu đồng và năm 2010 là
356,9 triệu đồng. Mức chi lớn nhất của một trang
trại nuôi tôm chân trắng là 613 triệu đồng/ha, mức
chi thấp nhất là 80 triệu đồng/ha và mức chi trung
bình của một trang trại nuôi ở Hải Phòng là 336 triệu
đồng/ha với tỉ lệ lớn nhất thường thuộc về chi phí

thức ăn, có thể đạt đến 60% tổng chi phí vào cuối vụ
nuôi. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên
cứu khác về tình hình sử dụng thức ăn ở các tỉnh


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
phía Nam với mức chi phí thức ăn chiếm trên 50%
tổng chi phí đầu tư cho mỗi vụ nuôi [4].
3.2. Giá bán tôm he chân trắng nguyên liệu
Tôm nguyên liệu được định giá tùy thuộc vào
cỡ tôm thu hoạch. Trong năm 2010, tôm he chân
trắng nguyên liệu tại Hải Phòng có giá bán bình
quân từ 30.000 đến 85.000 đồng. Trong đó, tôm he
chân trắng loại 30 - 40 con/kg có giá 80 - 85.000
đồng/kg, loại 40 - 50 con/kg có giá 70.000 đồng/kg,
loại 50-60 con/kg có giá 60.000 đồng/kg và loại trên
60 con/kg có giá 30 - 50.000 đồng/kg.
3.3. Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động nuôi tôm
he chân trắng ở Hải Phòng
Trong năm 2010, trang trại nuôi tôm he chân
trắng có doanh thu bình quân cao nhất là 1.295
triệu đồng/ha và thấp nhất là 0 triệu đồng/ha (đây
là những trang trại tôm bị thiệt hại sớm). Doanh thu
trung bình của mỗi trang trại nuôi tôm he chân trắng
đạt mức 532 triệu đồng/ha.
Cũng trong năm 2010, qua điều tra cho thấy,
có 14 trên tổng số trang trại nuôi tôm he chân trắng
thua lỗ; số trang trại còn lại có lãi với lợi nhuận bình
quân đạt 195 triệu đồng/ha. Trong đó, trang trại có
lợi nhuận bình quân cao nhất đạt 681 triệu đồng/ha;

trang trại bị thua lỗ nhiều nhất là 117 triệu đồng/ha.

Số 3/2013
4. Hiệu quả xã hội
Hoạt động nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
giải quyết được vấn đề việc làm cho hơn 400 lao
động cố định. Ngoài ra, nghề nuôi tôm chân trắng
còn tạo công ăn việc làm cho nhiều bộ phận cung
cấp dịch vụ như con giống, thức ăn, thuốc, hóa chất,
chế phẩm vi sinh xử lý và cải tạo ao nuôi, đội ngũ
thu mua, sơ chế tôm thương phẩm; tạo sản phẩm
góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. Trong năm 2010, nghề nuôi tôm he chân
trắng ở Hải Phòng đã đóng góp khoảng 59 tỷ đồng
vào ngân sách thành phố.
5. Những khó khăn thường gặp, kiến nghị và
hướng phát triển của trang trại nuôi
5.1. Những khó khăn thường gặp của các trang trại
nuôi tôm he chân trắng
Kết quả điều tra - phỏng vấn cho thấy, đa số
các trang trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
đều gặp phải những khó khăn trong hoạt động nuôi
trồng. Những khó khăn này thường là các vấn đề
như vốn, con giống, kỹ thuật, dịch bệnh, thị trường
tiêu thụ,... Mức độ gặp phải khó khăn của các trang
trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng với từng chỉ
tiêu được thể hiện trong bảng 2.

Bảng 2. Những khó khăn gặp phải trong nuôi tôm he chân trắng hiện nay ở Hải Phòng
STT


Chỉ tiêu

Số hộ (n=50)

Tỷ lệ (%)

1

Con giống

35

70

2

Thiếu vốn

21

42

3

Kỹ thuật

18

36


4

Thị trường

8

16

5

Lao động

7

14

5.2. Kiến nghị và hướng phát triển của các hộ nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
Đa số người nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng đều mong muốn được các cơ quan chức năng giúp đỡ
họ vượt qua những khó khăn về con giống, vốn, kỹ thuật nuôi, dịch bệnh và thị trường tiêu thụ. Cụ thể, kết quả
điều tra cho thấy: 70% số trang trại đề nghị được trợ giúp về con giống, 42% về vốn, 36% về kỹ thuật nuôi và
16% muốn có thị trường tiêu thụ ổn định.
Về hướng phát triển trong thời gian tới, 64% số trang trại điều tra không muốn thay đổi phương thức sản
xuất; số còn lại có kế hoạch nâng cấp, đầu tư thêm trang thiết bị cũng như mở rộng diện tích nuôi.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên 90% số trang trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng được điều hành bởi lao động từ 3 năm kinh
nghiệm trở lên. Tuy trình độ học vấn nhìn chung cao, tỷ lệ chủ trang trại có trình độ chuyên môn nuôi trồng thủy
sản còn thấp, chỉ chiếm khoảng 20%.


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Với chi phí cho 1 ha ao nuôi khoảng 350 triệu
đồng và lợi nhuận bình quân vào khoảng 200 triệu
đồng/ha, các trang trại nuôi tôm he chân trắng Hải
Phòng còn giải quyết được công ăn việc làm cho
hơn 400 lao động cố định và nhiều lao động trong
các lĩnh vực dịch vụ hậu cần khác có liên quan.
Ngoài ra, nghề nuôi tôm he chân trắng ở Hải
Phòng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế
về nguồn vốn, con giống và dịch bệnh nên cần được
giúp đỡ kịp thời nhằm phát triển nghề nuôi theo
hướng bền vững.

Số 3/2013
2. Kiến nghị
Nhằm phát triển bền vững nghề nuôi tôm he
chân trắng ở địa phương, Hải Phòng cần có qui định
và kế hoạch giám sát chặt chẽ hoạt động nuôi tôm
đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh thực phẩm.
Bên cạnh các vấn đề chuyên môn, thành phố
cần liên kết với các ngân hàng ban hành chính sách
hỗ trợ vốn ưu đãi cho trang trại nuôi.
Ngoài ra, trước thực trạng rủi ro cao của nghề
nuôi tôm, chính sách bảo hiểm tôm nuôi cần được
sớm đưa vào thực tế sản xuất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, 2009. Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng thâm canh. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

2.

Bộ Thủy Sản, 2007. Báo cáo tổng kết ngành thủy sản năm 2006, Hà Nội.

3.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2009. Báo cáo tình hình nuôi tôm mặn lợ năm 2008 và kế hoạch thực
hiện năm 2009, Hải Phòng.

4.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2010. Báo cáo tình hình nuôi tôm mặn lợ năm 2009 và kế hoạch thực
hiện năm 2010, Hải Phòng.

5.

Nguyễn Thị Trâm Anh, Huỳnh Phan Thúy Vi, 2010. Tiếp cận chuỗi cung ứng nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho mặt
hàng tôm thẻ chân trắng -Trường hợp Công ty Cổ phần Nha Trang Seafood F17. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học
Đà Nẵng, số 5(40), 286-295.

6.

Lê Thanh Hùng, Ong Mộc Quý, 2011. Hiện trạng sử dụng và quản lý thức ăn nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thủy sản toàn quốc 2011, trang 151-160.

7.


Bùi Quang Tề, 2009. Nuôi thâm canh tôm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo mô hình GQqP. Trung tâm Khuyến nông
Khuyến ngư Quốc gia, 122 trang.

94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 3/2013

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ, LOẠI THỨC ĂN VÀ KHẨU PHẦN ĂN
LÊN SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ CHIM VÂY VÀNG
(Trachinotus blochii Lacepede, 1801) GIỐNG ƯƠNG BẰNG
GIAI ĐẶT TRONG AO ĐẤT
INFLUENCE OF DENSITY, FOOD AND FEEDING RATION ON GROWTH, SURVIVAL
OF SNUB-NOSE POMPANO (Trachinotus blochii Lacepede, 1801)
FINGERLING CULTURED IN POND NETCAGE
Thân Thị Hằng1, Đỗ Thị Hòa2
Ngày nhận bài: 17/9/2012; Ngày phản biện thơng qua: 28/02/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013

TĨM TẮT
Kết quả của thí nghiệm ương cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) cỡ 3 - 4cm bằng giai đặt trong ao đất trong 4
tuần ở các mật độ khác nhau (100, 200, 300, 400 và 500 con/m3),và thí nghiệm cho cá ăn các loại thức ăn (INVE, UP và
cá tạp) kết hợp với các khẩu phần ăn (4, 6, 8 và 10% khối lượng thân (BW) đã chỉ ra rằng các mật độ ương khác nhau có
ảnh hưởng (p<0,05) lên sinh trưởng, năng suất và hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR), trong đó mật độ ương từ 400-500 con/m3
đã cho kết quả tốt nhất. Khi 2 yếu tố là loại thức ăn và khẩu phần ăn khác nhau cùng tác động đã ảnh hưởng (p<0,05) lên
sinh trưởng về khối lượng và FCR của cá chim vây vàng, trong đó thức ăn tổng hợp INVE với khẩu phần ăn từ 8 - 10% BW

cho kết quả ương ni tốt nhất. Ngồi ra, tỷ lệ sống của cá ương ở tất cả các nghiệm thức đều cao và khơng có sự khác
biệt (p>0,05).
Từ khóa: mật độ ương, loại thức ăn và khẩu phần ăn, tỷ lệ sống, cá chim vây vàng

ABSTRACT
Experiments of cultured snub-nose pompano (Trachinotus blochii) 3 - 4cm in net cages located in pond during 4
weeks, with different densities (100, 200, 300, 400 and 500 individuals/m3 and experiment give eating fish, foods (as INVE,
UP and trash fish) combine rations (4, 6, 8 and 10% BW) indicated that significant differences were observered (p<0,05)
on growth, yield and feed conversion ratio (FCR). Also, the densities of 400-500 individuals/m3 showed the best cultured
results. When two elements including foods and ration both impacted on fish, significant effects on the body weigh growth
and feed conversion ratio (FCR) of Trachinotus blochii were observed. Specifically, the best cultured result was observed
in experiment using Inve commercial food with diets 8 - 10% BW. In addition, significant differences on survival rate of
fish were noted in al the experiments.
Keywords: density, food, feeding ration, survival, snub–nose pompano

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii
Lacepede, 1801) là đối tượng ni có giá trị kinh tế
ở các quốc gia thuộc khu vực Thái Bình Dương. Đối
tượng này lần đầu tiên được nghiên cứu sản xuất
giống thành cơng ở Đài Loan vào những năm 1989

1
2

và hiện đang được ni thương phẩm ở nhiều nước
như Hồng Kơng, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc,
Malaysia và Việt Nam,... (Situ và CTV, 2004).
Trong vài năm gần đây, sản xuất giống nhân
tạo cá chim vây vàng đã thành cơng ở Việt Nam,

tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu của người ni

Thân Thị Hằng: Cao học Ni trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
PGS.TS. Đỗ Thị Hòa: Viện Ni trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 95


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
cá biển về kích thước và chất lượng con giống, cần
có những nghiên cứu sâu hơn về mật độ, loại thức
ăn và khẩu phần ăn của cá chim vây vàng ở giai
đoạn cá con đặc biệt là giai đoạn giống. Ngoài ra,
kỹ thuật ương cá biển trong các bể thể tích nhỏ có
nhiều hạn chế như khó ương mật độ cao, cá sinh
trưởng chậm, năng suất thấp và giá thành cao,
việc áp dụng kỹ thuật ương cá biển bằng ao đất
hay bằng giai đặt trong ao đất đã mang lại nhiều
ưu điểm như: mật độ ương cao, hạn chế địch hại,
dễ quản lý thức ăn, kích cỡ và dịch bệnh, vận hành
đơn giản và cần ít nhân công, tận dụng nguồn thức
ăn tự nhiên có trong ao (Schipp và CTV, 1996). Bài
báo này được viết nhằm công bố kết quả nghiên
cứu về ảnh hưởng của mật độ ương, loại thức ăn
và khẩu phần ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống của
cá chim vây vàng giống ương bằng giai đặt trong
ao đất.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm và vật liệu nghiên cứu
Địa điểm: Thí nghiệm được thực hiện tại Viện

nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản, Mỹ Thanh, Cam
Thịnh Đông, Cam Ranh, Khánh Hòa.
Vật liệu nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là cá
chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801)
giống, cỡ 3 - 4cm, được mua từ trại thực nghiệm,
thuộc Khoa Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học
Nha Trang.
Giai thí nghiệm làm bằng vật liệu polyme, thể
tích của mỗi giai là 1m3 (kích thước chiều cao, chiều
rộng, nắp và đáy của giai lần lượt là 1m). Hệ thống
30 giai dùng cho thí nghiệm được đặt trong 1 ao đất
có diện tích 500m2, sâu 1,2m, 4 góc của đáy mỗi giai
được buộc với 1 bao cát nhỏ đựng trong túi nilon để
đảm bảo cho giai được vuông góc với đáy. Định kỳ
hàng tuần thay 20% nước trong ao.

Số 3/2013
2. Phương pháp bố trí các thí nghiệm
2.1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của mật độ ương lên
sinh trưởng, tỷ lệ sống và mức độ phân đàn của cá
chim vây vàng giai đoạn giống 3 - 4cm
Cá chim vây vàng giống (kích thước 3,97 ±
0,25) được chuyển về nơi thí nghiệm bằng phương
pháp vận chuyển kín, thả nuôi dưỡng trong 1 giai
lớn, sau 5 ngày cá được bố trí vào các nghiệm
thức (NT). Thí nghiệm này có 5 nghiệm thức ương
với các mật độ: 100, 200, 300, 400 và 500 con/m3,
trong các giai có thể tích 1m3 và được lặp lại 3 lần.
Thức ăn tổng hợp của hãng INVE được dùng cho
cá ăn với khẩu phần 6% BW trong suốt thời gian thí

nghiệm kéo dài 4 tuần, mỗi ngày cho ăn 2 lần vào
7h và 16h. Để tăng cường oxy hòa tan, máy quạt
nước đặt ở góc ao hoạt động hàng ngày từ 11h30
đến 14h và từ 15h đến 8h sáng hôm sau. Sau 4 tuần
thí nghiệm, các chỉ số về sinh trưởng, tỷ lệ sống và
(FCR) được xác định để đánh giá ảnh hưởng của
mật độ nuôi lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá.
2.2.Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của loại thức ăn, khẩu
phần ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và mức độ phân
đàn của cá chim vây vàng giống cỡ 2 - 3cm
Cá chim vây vàng có kích thước trung bình 2,75
± 0,26cm được dùng cho thí nghiệm này. Mật độ cá
ương cho kết quả tốt nhất của thí nghiệm 1 là 400
con/m3 được dùng cho thí nghiệm 2. Có 2 loại thức
ăn tổng hợp dùng để nuôi cá biển là UP (sản xuất
ở Việt Nam) và INVE (nhập từ Thái Lan) dùng cho
cá ăn với 4 loại khẩu phần ăn khác nhau: 4, 6, 8 và
10% BW, cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7h và 14h hàng
ngày. Ở nghiệm thức đối chứng, cá tạp được sử
dụng với 40% BW. Các nghiệm thức được lặp lại
đồng thời 3 lần và kéo dài trong 4 tuần. Máy quạt
nước để ở góc ao hoạt động theo chế độ như đã
trình bày ở thí nghiệm 1. Sinh trưởng, tỷ lệ sống
và hệ số phân đàn của cá ở các nghiệm thức được
kiểm tra 1 lần/tuần. Một số yếu tố môi trường như
độ mặn, nhiệt độ và pH được kiểm tra hàng ngày.

Bảng 1. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của loại thức ăn
và khẩu phần ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chim vây vàng
Khẩu phần %


4%

6%

8%

10 %

Thức ăn Inve

NT1

NT3

NT5

NT7

Thức ăn UP

NT2

NT4

NT6

NT8

3. Phương pháp xử lý số liệu

Xác định các chỉ số sinh trưởng, hệ số phân
đàn, FCR, tỷ lệ sống và năng suất thu được
sau 4 tuần nuôi được theo các công thức thông
dụng trên phầm mềm Excel. Phần mềm thống
kê SPSS được dùng để phân tích phương sai

96 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

một nhân tố (oneway-ANOVA) và hai nhân tố
(twoway-ANOVA), hàm LSD test được dùng
để kiểm định sự sai khác giữa các nghiệm
thức thí nghiệm với mức ý nghĩa p<0,05, giá trị
trình bày là giá trị trung bình (TB) ± sai số
chuẩn (SE).


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2013

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của cá chim vây vàng cỡ 3-4 cm
ương bằng giai đặt trong ao đất
Sau 4 tuần ương bằng giai đặt trong ao đất, với
các mật độ 100, 200, 300, 400 và 500 con/m3, sinh
trưởng về chiều dài (TL), (BW), tốc độ sinh trưởng
khối lượng theo ngày (SGRw), hệ số phân đàn,
năng suất (kg/m3), (FCR) và tỷ lệ sống (%) của cá
chim vây vàng ở các mật độ nuôi khác nhau được

thể hiện ở bảng 2.
Số liệu biểu thị ở bảng 2, sau 4 tuần ương
nuôi cho thấy, chiều dài toàn thân (TL) và khối
lượng (BW) trung bình của cá ở các mật độ nuôi
khác nhau từ 100, 200, 300, 400 và 500 con/m3 đã
tăng dần, lần lượt từ 4,00; 6,97; 7,08; 7,38; 7,25
cm và 5,86; 6,96; 7,91; 8,66 và 7,23 g/con. Trong
đó, cá nuôi ở NT 400 và 500 con/m3 có sinh trưởng

về chiều dài lớn hơn (p<0,05) so với các nghiệm
thức còn lại. Trong khi ở mật độ 400 con/m3
có BW, SGRW cao hơn (p<0,05) so với các NT
còn lại, nhưng lại không có sự sai khác (p>0,05)
với NT 300 con/m3. Kết quả cũng cho thấy ở mật
độ 400-500 con/m3 có năng suất (kg/m3) cao hơn
(p<0,05) so với các mật độ còn lại. Tỷ lệ sống trung
bình ở tất cả các mật độ từ 98,66 - 100% và không
có sự sai khác giữa các nghiệm thức (p>0,05).
Như vậy, nên ương cá chim vây vàng bằng giai
đặt trong ao đất ở mật độ 400 - 500 con/m3
đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với các mật độ
còn lại.
Số liệu ở bảng 2 cũng cho thấy ở mật độ 400 500 con/m3 có năng suất (kg/m3) cao hơn (p<0,05)
so với các mật độ còn lại. Tỷ lệ sống trung bình ở tất
cả các mật độ từ 98,66 - 100% và không có sự sai
khác giữa các nghiệm thức (p>0,05).

Bảng 2. Các chỉ số về sinh trưởng và hệ số phân đàn (CVL %) trung bình, năng suất (kg/m3), (FCR) và
tỷ lệ sống (%) của cá chim vây vàng ở các mật độ nuôi khác nhau
Các chỉ tiêu


Mật độ thả (con/m3)
100

200

300

400

500

TL (cm)

4,00 ± 0,00a

6,97 ± 0,02b

7,08 ± 0,06b

7,38 ± 0,03c

7,25 ± 0,05c

BW (g)

5,86 ± 0,13a

6,96 ± 0,38b


7,9 1 ± 0,38cd

8,66 ± 0,16d

7,23 ± 0,20bc

SGRW (%/ngày)

4,40 ± 0,08a

5,00 ± 0,19b

5,46 ± 0,17cd

5,79 ± 0,06d

5,14 ± 0,10bc

(CVL %)

7,30 ± 0,40b

6,10 ± 0,05a

6,99 ± 0,19ab

6,43 ± 0,26a b

8,23 ± 0,30c


Năng suất (kg/m3)

0,58 ± 0,01a

1,39 ± 0,07b

2,37 ± 0,11c

3,46 ± 0,06d

3,61 ± 0,10d

FCR

0,53 ± 0,00c

0,52 ± 0,00c

0,45 ± 0,00 b

0,40 ± 0,02a

0,40 ± 0,01a

Tỷ lệ sống (%)

98,66 ± 1,33a

100,0 ± 0,00a


100,0 ± 0,00a

100,0 ± 0,00a

100,0 ± 0,00a

Trong cùng 1 hàng, các chữ cái khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05); Sinh khối thả ban đầu ở các mật độ 100, 200, 300,
400 và 500 con/m3 lần lượt là 0,171; 0,342; 0,513; 0,684 và 0,855 kg/ m3

2. Ảnh hưởng của loại thức ăn và khẩu phần ăn
lên sinh trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và hiệu
quả sử dụng thức ăn của cá chim vây vàng
giống cỡ 2-3 cm
2.1. Sinh trưởng và hệ số phân đàn của cá chim vây
vàng cỡ 2-3 cm nuôi bằng các loại thức ăn và khẩu
phần ăn khác nhau
Chiều dài toàn thân, khối lượng, các chỉ tiêu
tăng trưởng và hệ số phân đàn CVL % của cá giống
với 2 loại thức ăn và 4 khẩu phần ăn khi kết thúc thí
nghiệm được trình bày ở bảng 3. Không có sự ảnh
hưởng tương tác của loại thức ăn và khẩu phần ăn
lên chiều dài toàn thân cá TL cm và hệ số phân đàn
CVL % (p>0,05).
Loại thức ăn ảnh hưởng (p<0,05) lên các chỉ
tiêu TL cm, BW, SGRW. Chiều dài toàn thân của cá

khi thu hoạch dao động trong khoảng 5,01±5,57 mm
và có xu hướng tăng ở nhóm cá sử dụng thức ăn
INVE. Tuy nhiên, loại thức ăn lại không ảnh hưởng
lên hệ số phân đàn CVL % (p>0,05) dao động từ

5,47-5,60 % và có xu hướng tăng ở nhóm cá ăn
thức ăn UP.
Số liệu ở bảng 3 cho thấy, cá chim vây
và ng cỡ 2-3 cm nuôi bằ ng thứ c ăn tổ ng hợ p
(UP hay INVE) có chiề u dà i trung bì nh lớ n nhấ t
(p<0,05) ở khẩ u phầ n ăn là 8 và 10% BW, khối
lượng trung bình và SGRW tăng dầ n và có sự
sai khác (p<0,05) khi khẩ u phầ n thứ c ăn tăng
từ 4 - 10% BW và cao nhấ t ở khẩu phần ăn
10% BW (p<0,05), tuy nhiên về hệ số phân đà n
(CVL%) lạ i không khá c nhau (p>0,05) giữ a cá c
nghiệ m thứ c.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 97


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2013

Bảng 3. Các chỉ tiêu sinh trưởng và hệ số phân đàn của cá chim vây vàng với các loại thức ăn
và khẩu phần ăn khác nhau (số liệu trong bảng là TB± SE)
Nghiệm thức

Chiều dài

Khối lượng
CVL (%)

BW (g)


SGR (%/ngày)

6,00 ± 0,22a
5,56 ± 0,22a
5,30 ± 0,22a
5,29 ± 0,22a

2,40 ± 0,04a
2,70 ± 0,04b
3,30 ± 0,04c
3,51 ± 0,04d

5,49 ± 0,06a
5,95 ± 0,06b
6,62 ± 0,06c
6,84 ± 0,06d

5.47 ± 0,10a
5.60 ± 0,2a
6.68 ± 0,24b

3,35 ± 0,18a
2,60 ± 0,09b
3,23 ± 0,03a

6,67 ± 0,19a
5,79 ± 0,14b
6,59 ± 0,03a


ns
ns
ns

*
*
*

*
*
*

TL (cm)

Khẩu phần ăn (%) (n = 6)
4%
5,02 ± 0,06a
6%
5,16 ± 0,06a
8%
5,44 ± 0,06b
10%
5,57 ± 0,06b
Loại thức ăn (n = 12)
Inve
5,57 ± 0,10a
UP
5,01 ± 0,04b
Cá tạp
5,42 ± 0,00a

Khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Loại thức ăn
*
Khẩu phần ăn
*
Loại thức ăn * khẩu phần ăn
ns

ns (no significant): sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05);(*) sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); Trong cùng một cột, chữ
cái khác nhau kèm theo thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); Chiều dài và khối lượng ban đầu lần lượt là 2,75±0,26 cm; 0,51±0,30
g; TL, BW: chiều dài và khối lượng toàn thân cá; CVL: hệ số phân đàn chiều dài và SGRW: tốc độ sinh trưởng đặc trưng theo khối lượng.

2.2. Tỷ lệ sống, năng suất và hệ số tiêu tốn thức ăn của cá chim vây vàng khi được nuôi bằng các loại thức ăn
và khẩu phần ăn khác nhau
Khi xem xét tác động riêng biệt của khẩu phần ăn (4, 6, 8 và 10% BW), hoặc của loại thức ăn (INVE hay
UP), các số liệu ở bảng 4 cho thấy, cá chim vây vàng cỡ 2,0 - 3,0cm ương bằng giai trong ao đất có tỷ lệ sống
cao, tỷ lệ sống trung bình của cá ở các nghiệm thức đạt từ 99,66 - 100% và không có sự khác biệt (p>0,05)
giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên, khẩu phần ăn khác nhau lại ảnh hưởng (p<0,05) lên năng suất thu được ở
các nghiệm thức sau 4 tuần ương nuôi, trong đó cá ở NT nuôi với khẩu phần thức ăn 10% BW đạt năng suất
lớn hơn (p<0,05) so với các khẩu phần ăn còn lại. Tương tự như vậy (FCR) cũng khác nhau (p<0,05) giữa
các nghiệm thức và cao nhất ở NT cho ăn 10% BW. Trong khi đó, cá ở NT dùng thức ăn tổng hợp Inve đã có
năng suất cao hơn (p<0,05) so với NT dùng thức ăn UP.
Tuy nhiên, với sự tác động đồng thời của 2 yếu tố là loại thức ăn (Inve hay UP) và khẩu phần ăn (4, 6, 8 và
10% BW) có năng suất ương nuôi (kg/m3) và FCR đã có sự sai khác (p<0,05).
Bảng 4. Tỷ lệ sống, năng suất và hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) của cá CVV khi ương bằng loại thức ăn
và khẩu phần ăn khác nhau (số liệu trong bảng là TB±SE)
Nghiệm thức

Khẩu phần ăn (%) (n=6)
4%

6%
8%
10 %
Loại thức ăn (n=12)
Inve
UP
Cá tạp
Khác nhau có ý nghĩa (p<0,05)
Loại thức ăn
Khẩu phần ăn
Loại thức ăn * khẩu phần ăn

Các chỉ tiêu đánh giá
Tỷ lệ sống (%)

Năng suất (kg/m3)

FCR (%)

99,66 ± 0,12a
99,83 ± 0,12ab
100,00 ± 0,12b
99,83 ± 0,12ab

0,96 ± 0,01a
1,08 ± 0,01b
1,32 ± 0,01c
1,40 ± 0,01d

0,22 ± 0,00a

0,27 ± 0,00b
0,42 ± 0,00c
0,54 ± 0,00d

99,91 ± 0,08a
99,75 ± 0,11a
100,00 ± 0,00a

1,34 ± 0,07b
1,04 ± 0,03a
1,29 ± 0,01b

0,36 ± 0,04a
0,37 ± 0,03a
2,52 ± 0,02b

ns
ns
ns

*
*
*

ns
*
*

ns(no significant): sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05); (*) sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); Trong cùng một cột, chữ
cái khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); Chiều dài và khối lượng ban đầu lần lượt là 2,75±0,26 cm; 0,51±0,30 g; TL,

BW: là chiều dài và khối lượng toàn thân cá; CVL: hệ số phân đàn chiều dài ; SGRW: tốc độ sinh trưởng đặc trưng theo khối lượng.

98 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×