Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sử dụng di sản trong dạy học địa lý THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.97 KB, 9 trang )

CHUYÊN ĐỀ
SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ THCS
1. Nhận diện di sản.
a. Khái niệm về di sản văn hóa: Theo điều 1 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) 2009, định
nghĩa như sau:
Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể
(di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
b. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam:
- Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng
đồng 54 dân tộc anh em, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và
tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay.
- Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa
từ các nền văn hóa và văn minh của nhân loại.
- Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống mạnh mẽ,
đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
c. Phân loại di sản:
Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể và di sản văn
hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm:
- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Danh lam thắng cảnh (còn gọi là di sản thiên nhiên) là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa
điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử
thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa
học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu


của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật
thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc
của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
Ngữ văn dân gian, bao gồm: Sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ
tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải
bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết;
Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm: Âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình
thức trình diễn dân gian khác;

Trang 1


Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các
phong tục khác;
Lễ hội truyền thống;
Nghề thủ công truyền thống;
Tri thức dân gian.
2. Vai trò, ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông.
Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá
trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là nguồn cung cấp
chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục.
Bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài liệu về lý luận dạy học,
giáo dục chung, đại cương và tài liệu về lý luận dạy học bộ môn hầu như chưa đề cập đến
điều kiện, phương tiện dạy học là các di sản văn hóa. Gần đây trong phong trào thi đua xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, một trong những hoạt động được đặt ra là tổ
chức cho HS tham gia chăm sóc các di sản, chủ yếu là các di tích mang tính lịch sử của địa

phương. Việc khai thác các di sản văn hóa ở địa bàn nhà trường đóng như là nguồn tri thức,
là phương tiện dạy học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có thường mang tính tự
phát. Vì vậy, vai trò và thế mạnh của những di sản văn hóa phong phú ở địa phương chưa
được khai thác đúng mức để sử dụng trong dạy học và các hoạt động giáo dục của nhà
trường. Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập của
HS trở nên hấp dẫn hơn, HS hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc
lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS.
* Vai trò: Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy
học nói riêng, giáo dục nói chung.
* Ý nghĩa:
+ Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh;
+ Giúp HS phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức;
+ Kích thích hứng thú nhận thức của HS;
+ Phát triển trí tuệ của HS;
+ Giáo dục nhân cách HS.
* Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở HS:
+ Kĩ năng giao tiếp;
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực;
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng;
+ Kĩ năng hợp tác;
+ Kĩ năng tư duy phê phán;
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm;
+ Kĩ năng đặt mục tiêu;
+ Kĩ năng quản lí thời gian;
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
* Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của GV và HS một cách hợp lí.
3. Danh mục tóm tắt các di sản sử dụng trong dạy học, giáo dục ở nhà trường phổ
thông.
* Tính đến năm 2016, Việt Nam được UNESCO công nhận 27 di sản, bao gồm:
- 03 di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long - Quảng Ninh (1994 và 2000), vườn

quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Quảng Bình (2003 và 2015), Cao nguyên đá Đồng Văn - Hà
Giang thuộc mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (2010).

Trang 2


- 05 di sản văn hóa thế giới: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Phố cổ Hội An Quảng Nam (1999), Thánh địa Mỹ Sơn - Quảng Nam (1999), Hoàng thành Thăng Long - Hà
Nội (2010), Thành nhà Hồ - Thanh Hóa (2011),
- 12 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại: Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Không
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (2005), Dân ca quan họ Bắc Ninh (2009), hát Ca Trù
của người Việt (2009), Khu Hoàng thành Thăng Long (2010), Hội Gióng tại đền Sóc và đền
Phù Đổng (2010), Hát Xoan - Phú Thọ (2011), Thành Nhà Hồ (2011), Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương - Phú Thọ (2012), Đờn ca tài tử Nam Bộ (2013), Ví dặm - Hà Tĩnh (2014),
Nghi lễ và trò chơi kéo co (2015).
- 06 di sản thông tin tư liệu, kí ức thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2010), 82 bia đá ở
Văn Miếu Quốc Tử Giám (2010), Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm - Bắc Giang (di sản
tư liệu kí ức thế giới 2012), Châu bản vương Triều Nguyễn (2014), thơ văn trên kiến trúc
cung đình Huế (2016), Mộc bản trường học Phúc Giang - Hà Tĩnh (2016).
- 01 di sản thế giới hỗn hợp: Quần thể danh thắng Tràng An (là di sản thế giới kép vừa
thiên nhiên vừa văn hóa - 2014)
* 08 khu dự trữ sinh quyển thế giới: Rừng ngập mặn Cần Giờ - TPHCM (2000), khu dự
trữ sinh quyển Đồng Nai (2001), khu dự trữ sinh quyển đảo Cát Bà - Hải Phòng (2004), khu
dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang (2006), khu dự trữ sinh quyển đồng bằng
châu thổ sông Hồng (2004), khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An (2007), khu dự trữ
sinh quyển mũi Cà Mau (2009), khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm (2009).
* Ngoài ra còn có trên 3000 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, các
khu Ramsa,…
Có thể nói rằng, di sản văn hóa Việt Nam là nguồn tài nguyên vô tận để dạy và học suốt
đời với một kho tàng tri thức phong phú, đa dạng của nhân loại. Mọi di sản đều có giá trị, có
tiền năng và điều kiện để sử dụng trong dạy học, giáo dục ở trường phổ thông với quan điểm

di sản luôn ở xung quanh chúng ta.
4. Khai thác giá trị di sản tại địa phương trong việc tổ chức dạy học Địa lý ở
trường THCS.
Quảng Trị là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, giao thoa giữa nền văn hóa phía Bắc và
phía Nam của đất nước.( ......)
5. Một số hình thức tổ chức dạy học thông qua di sản.
Dạy học thông qua các di sản, hay giáo dục thông qua các di sản là phương pháp tối ưu
không chỉ giúp cho HS củng cố, mở rộng các kiến thức đã được truyền thụ trên lớp, mà còn
bồi dưỡng trực tiếp cho các em năng lực cảm nhận cái đẹp, cái hay qua các công trình kiến
trúc, các mảng chạm khắc lộng lẫy ở các đình, chùa... qua các làn điệu dân ca, qua các cảnh
quan thiên nhiên vừa gần gũi, vừa say đắm lòng người. Đồng thời, giúp HS tích lũy vốn
sống, kỹ năng lao động, kỹ năng giao tiếp; kỹ năng ứng xử, tôn trọng quá khứ để vững bước
tiến vào tương lai v.v...
5.1. Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học và các hoạt động giáo dục ở
trường phổ thông.
Di sản văn hóa có ý nghĩa nhất định đối với quá trình dạy học, giáo dục. Tuy nhiên
muốn sử dụng chúng có hiệu quả, người GV phải chú ý tuân thủ một số yêu cầu về chuẩn bị
các điều kiện thực hiện dạy học với di sản và triển khai hoạt động dạy học với di sản:
- Đảm bảo mục tiêu của CT GDPT và mục tiêu GD di sản;
- Xác định nội dung của bài học (trong CT) để có thể lồng ghép, liên hệ, thực hiện dự
án, tổ chức dạy học thực địa…;

Trang 3


- Về nội dung liên quan đến di sản, GV cần cân nhắc những yêu cầu đã được xác định;
- Đảm bảo không tăng tải, tính hấp dẫn, thực tiễn, tính khả thi…;
- Phát huy tính tích cực, chủ động của HS, tạo điều kiện cho HS trải nghiệm;
- Kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức thực hiện.
5.2. Các hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục với di sản

5.2.1. Sử dụng di sản văn hóa để tiến hành bài học trên lớp.
Tài liệu về di sản đóng vai trò là một nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hoá,
làm phong phú hơn nội dung bài học do quy định số trang có hạn, sách giáo khoa không đề
cập tới. Nó làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ đơn thuần là con số, các sự
kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn, giúp cho HS tái hiện được kiến thức và hiểu
bài nhanh, nhớ lâu hơn. Để khai thác các tài liệu về di sản phục vụ cho bài nội khoá một
cách có hiệu quả thì GV phải tuân thủ những yêu cầu sau:
- Tiến hành sưu tầm, lựa chọn di sản văn hóa để sử dụng trong bài;
- Xác định nội dung để sử dụng di sản vào mục, phần nào trong bài;
- Phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản.
- Tổ chức soạn bài, giảng dạy theo kế hoạch.
- Tài liệu di sản có nhiều nhưng do thời gian của một tiết trên lớp có hạn (45 phút) nên
đòi hỏi GV phải biết chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ
thống phù hợp với tiến trình bài học kết hợp với các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ
thuật hiện đại làm cho bài học sinh động hơn.
Sử dụng tài liệu về di sản khi tiến hành bài học trên lớp là phương pháp khá phổ biến
được đa số GV sử dụng. Do những điều kiện chủ quan và khách quan của từng địa phương,
của từng trường, đặc biệt là những địa phương ở xa nên GV nhiều khi không thể tiến
hành bài nội khoá ngay tại nơi có di sản. Để bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thú
học tập cho HS, GV phải sử dụng các phương tiện trực quan trong bài giảng.
Có thể tiến hành khai thác tài liệu về di sản bằng cách: Nhà trường tạo mọi điều kiện
tốt nhất, đặc biệt là hỗ trợ về vật chất cho GV bộ môn đến các nơi có di sản sưu tầm tài liệu
phục vụ cho việc dạy học. Giáo viên bộ môn nên phát động HS tham gia sưu tầm tài liệu,
tranh ảnh hoặc hiện vật về di sản của địa phương phục vụ cho hoạt động dạy học. Công việc
này có thể phát động thường xuyên hoặc trong các bài có nội dung tích hợp di sản, thông qua
đây mà tạo hứng thú học tập và bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học cho HS. Sau khi đã
sưu tầm được tài liệu về di sản, GV phải tiến hành phân loại cho phù hợp với nội dung từng
bài học cụ thể và sắp xếp thành hồ sơ dạy học (nên đánh giá sản phẩm của HS để phân loại).
Thực tế bản thân tôi đã làm cho thấy, nhiều em rất có ý thức sưu tầm và mang đến cho học
sinh những điều thú vị khi các em sưu tầm được tài liệu theo ý muốn, qua đó các em có hứng

thú học tập hơn nhiều.
5.2.2. Tiến hành bài học tại nơi có di sản - Bài học tại thực địa
Bài học là hình thức tổ chức cơ bản của việc dạy học ở trường phổ thông. Bài học
không chỉ tiến hành ở trên lớp mà còn có thể tiến hành ở nơi có di sản (thực địa). Nó được
thực hiện theo nội dung quy định của chương trình và hoàn toàn khác với các hoạt động
ngoại khoá tại di sản. Tuy hình thức học tập có thay đổi song bài học tại thực địa là bài học
nội khoá, một mắt xích trong toàn bộ khoá trình có liên quan đến các bài học khác. Việc học
tập loại bài này là bắt buộc đối với tất cả HS.
Tuy nhiên, bài học địa phương chỉ được tiến hành học thực địa tại nơi có di sản ở địa
phương mà thôi, còn bài học trong chương trình sách giáo khoa có thể tiến hành ở bất kỳ địa
danh nào có di sản. Đây là dạng bài học tích hợp di sản toàn phần. Do đó, tại nơi có di sản,

Trang 4


GV có thể tiến hành hai loại bài học: bài học nghiên cứu kiến thức mới và bài học ôn tập, sơ
kết, tổng kết.
Đối với bài học có trong SGK môn học: Bài giảng tại di sản cần bổ sung các tài liệu
địa phương phù hợp bằng cách vừa giảng, vừa kết hợp tổ chức cho HS quan sát, tìm hiểu các
hiện vật, chứng tích thực địa có liên quan tới bài học. Hoặc sau khi giảng dạy xong nội dung
của bài học, GV tổ chức cho HS quan sát, tìm hiểu các loại tài liệu, hiện vật liên quan đến
bài. Bổ sung tài liệu về địa phương, tài liệu về di sản làm sinh động, sâu sắc hơn nội dung
bài giảng.
Đối với bài học về các nội dung địa phương: Nội dung bài giảng tại di sản có thể do
GV thiết kế theo tài liệu hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc do GV tự biên soạn.
Bài học tại thực địa có ý nghĩa rất lớn đối với HS về cả ba mặt: Kiến thức, kỹ năng và
thái độ. Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống có tác
dụng nâng cao hiểu biết về kiến thức môn học, về văn hoá – giáo dục, lòng yêu quê hương,
đất nước, óc thẩm mĩ cho các em.
5.2.3. Tổ chức tham quan ngoại khóa – trải nghiệm di sản

Tham quan ngoại khoá, trải nghiệm di sản có một vị trí quan trọng trong dạy học ở
trường phổ thông. Những dấu vết, hiện vật tại di sản không chỉ có tác dụng cụ thể hoá kiến
thức môn học, mà còn để lại một ấn tượng mạnh mẽ, nâng cao hứng thú học tập và rèn luyện
kỹ năng quan sát, tư duy của HS.
Về thời điểm tổ chức, có thể tiến hành trong hè, đầu năm học hoặc nhân dịp kỉ niệm các
ngày lễ lớn trong năm như ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), ngày thành
lập Đảng (03/02), kỉ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5), ngày truyền thống của
quê hương….
Để cho việc tổ chức được chu đáo, tránh các sự cố xảy ra, cần phải có kế hoạch và
phương pháp tiến hành, quy định thời gian và nhiệm vụ của HS. Đồng thời để buổi tham
quan di sản đạt kết quả tốt cần có sự phối hợp giữa GV các bộ môn liên quan với tổ chức
Đoàn – Đội trong nhà trường.
5.2.4. Sử dụng di sản văn hóa để tổ chức các hoạt động ngoại khoá khác
5.2.4.1. Khai thác và sử dụng tư liệu về di sản để tổ chức triển lãm, ra báo học tập
Nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước, ngày truyền thống của quê hương hay quy định
hàng tháng, GV bộ môn kết hợp với Đoàn thanh niên hoặc Đội thiếu niên Tiền phong tổ
chức cho HS (theo khối, lớp) sưu tầm tài liệu về di sản để triển lãm hoặc ra báo học tập (báo
tường). Hoạt động này sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS trong học tập, nâng cao
năng lực nhận thức và hứng thú học tập cho các em. Ví như, để hiểu rõ công lao của Bác Hồ
trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, GV tổ chức cho HS sưu tầm, sử dụng các tài
liệu, tranh ảnh chụp những hiện vật ở bảo tàng, nhà truyền thống, nhà lưu niệm về Bác ở địa
phương để làm báo tường, triển lãm các hình ảnh về hoạt động của Người theo từng giai
đoạn hoạt động…
5.2.4.2. Tổ chức thi tìm hiểu về di sản ở địa phương
Đây là một hoạt động ngoại khoá rất quan trọng, một biện pháp để thực hiện gắn nhà
trường với đời sống xã hội, giúp HS được quan sát trực tiếp, “sinh động” cuộc sống xung
quanh như là một nguồn kiến thức “ngoài sách vở”.
Hình thức thực hiện là các cuộc thi theo nhiều cách khác nhau: Thi dưới dạng sân khấu
hóa; thi viết bài; thi hùng biện, thi theo các hình thức như trên truyền hình…


Trang 5


Hoạt động ngoại khoá này cũng có thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của
đất nước, ngày truyền thống địa phương hoặc kết hợp với các phong trào thi đua của nhà
trường theo chủ đề năm học trong chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp.
5.2.4.3. Kể chuyện về di sản.
Đây là hình thức hoạt động ngoại khoá hấp dẫn, dễ làm và có tác dụng giáo dục cao.
Nội dung kể chuyện về di sản là việc phổ biến kiến thức một cách khoa học, không
phải những chuyện hư cấu. Do đó, nội dung câu chuyện kể phải có chủ đề (về một sự kiện
lịch sử, một nhân vật, một địa danh liên quan đến di sản) và dựa vào tài liệu chính xác.
Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các kiến thức cơ bản trong bài học của bộ
môn, chính xác, tránh những chi tiết li kì không có giá trị khoa học, không phù hợp với yêu
cầu học tập, tránh làm chệch hướng nội dung kiến thức theo chuẩn.
Kể chuyện phải làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với sự kiện ấy, như
câu chuyện của các nhân chứng lịch sử hay người kể lại đã “nhập thân” với sự kiện. Kể
chuyện khác với thông báo, bao giờ cũng có chủ đề, có tình tiết.
Nội dung bài kể chuyện không chỉ có khối lượng tri thức cần cung cấp, mà còn bao
gồm cả việc phân tích, nêu lên bản chất của sự vật. Nội dung một câu chuyện kể thông
thường bao gồm các yếu tố: giới thiệu vấn đề, tình huống đặt ra, diễn biến sự kiện, sự phát
triển của tình tiết đến cao độ, câu chuyện kết thúc.
Việc kể chuyện về di sản có thể tổ chức khi điều kiện thuận lợi, song tốt nhất là vào dịp
các ngày lễ kỉ niệm lớn, ngày truyền thống quê hương.
GV bộ môn báo cáo với Hiệu trưởng nhà trường về kế hoạch mời người đến kể chuyện
về di sản cho các em HS. GV có thể mời các chiến sĩ cách mạng lão thành tiêu biểu, những
“nhân chứng” đã chứng kiến, tham gia các sự kiện tại di sản, những người thân của các nhân
vật có liên quan đến di sản.
5.2.4.4. Tổ chức cho HS chăm sóc, bảo vệ các di sản văn hóa ở địa phương.
Đây là hoạt động ngoại khóa có tác dụng giáo dục cho HS ý thức trách nhiệm trong
việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa mà ông cha ta để lại. Đồng thời qua việc tổ chức

cho HS chăm sóc, bảo vệ các di sản văn hóa ở địa phương còn làm tăng mối quan hệ gắn bó
giữa nhà trường với địa phương, gắn việc dạy học lịch sử với thực tế cuộc sống.
Ngoài các hình thức sử dụng di sản trên (dạy học trên lớp; dạy học tại di sản; tham
quan, trải nghiệm di sản; các hoạt động ngoại khóa: Triển lãm, ra báo học tập; thi tìm hiểu về
di sản; kể chuyện, nói chuyện về di sản) thì có thể sử dụng di sản như một phương tiện cho
hoạt động giáo dục HS trong các hình thức tổ chức sau:
+ Sinh hoạt tập thể lớp, trường đầu tuần với chủ đề có liên quan tới di sản tại địa
phương hoặc di sản quốc gia, quốc tế được công nhận.
+ Nhà trường có thể chiếu phim tư liệu, hoặc tổ chức các họat động khác liên quan đến
di sản được lựa chọn,....
+ Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo các chủ đề được xác định hoặc chọn bổ
sung chủ đề liên quan đến di sản.
+ Sinh hoạt Đoàn, Đội với nội dung liên quan đến di sản.
+ Tổ chức câu lạc bộ những người yêu thích tìm hiểu về di sản.
+ Tổ chức các cuộc thi đố vui, các cuộc giao lưu tìm hiểu về di sản.
+ Tổ chức sinh hoạt chuyên đề về di sản cho HS toàn trường, theo khối lớp hoặc từng
lớp.
6. Một số phương pháp dạy học, giáo dục với di sản.

Trang 6


6.1. Việc sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông trước hết phải thông qua
các phương pháp truyền thống phù hợp với môn học:
- Trình bày miệng:
Trong dạy học nói chung, PP trình bày miệng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì lời nói giữ
vai trò chủ đạo đối với việc giảng dạy của GV và học tập của HS. Việc trình bày miệng
không chỉ giúp HS khôi phục hình ảnh về nội dung bài học đang nghiên cứu mà còn giúp
các em nhận thức sâu sắc kiến thức, trình bày những suy nghĩ, hiểu biết trong nghiên cứu,
tìm tòi.

Có nhiều cách trình bày miệng như tường thuật, miêu tả, kể chuyện, giải thích,… GV
cần phải căn cứ vào đặc trưng môn học để sử dụng cho phù hợp. Song khi sử dụng các cách
của trình bày miệng đều phải đảm bảo yêu cầu phát huy tính tích cực của HS.
- Sử dụng đồ dùng trực quan, kết hợp với miêu tả, tường thuật…
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, nhằm tạo cho HS
những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang
học hay đồ dùng trực quan minh hoạ sự vật.
Dạy học một số bộ môn với di sản có thể sử dụng các loại đồ dùng trực quan như:
+ Đồ dùng trực quan hiện vật, bao gồm những di tích văn hoá, di tích lịch sử và cách
mạng, những di vật khảo cổ hoặc di vật thuộc các thời đại lịch sử.
+ Đồ dùng trực quan tạo hình, bao gồm mô hình, sa bàn và các loại đồ phục chế khác,
hình vẽ, phim ảnh, ảnh. Loại đồ dùng trực quan này, GV có thể khai thác, sưu tầm, chụp ảnh
từ các di sản đem về trường phổ thông để dạy học. Đó là hình thức sử dụng tài liệu, tranh
ảnh… về di sản để tiến hành bài học ở trên lớp.
+ Loại đồ dùng trực quan quy ước, bao gồm các loại bản đồ, đồ thị, sơ đồ, bảng biểu,…
Loại đồ dùng trực quan này, GV cũng có thể khai thác, sưu tầm từ bảo tàng, di tích hoặc dựa
vào tài liệu viết về di sản để xây dựng phục vụ các bài học tiến hành ở trên lớp hay bài học
tại di sản (thực địa).
- Sử dụng phương pháp trao đổi, đàm thoại: Đây là việc mà GV nêu ra các câu hỏi để
HS trả lời, đồng thời các em có thể trao đổi với nhau, dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó đạt
được mục đích học tập đề ra. Tuỳ theo môn học, có thể vận dụng các dạng trao đổi như tái
hiện tài liệu, trao đổi phân tích và khái quát hóa, trao đổi tìm tòi phát hiện, trao đổi ôn tập,
tổng kết, trao đổi kiểm tra,…
6.2. Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại.
Trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung, cần kế thừa, phát triển mặt tích cực của
hệ thống phương pháp dạy học quen thuộc, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số phương
pháp dạy học mới và phương tiện dạy học hiện đại phù hợp với điều kiện của đất nước, nhà
trường, địa phương.
- Học theo hợp đồng: “Là một hoạt động học tập trong đó mỗi HS được giao một hợp
đồng trọn gói bao gồm các dịch vụ (bài tập) bắt buộc và tự chọn khác nhau trong một

khoảng thời gian nhất định. HS chủ động và độc lập quyết định về thời gian cho mỗi nhiệm
vụ (bài tập) và thứ tự thực hiện các nhiệm vụ (bài tập) đó theo khả năng của mình.
Hợp đồng học tập có thể hiểu là một nhiệm vụ thống nhất và khả thi giữa hai bên GV
và cá nhân HS, theo đó cam kết của HS sẽ hoàn thành nhiệm vụ trong một khoảng thời gian
nhất định. Hợp đồng học tập còn được gọi với các tên khác như: Kế hoạch học tập, thỏa
thuận thực hiện, cam kết học tập”.
- Dạy học theo dự án: Là một hình thức (phương pháp nghĩa rộng) dạy học, trong đó
người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực

Trang 7


hành, thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ
quá trình học tập, từ xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, thu thập
thông tin, phân tích dữ liệu, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả…làm việc
nhóm là dạng tổ chức hoạt động chủ yếu của dạy học dự án.
Dạy học dự án có các đặc điểm: Định hướng thực tiễn, định hướng HS (hối thúc hành
động), định hướng sản phẩm.
- Dạy học nêu vấn đề: Đây không phải là một phương pháp cụ thể mà là các tư tưởng,
nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận dụng trong tất
cả các khâu của giờ học và là một kiểu dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri
thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học.
Bản chất của nó là tạo nên các tình huống có vấn đề và điều khiển người học giải quyết
những vấn đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho người học lĩnh hội vững chắc kiến thức
mới, kĩ năng mới hoặc thái độ tích cực.
6.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Hiện nay, trong dạy học các bộ môn ở trường phổ thông, để đảm bảo yêu cầu nghe nhìn
của HS, bên cạnh các đồ dùng trực quan truyền thống, GV cần thiết sử dụng máy vi tính với
các phần mềm thông dụng mà phổ biến hiện nay là phần mềm Microsoft Power Point. Ứng
dụng CNTT vào dạy học ở trường phổ thông có tác dụng thiết thực trong việc tạo hứng thú

học tập và tích cực hóa hoạt động của các em để góp phần đạt được mục tiêu giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển toàn diện HS. Đây là một biện pháp tích cực góp phần vào đổi mới
PPDH hiện nay. Song khi sử dụng CNTT vào dạy học các bộ môn cần phải lưu ý:
- Sử dụng CNTT nói chung, phần mềm Power Point nói riêng vào dạy học phải đảm
bảo mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học được thể hiện qua mục tiêu bài học.
- Sử dụng phần mềm Power Point phải góp phần đảm bảo tính trực quan trong dạy học.
Khả năng trình bày đa phương tiện và tương tác của phần mềm Power Point phải có tác dụng
gây hứng thú học tập của HS một cách tích cực.
- Tuy vậy, không nên “lạm dụng” việc sử dụng CNTT vào dạy học, biến giờ học thành
giờ “trình diễn hình ảnh”, dạy học theo “kiểu nhìn chép” và HS chỉ đóng vai trò “khám thị”
một cách say mê cho thích mắt song bị động và không có tác dụng nhiều trong việc tiếp thu
kiến thức.
Sử dụng di sản trong dạy học có ưu thế ở trường phổ thông có khả năng và cần thiết
ứng dụng CNTT, GV bộ môn có thể khai thác các tranh, ảnh, hiện vật, dấu tích… của di sản
xây dựng thành những phần mềm phục vụ các bài học ở trên lớp, hay hoạt động ngoại khóa
tại trường phổ thông. Tuy nhiên, khi sử dụng những phần mềm đã xây dựng trong dạy học
đều phải chú ý những điều đã nêu ở trên và phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
7. Một số lưu ý khi dạy học, giáo dục qua các di sản đạt hiệu quả cao.
Một là: Về nhận thức thì giáo dục qua di sản là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả một
hệ thống chính trị, trước hết là của các gia đình và nhà trường (xã hội hóa giáo dục).
Hai là: Giáo dục thông qua di sản là phương thức giáo dục vừa có tính phổ biến, vừa
không phụ thuộc vào độ tuổi của người học và đạt hiệu quả cao, góp phần tạo lập, phát triển,
hoàn thiện nhân cách con người và không đòi hỏi quá nhiều chi phí, “chơi mà học, học mà
chơi”: Khi trẻ mới sinh, sự vuốt ve, cưng nựng, lời ru và tiếng hát của người mẹ từ ngày này
qua ngày khác thật sự đã xác lập được phản xạ có điều kiện đầu tiên ở não bộ trẻ. Để rồi sau
đó, lúc trẻ giận hờn, mẹ nựng, mẹ ru “cơn hờn” dịu lại. Lúc trẻ vẫn đang mải chơi, nhưng đã
đến giờ trẻ cần được ngủ, mẹ bế trẻ và chỉ vài động thái cưng chiều, vài lời hát ru, trẻ đã
“chìm sâu vào giấc ngủ ngon lành”. Khi trẻ biết nói, biết nhận biết, não bộ trẻ bắt đầu hình

Trang 8



thành được các khái niệm, từ giản đơn đến phức tạp, mà những khái niệm đầu đời ấy chính
là di sản văn hoá: tiếng nói, đồ vật, cái nôi, cái giường, cái chăn, cái bát, cái thìa, đôi đũa, cái
nhà mà trẻ vẫn tiếp xúc hàng ngày, v.v... Tới tuổi cắp sách tới trường, trẻ lại một lần nữa
được làm quen, được tiếp cận với di sản văn hoá... Thế là các khái niệm được định hình và
trở thành hữu thức khi được tiếp nhận ở các lớp học tiếp theo, v.v...
Ba là: Dạy và học thông qua các di sản văn hoá là phương pháp trực quan, sinh động
và thực sự có hiệu quả. Ở đây, mức độ là “sử dụng” di sản văn hóa, coi di sản văn hóa như là
phương tiện, tư liệu dạy học, hỗ trợ cho bài học thêm sinh động, học sinh hứng thú, qua đó
giáo dục học sinh lòng yêu quê hương, đất nước; giáo dục truyền thống, đạo lý, hình thành
nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh; giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa dân
tộc.
Bốn là: Để nhằm tăng cường tính hành dụng trong học tập, củng cố và hoàn thiện các
kiến thức đã học trên lớp, góp phần bổ sung, nâng cao kiến thức và giải quyết các vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn, giúp cho mỗi cá nhân và cộng đồng hiểu biết về di sản, biết bảo vệ,
tuyên truyền cho cộng đồng, bảo vệ di sản; có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản.
Dạy – học thông qua di sản chỉ đạt kết quả cao khi được tổ chức có kế hoạch, có sự liên
kết chặt chẽ giữa nhà trường với địa phương; xác định rõ chủ đề dạy, học tại trường, tham
quan và đa dạng hoá các hình thức thể hiện trong giờ ngoại khoá tại trường, trong mỗi lần
tới di tích, tới bảo tàng. Di sản quanh chúng ta, rất gần gũi với chúng ta, nên trước hết cần
khai thác các di sản có sẵn tại địa phương; sau đó, nếu có điều kiện mới tiến tới đưa HS đến
các di sản ngoài địa phương.

Trang 9



×