MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ KẾ
TOÁN XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG
Hệ thống kế toán hiện hành áp dụng từ ngày 1/1/1996 đã được sử dụng hầu hết ở
các doanh nghiệp. Sự ra đời của hệ thống kế toán này thực sự là công cụ tác động
trực tiếp đến công tác quản lý taì chính doanh nghiệp, đặc biệt là trong công tác kế
toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh đã thể hiện một số mặt tích cực.
Về hệ thống các tài khoản:
Chi phí quản lý doanh nghiệp được tập hợp vào tài khoản 642, cuối kỳ kết chuyển
sang tài khoản 911, chứ không phân bổ vào giá thành hàng hoá nhập kho, hạn chế
ảnh hưởng rủi ro trong thị trường, đảm bảo an toàn vốn cho doanh nghiệp. Cách
hạch toán này làm cho doanh nghiệp có thể thua lỗ trong kỳ hạch toán song có hiệu
quả hơn kết quả lãi mà thực ra không có lợi nhuận như cách hạch toán cũ.
Việc thiết kế thêm tài khoản 159 “ dự phòng giảm giá hàng tồn kho” có tác dụng
làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp,giúp cho các doanh nghiệp phân biệt được
đâu là vốn “ sống ”, đâu là vốn “ chết ”.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, còn một số vấn đề chưa thật hợp lý trong hệ
thống tài khoản áp dụng trong công tác hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh
doanh. Đó là các vấn đề:
- Tài khoản 632 – giá vốn hàng bán – cách gọi tên chưa hợp lý vì nội dung tài
khoản này chưa phản ánh trị giá vốn hàng bán tại thời điểm xuất kho và chưa
phản ánh đầy đủ trị giá vốn của hàng bán ra:
-
Trị giá vốn Trị giá vốn Chi phí bán hàng Chi phí QLDN
của hàng = của hàng + phân bổ cho - phân bổ cho
bán ra xuất bán hàng bán ra hàng bán ra
Do đó nên đổi tên gọi TK 632 là “ giá vốn hàng xuất bán “ cho phù hợp
- Về việc ghi sổ tài khoản 142 ( 142.2): trong chế độ kế toán đã qui định chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong kỳ sau khi đã trừ đi các khoản
chi phí phân bổ cho sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ trong kỳ được phản ánh vào
TK 142 ( 142. 2) chi phí chờ kết chuyển nhưng cách hướng dẫn ghi sổ chưa
hợp lý. Cuối kỳ số chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp chờ kết
chuyển vào tài khoản 142 (142.2), sang đầu kỳ sau ghi ngược trở lại vào TK
641, TK 642 thì sẽ hợp lý hơn, không nên ghi chuyển vào TK 911 như chế độ
đã hướng dẫn.
Về tài khoản 531 – chiết khấu bán hàng và tài khoản 532 – giảm giá hàng bán
+ tài khoản 531 hiện nay mới đề cập đến chiết khấu thương mại. Do vậy nếu
giữ nguyên nội dung kết cấu của tài khoản 531 thì tên gọi nên sửa lại cụ thể là “
chiết hấu thanh toán bán hàng “ hoặc có thể sửa lại nội dung tài khoản, bao gồm cả
chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại (được phản ánh trên các khoản tài
khoản lại cấp lại )
+ tài khoản 532 – giảm giá hàng bán – bao gồm các khoản giảm giá, bớt giá, hồi
khấu của việc bán hàng trong kỳ hạch toán. Trong đó, “hồi khấu “ là khoản giảm
trừ tính trên tổng số nghiệp vụ đã thực hiện với khách hàng trong thời gian nhất
định. Người bán thực hiện khoản hồi khấu cho người mua ngay sau khi đã bán
được hàng. Quy định này nói lên mâu thuẫn vì ngay sau khi đã bán được hàng thì
phần lớn không thể tổng hợp tổng số các nghiệp vụ đã thực hiện với một khách
hàng trong cùng một thời gian nhất định. Vì thế tàikhoản 532 chỉ nên dùng để phản
ánh các khoản giảm giá trong những trường hợp đặc biệt như hàng kém phẩm chất,
sai quy cách hay khách hàng không mua với số lượng lớn.
+ 3 tài khoản 531, 532, 521 nếu có thể chỉ cần gộp lại thành một tài khoản “ các
khoản làm giảm doanh thu “, nội dung của 3 tài khoản trên phẩn ánh trên các tiểu
khoản vì 3 tài khoản này đều phản ánh bản chất của một sự việc giảm giá doanh
thu.
Hạch toán tổng hợp:
2.1 Hạch toán doanh thu nhận trước:
Theo nghị định 56/CP được ban hành ngày 3/10/96 thì các doanh
nghiệp có thể mở thêm tài khoản 338.7 phản ánh doanh thu nhận trước được sử
dụng trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ.
Bên nợ: + thuế phảI nộp theo số doanh thu nhận trước
+ kết chuyển doanh thu nhận trước sang tàI khoản doanh thu
Bên có: doanh thu nhận trước phát sinh trong kỳ
Dư có: doanh thu nhận trước chưa kết chuyển
Sơ đồ hạch toán :
TK333 TK338.7 TK111,112
Nộp thuế
TK333 TK511,512
Kết chuyển trong
từng kỳ thanh toán
2.2 Hạch toán doanh thu được trợ cấp, trợ giá:
Trong hệ thống tàI khoản này chưa đề cập đến doanh thu được trợ cấp, trợ
giá, song trong thực tế vẫn có một số doanh nghiệp nhà nước được nhà nước cung
cấp từ ngân sách. Doanh nghiệp có thể áp dụng một tiểu khoản 511.4: doanh thu
được trợ cấp, trợ giá để theo dõi khoản thu trên
Bên nợ: kết chuyển doanh thu được trợ cấp, trợ giá sang tàI khoản kết
quả
Bên có: doanh thu được nhà nước trợ cấp, trợ giá
Tiểu khoản này không có số dư
Sơ đồ hạch toán:
TK911 TK514 TK333.9 TK111,112,131,312.1
2.3 Hạch toán chi phí bảo hành sản phẩm ở các đơn vị sản xuất vốn:
Hiện nay, trong các doanh nghiệp sản xuất thường có bộ phận bảo hành sản
phẩm xuất đI bán, song phương pháp hạch toán chưa đáp ứng nhu cầu. Do vậy,
doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp hạch toán sau:
• Tại đơn vị không có bộ phận bảo hành độc lập:
- nếu trích trước chi phí bảo hành sản phẩm:
Nợ TK 641
Có TK 335
- khi chi phí bảo hành sản phẩm thực tế phát sinh:
Nợ TK621,622,627
Có TK152,334,338,331,214
- cuối kỳ tiến hành kết chuyển:
Nợ TK 154
Có TK621, 622, 627
- phân bổ chi phí bảo hành sản phẩm:
Nợ TK 335: trường hợp trích trước
Có TK 641: trường hợp không trích trước
Có TK 154
• Tại đơn vị có bộ phận bảo hành độc lập:
Ơ bộ phận làm nhiệm vụ bảo hành thông thường là các đơn vị hạch toán độc
lập thì nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chính
Sơ đồ hạch toán:
TK111,112 TK621,622,627 TK154 TK632 TK911 TK511
TK111, 112
Ơ doanh nghiệp:
TK111,112,336 TK335 TK641
2.4 Hạch toán hàng bán bị trả lại:
Theo phương pháp cũ, khi hạch toán hàng bán bị trả lại vào bên nợ
của tài khoản 911, theo chế độ kế toán thì sử dụng 2 bút toán:
- nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên:
+ kết chuyển doanh thu:
Nợ TK 531
Có TK 111,112,131
+ kết chuyển giá vốn:
Nợ TK 155, 156
Có TK 632: không phân biệt thời điểm trả lại
- nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ: thì cuối kỳ, khi kiểm
kê hàng hoá tồn kho phải tách riêng lô hàng bị trả lại và bút toán giá vốn không
phảighi vì dễ trùng lắp. Bên cạnh đó, kế toán phảI chú ý đến hạch toán thuế
doanh thu của hàng bán bị trả lại bởi đây là chỗ dễ nhầm lẫn.
2.5 Hạch toán hàng bán cho khách hàng mua trả góp:
Bản chất của phương thức bán hàng này là cho vay một phần. Khoản lãI
tiền vay kế toán hạch toán vào bên có của tàI khoản 711. Bút toán này chỉ hợp lý
trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhưng hầu hết trên
thực tế, các doanh nghiệp đều vay vốn của ngân hàng để thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh cho nên thực chất của việc trả lãi góp là chi phí trả lãi tiền vay cho
ngân hàng. Như vậy kế toán hạch toán đúng phải sử dụng theo sơ đồ sau:
TK511 TK112 TK338 TK138 TK111,112
toàn bộ tiền trả lãi cho doanh thu
thu bán hàng ngân hàng thu hộ cho
khi thanh ngân hàng
toán
Trong quá trình hạch toán, doanh nghiệp cần cải tiến một số mặt về chứng từ
như tiền thu bán hàng, tiền thuế VAT thu hộ hoặc số ngày khách hàng nhận nợ và
lãi do trả chậm. Bên cạnh đó, việc quản lý xuất khẩu thành phẩm phải hết sức chặt
chẽ, kịp thời nhằm khắc phục những sơ hở, lệch lạc trong quản lý và tổ chức hạch
toán.
Trong thực tế, công tác hạch toán và quản ký thành phẩm cũng như tiêu thụ
thành phẩm cũng đặt ra nhiều vấn đè cần khắc phục và hoàn thiện.
ở một số doanh nghiệp công tác quản lý còn lỏng lẻo,không chấp hành những
thủ tục quy định, không thực hiện chế độ kiểm kê cuối kỳ, sổ sách kho và kế toán
không thống nhất, sổ sách chứng từ còn thiếu và không đảm bảo. Nhà quản lý và
cán bộ chuyên môn chưa xác định rõ trách nhiệm, còn buông lỏng kiểm soát và
kiểm kê định kỳ. Việc chấp hành các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ tài chính, Vụ Kế
toán còn chưa nghiêm túc và chưa triệt để, kỷ cương,kỷ luật báo cáo còn chưa
nghiêm túc.
Vậy trong doanh nghiệp cần phải có một hệ thống thủ tục kiểm soát nội bộ, các
nhà quản lý phải quan tâm chỉ đạo công tác an toàn kho quỹ để bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp khỏi bị thất thoát lạm dụng nhằm khuyến khích hiệu quả hoạt động
và động viên sự tôn trọng triệt để các chính sách mà nhà quản lý đề ra.
Nhân viên kế toán phải là người có khả năng và đáng tin cậy. Nhà quản lý phải
phân định rõ trách nhiệm, tách biệt giữa người thủ kho và người kế toán thành
phẩm, tách biệt giữa người có thẩm quyền quyết định các nghiệp vụ và người giữ
tài sản liên quan, phân chia trách nhiệm để có thể kiểm tra chéo lẫn nhau. Khi có
sự phân chia nhiệm vụ thì cần phải có sự thông đồng giữa hai hoặc nhiều người
nếu muốn biển thủ tài sản và ăn cắp được giấu diếm trong sổ sách.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ trên phương diện lý thuyết nhằm tiếp tục hoàn
thiện hệ thống tài khoản cũng như chế độ sổ sách kế toán của hệ thống kế toán hiện
hành, cụ thể là nghiệp vụ hạch toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả. Cơ sở
để đưa ra những ý kiến trên đây, ngoài những kiến thức đã được nghiên cứu cả về
lý luận và thực tiễn. Với phương pháp ghi chép tài khoản kế toán này, mỗi doanh
nghiệp sẽ tự khẳng định sự tồn tại thực sự là một tế bào sống trong nền kinh tế thị
trường và ngược lại, nếu doanh nghiệp nào không đứng vững được trên thị trường
thì nó sẽ tự đào thải.