Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO SANG THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.62 KB, 27 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO SANG THỊ
TRƯỜNG CHÂU PHI CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC
MIỀN NAM (VINAFOOD2)
3.1. Tổng quan về thị trường Châu Phi.
3.l.1. Vị trí địa lý.
Với tổng diện tích 30 triệu km
2
, Châu Phi của 54 quốc gia giáp biển Đại Trung
Hải và Hồng Hải ở phía Bắc và Đông Bắc. Đây là hai mạch máu giao thông biển sầm
uất mà từ ngàn xưa nay những thế lực kinh tế và chính trị lớn nhất thế giới vẫn muốn
giữ địa vị thống trị. Đối diện với Châu Phi là những nền văn minh La Mã, Hy Lạp và
Trung Đông. Phía Tây Châu Phi là biển Đại Tây Dương mênh mông, phía Đông là biển
Ấn Độ Dương.
Về khí hậu do Châu Phi nằm trên đường xích đạo và 2 chí tuyến Bắc và Nam nên
khí hậu Châu Phi không đồng nhất. Ở phía Bắc và Nam vùng Châu Phi xích đạo, nơi có
mưa quanh năm.
Về hệ thực vật và động vật: rất phong phú và bí ẩn. Đặc biệt việc buôn bán động
vật quý hiếm và ngà voi luôn đem lại những nguồn lợi khổng lồ. Cho dù đây là hành
động phi pháp nhưng nó không ngừng tăng lên và hầu như không thể giải quyết ở Châu
Phi.
Về tài nguyên thiên nhiên: Châu Phi được xem là kho tàng ngầm đáng thèm muốn
nhất. Bởi vì trong 50 loại khoáng sản chủ yếu của nền kinh tế thế giới, Châu Phi đứng
đầu về trữ lượng của 50 loại : kim cương chiếm 90% của thế giới, côban chiếm 87%,
vàng chiếm 67% phốt phát chiếm 70%, crôm chiếm 54%, măng gan chiếm 70%,
uranium chiếm 37% đồng và bô xít chiếm 21%. Đặc biệt kho tàng ngầm của Châu Phi
đã tăng vượt bậc khi những mỏ dầu và khí đốt được phát hiện và khai thác ở Angeri,
Nigêria, Anggôla, Ly bi. . .Chính tiềm năng về khoáng sản này đã làm cho một số nước
Châu Phi, mặc dù có trình độ phát triển kinh tế và hiện đại hóa còn thấp kém nhưng vẫn
có một vị trí đáng kể và tiếng nói nhất định trên thị trường quốc tế.
3.1.2. Con người-dân cư và nguồn nhân lực.
Châu phi là nơi có tỉ lệ tăng dân số cao, mặc dù tỉ lệ tử vong đặc biệt là trẻ


em,được xếp hàng đầu thế giới. Tỉ lệ tăng dân số hằng năm của Châu Phi là khoảng
2,6% và đến hiện nay dân số Châu Phi đã đạt gần 1 tỷ người.
Phân bố dân cư ở Châu Phi không đều. Có mật độ dân số lớn nhất là Nigêria,
Ethiopia, thung lũng sông Nin và quanh vùng hồ Victoria và Tanganynia. Ngoài ra
những thủ đô và hải cảng là nơi tập trung phần lớn dân cư. Châu Phi là châu lục thường
xuyên xảy ra nạn đói và thất học khá phổ biến (đặc biệt nước có tỷ lệ mù chữ cao nhất
là Burkina). Ngoài ra Châu Phi còn là lục địa của các dịch bệnh như sốt rét, bệnh đường
ruột và AIDS. Châu Phi là lục địa đứng đầu về số người nhiễm HIV, và số người chết vì
AIDS. Theo báo cáo mới đây nhất của Liên Hợp Quốc, thì trên thế giới có 4,2 triệu
bệnh nhân AIDS thì 3,4 triệu là ở Châu Phi.
Về nguồn nhân lực: Chất lượng dân số thấp dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa số
lượng và chất lượng vì vậy Châu Phi là một thị trường lao động đông đảo, dồi dào tiềm
năng về sức vóc thể chất nhưng còn rất thấp về trình độ và kỹ năng xét theo yêu cầu của
hiện đại hóa.
Về phương diện tiêu dùng: thị trường này đang cần 1 khối lượng hàng rất lớn
phổ thông có chất lượng vừa phải.
3.1.3. Kinh tế.
3.1.3.1. Vài nét về kinh tế Châu Phi.
Châu Phi là châu lục nghèo nhất thế giới. Nợ nước ngoài vẫn luôn là gánh nặng
cho nền kinh tế, cho dù đã có những thỏa thuận giảm nợ của các nước phát triển. Tỉ lệ
lạm phát cũng góp phần vào sự nghèo khó vốn có. Nhưng nhìn toàn cục, Châu Phi đã
có những bước tiến về kinh tế, nếu như trước đây trung bình hằng năm trong thời kì
1983 - 1993 chỉ đạt 1,9% (của kinh tế thế giới là 3,4% châu Á là 7,3%), thì giai đoạn
2003-2008 đã tăng trung bình đạt 6%/năm. Một số nước còn tăng trưởng vượt bậc như
Liberia đạt mức tăng trưởng 10%/năm. Môzămbich tăng trưởng hằng liên tục
7,9%/năm. Nhưng đến năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
nên đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của các nước Châu Phi chỉ còn
3%. Tuy nhiên theo dự báo của WB thì Châu Phi sẽ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng
này và đạt tốc độ tăng trưởng 5% vào năm 2010.
Châu Phi đạt được những tiến bộ trên là đo những nguyên nhân sau:

Hầu hết các nước Châu Phi đều tiến hành cải cách kinh tế với những biện pháp
thới riêng của mình.
- Châu Phi có lợi về nguồn tài nguyên thiên nhiên gần như vô tận, bởi luôn có sự
phát hiện mới, trong đó phải kể đến dầu lừa và các loại kim loại quý hiếm. Riêng dầu
mỏ,.sản lượng khai thác hằng năm tăng 5-6% đã mang về cho các quốc gia Châu Phi
nguồn ngoại tệ dồi dào.
- Môi trường quốc tế đối với Châu Phi. được cải thiện ít nhiều nên đã có những sự
trợ giúp của 1 số chính phủ, tổ chức quốc tế đối với Châu Phi.
- Các sản phẩm của Châu Phi tiếp cận thị trường 1 số nước tương đối tự do và
thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, những trở ngại mà Châu Phi đang đối mặt là rất lớn, khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ. . .giữa hầu hết các nước Châu Phi với
các nước trên thế giới là rất lớn: Tình trạng đói nghèo vẫn phổ biến, bệnh tật vẫn hoành
hành, tham nhũng vẫn tràn lan, môi trường đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà
đầu tư.
3.1.3.2. Đặc điểm thị trường.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu, vì
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại có nền công nghiệp kém phát
triển, nông nghiệp lạc hậu.
- Cơ cấu nhập khẩu tập trung chủ yếu vào nhóm sản phẩm chế tạo như máy móc
thiết bị, điện tử, cơ khí, công nghệ cao . . .nhóm hàng đứng thứ 2 là nông sản, trong đó:
Lương thực có vị trí quan trọng nhất, chiếm 15,3%tỷ trọng nhập khẩu nhằm giải
quyết nhu cầu thiếu lương thực ở châu lục này.
Thị trường Châu Phi không đồng đều xét cả về không gian lẫn thời vụ. Kim ngạch
ngoại thương chủ yếu tập trung ở một số nước như Nam Phi, Ai Cập, Nigêria. Chẳng
hạn như riêng Nam Phi đã chiếm tới 20-25% tổng giá trị thương mại Châu Phi; Hoặc là
nhu cầu nhập khẩu lương thực của Châu Phi có năm lớn đến mức không nước nào trên
thế giới đáp ứng nổi nhưng có năm lại rất khiêm tốn.
- Khu vực dịch vụ tăng trưởng khả quan nhưng phân bố không đều. Tuy mức tăng
bình quân đạt 5,1%/năm, nhưng Châu Phi phụ thuộc gần như hoàn toàn vào diễn tiến

thương mại dịch vụ thế giới. Thêm nữa, 50% xuất khẩu và 30% nhập khẩu dịch vụ của
thị trường này lại thuộc về hai nước Nam Phi và Ai Cập. .
- Khả năng thu hút FDI của Châu Phi đạt mức thấp nhất thế giới. Lượng FDI phân
bố cũng không đều chỉ tập trung vào các nước lớn, đông dân, có vị trí địa lý thuận lợi
nguồn tài nguyên dồi dào, trình độ phát triển kinh tế tương đối cao. .
3.1.3.3. Các trung tâm kinh tế của Châu Phi.
 Cộng hòa Nam Phi Nền kinh tế ngoại thương lớn nhất Châu Phi
• Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội Nam Phi
Cộng hòa Nam Phi nằm ở cực Nam châu Phi, được bao bọc ở cả 3 phía đông,
nam, tây bởi Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Phần lục địa giáp Nam bia, Botswana,
Zimbabuê, và Môzămbich ở phía bắc và chưa trong mình nó là vương quốc Lêxôthô.
Nam Phi có diện tích là 1.219.912 km
2
.
Nam Phi là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất Châu Phi, lớn thứ 27 trên thế giới.
GDP năm 2009 đạt khoảng 278.5 tỷ USD, chiếm 25% GDP của toàn Châu Phi, dân số
đạt 49,4 triệu người (2009), GDP bình quân đầu người khoảng 5000usd/năm. Tăng
trưởng GDP hàng năm là 6%.
Ngôn ngữ: Tiếng Anh và Afrikaaner là ngôn ngữ chính thức. Tôn giáo : Đạo Thiên
chúa giáo 68%, Cổ truyền và Tin Lành chiếm 28,5%, Hinđu 1,5%, Đạo Hồi 2%.
Nam Phi đứng đầu châu lục về sản lượng nông nghiệp (chiếm 40%), sản xuất
khoáng sản chiếm 45%, tài chính và kinh doanh dịch vụ chiếm 19%. Nam Phi còn là
nước có hạ tầng cơ sở hiện đại, nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có (ma ngan chiếm
80% trữ lượng toàn thế giới vàng chiếm 40%, rôm chiếm 68%...).
Nam Phi có ngành tài chính, luật pháp, viễn thông, năng lượng và vận tải rất phát
triển, có thị trường chứng khoán Johannesburg lớn thứ 18 trên thế giới. Hệ thống cơ sở
hạ tầng hiện đại, hỗ trợ một cách hiệu quả lưu thông hàng hóa giữa các trung tâm đô thị
lớn trong khu vực.
Công nghiệp chiếm 30,3% GDP của Nam Phi, với nhiều ngành khác nhau, trong
đó đứng đầu là công nghiệp mỏ (22,4%). Nam Phi đứng đầu thế giới về khai thác vàng,

kim cương, rôm . . . Công nghiệp chế tạo ngày càng phát triển mạnh như hóa dầu, cao
su Và là nước sản xuất thép lớn nhất Châu Phi chiếm trên 60% sản lượng thép toàn
châu lục. Sửa chữa tàu biển, năng lượng. . . cũng là điểm mạnh của Nam Phi.
Nông nghiệp cũng góp khoảng 2,6% vào GDP của Nam Phi và thu hút khoảng
30% lực lượng lao động. Hiện nay Nam Phi không chỉ tự túc về hầu hết các loại nông
sản chủ yếu mà còn là một nhà xuất khẩu nông sản. Trong những năm qua nông sản
đóng góp khoảng 4% kim ngạch xuất nhập khẩu của Nam Phi. Sản phẩm nông nghiệp
có ngô, lúa mì, mía, trái cây, rau, thịt bò, gia cầm, cừu, len, sản phẩm sữa.
Lĩnh vực du lịch Nam Phi khá phát triển, chiếm 67,1% GDP. Ngành xây dựng có
tốc độ phát triển cũng khá cao do Châu Phi tập trung phát triển cơ sở hạ tầng.
Về ngoại thương, năm 2009, Nam Phi xuất khẩu khoảng 79,15 tỷ USD, gồm các
mặt hàng như: vàng, kim cương, platinum, thép, các loại kim loại và khoáng sản, rượu
vang. . .Thị trường xuất khẩu chính gồm Anh, Mỹ, Nhật, Đức, Trung Quốc . . .về nhập
khẩu, năm 2009 Nam Phi nhập khoảng 81,53 tỷ USD các mặt hàng như nhiên liệu. máy
móc, xăng dầu, nhựa, cao su, giày dép, dệt may, ngũ cốc, gốm sứ. .
• Quan hệ thương mại Việt Nam - Nam Phi trong những năm gần đây.
Việt Nam và Nam Phi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 22/12/1993.
Năm 2000, Sứ quán Việt Nam tại Nam phi chính thức đi vào hoạt động.
Năm 2002, Nam Phi chính thức mở Sứ quán tại Hà Nội. Từ khi thiết lập quan hệ
ngoại giao, hai nước đã cử nhiều đoàn đại biểu cấp cao và đoàn doanh nghiệp đi thăm
lẫn nhau để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh doanh thương mại và quan hệ hữu nghị của
hai nước.
Hai nước đã kí Hiệp định thương mại tháng 4/2000, thỏa thuận dành cho nhau
quy chế tối huệ quốc (MFN) trong buôn bán hai chiều.
Quan hệ thương mại giữa hai nước có bước phát triển đáng kể, năm 2000, ta đã
xuất khẩu hàng hóa sang Nam Phi trị giá khoảng 50 triệu USD. Năm 2006, buôn bán
hai chiều giữa Việt Nam và Nam Phi đạt trên 154 triệu USD chưa kể qua con đường thứ
3. Bước sang năm 2009 kim ngạch trao đôi thương mại song phương đạt trên 200 triệu
USD, trong đó ta nhập của Nam Phi chủ yếu là sắt thép, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ và
xuất 162 triệu USD chủ yếu là gạo. hàng dệt may, giày dép, cà phê. hàng thủ công mỹ

nghệ, sản phẩm gỗ...
• Thị trường gạo Nam Phi:
Là quốc gia có nền công nghiệp phát triển và với lượng dân số khá lớn đạt 49,4
triệu người (2009). Hàng năm Nam Phi cũng phải nhập khẩu một lượng gạo lớn, do
không tự sản xuất được lúa gạo, trong khi nhu cầu trong nước tăng cao, vào năm 2009
lượng gạo nhập khẩu đã tăng lên 13% so với năm 2008, lên mức 900.000 tấn.
Gạo nhập khẩu chủ yếu của Nam Phi là gạo đồ phẩm chất cao. Vì đây là nước có
thu nhập khá cao trên 5000usd/năm nên nhu cầu tiêu thụ gạo phẩm chất cao là rất lớn.
Những nhà xuất khẩu gạo chính sang Nam Phi là Thái Lan, hàng năm Thái Lan xuất
một lượng gạo khá lớn vào Nam Phi, cụ thể năm 2009 xuất gần 600.000 tấn gạo vào
Nam Phi. Ngoài ra Nam Phi còn nhập của các nước như Mỹ, Trung Quốc, Pakistan,
Việt Nam và các nước Châu âu.
 Cộng hòa Xê-nê-gan-cửa ngõ vào thị trường Tây Phi.
• Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Xê-nê-gan
Nước Cộng hoà Xê-nê-gan nằm ở vị trí xa nhất của Tây Phi, diện tích là: 196.190
km
2
, phía tây giáp Đại Tây Dương, phía Đông và Bắc giáp Môritani, phía Đông giáp
Mai và phía Nam giáp Ghinê và Ghinê Bitxao. Lọt giữa Xê-nê-gan là Găm bia có diện
tích 10.300 km
2
.
Xê-nê-gan có dân số là 13.200.296 (2009). Tôn giáo bao gồm: Hồi giáo 94%,
Thiên chúa giáo l%, tôn giáo cổ truyền 5%, ngôn ngữ chính thức là Tiếng Pháp. Khí
hậu: nhiệt đới, nóng và ẩm. GDP năm 2009 đạt 11,865 tỷ USD, GDP bình quân đầu
người khoảng 899 Usd/năm. Tăng trưởng GDP hàng năm là 4,8%.
Xê-nê-gan là nước nghèo tài nguyên, khoáng sản chỉ có phốt phát là nguồn tài
nguyên chính với sản lượng 1.800.000 tấn/năm. Cơ cấu ngành: nông nghiệp 18,3%,
công nghiệp 19,2%, dịch vụ 62,5%. Công nghiệp Xê-nê-gan chưa phát triển, mới chỉ có
ngành khai thác phốt phát, tìm kiếm dầu lửa, ngành chế biến nông nghiệp, lắp ráp. vật

liệu xây dựng . Nông nghiệp giữ vai trò chính trong nền kinh tế, chiếm 75 % giá trị xuất
khẩu Nông sản chính có lạc, lúa, hoa màu. Do luôn bị hạn hán đe doạ nên nông nghiệp
Xê-nê-gan chưa đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước. Hiện nay, Xê- nê-gan
đang tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đánh cá và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hàng năm Xê-nê-gan nhập khẩu lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng công
nghiệp và xuất khẩu lạc và các chế phẩm từ lạc, cá, cá hộp, phốt phát, bông sản phẩm từ
dầu mỏ.
Hiện nay, Xê-nê-gan theo đuổi đường lối đối ngoại đa dạng hoá, mở cửa nhằm
tranh thủ vốn và kỹ thuật, là thành viên của Cộng đồng kinh tế Tây phi (ECOWAS). Và
là nước có tình hình chính trị tương đối ổn định ở Châu phi.
• Quan hệ giữa Việt Nam và Xê-nê-gan:
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam: 29/12/1969. Ta lập Đại Sứ quán tháng
9/1973, đóng cửa Đại Sứ quán năm 1980 do khó khăn về tài chính. Và hiện nay Đại sứ
ta tại Angêria kiêm nhiệm Xê-nê-gan.
Hai bên đã ký các Hiệp định: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại,
văn hóa, khoa học kỹ thuật (1995), Hiệp định hợp tác ba bên giữa Việt Nam- FAO - Xê-
nê-gan (1996). Từ 1997-2009, hàng năm ta đưa khoảng 100 chuyên gia nông nghiệp
sang làm việc tại Xê-nê-gan. Bạn đánh giá rất cao hiệu quả làm việc của chuyên gia ta.
Quan hệ hai nước đã có những bước tiến vượt bậc, năm 2006 kim ngạch xuất
khẩu của ta sang Xê-nê-gan chỉ đạt 9,9 triệu USD, nhưng đến năm 2009 đã đạt 104
triệu USD. Ta xuất chủ yếu là sản phẩm dệt may, gạo, hạt tiêu và săm lốp ô tô, xe máy.
• Thị trường gạo Xê-nê-gan.
Kể từ khi giành độc lập vào năm 1960, tiêu thụ gạo của Xê-nê-gan đã tăng gần
1000% trong vòng 4 thập kỷ và hiện ở mức khoảng 1 triệu tấn/năm. Trong khi mức tiêu
thụ bình quân trên thế giới khoảng 40 kg gạo/người/năm thì ở Xê-nê-gan số lượng này
là 70 kg/người /năm và kể từ những năm 70, gạo đã thay thế hạt kê làm thức ăn cơ bản.
Trong những hộ gia đình thành thị, gạo chiếm 54% tiêu thụ ngũ cốc và 18% tổng chi
tiêu. ở các vùng nông thôn, tỷ lệ này lần lượt là 24 và 25%. Điều đó chứng tỏ các hộ gia
đình nông thôn nghèo hơn và dành ít tiền để chi cho các sản phẩm ngoài lương thực.
Sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu trong nước

(200.000tấn), vì vậy ở Châu Phi, Xê-nê-gan là nước nhập khẩu gạo lớn thứ hai sau
Nigiêria và đứng thứ 10 trên thế giới. Các nước cung cấp chính chủ yếu ở châu Á như:
Thái Lan, Việt Nam, ấn Độ và Pakistan. Ngoài ra còn có một số nước của EU, Mỹ,
Châu Mỹ La tinh. Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường Xê-nê-gan
208.513 tấn gạo đạt kim ngạch 93,8 triệu USD.
Gạo nhập khẩu vào Xê-nê-gan phần lớn là gạo tấm, chiếm đến 95% tổng khối
lượng. Trên thị trường quốc tế, gạo tấm được xem là thứ phẩm do vậy giá rẻ hơn nhiều
so với gạo nguyên hạt. Tuy nhiên, người tiêu dùng Xê-nê-gan lại thích gạo tấm. Đây là
thị trường rất thích hợp với chất lượng gạo của Việt Nam.
 Cộng hòa Nigêria-tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
• Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Nigêria.
Nigêria ở Tây Phi, Tây giáp Benin, Đông giáp T'chad và Cameroon, Bắc giáp
Niger, Nam giáp vịnh Guinea. Diện tích: 923,768 km
2
. Ngôn ngữ chính thức: Tiếng
Anh. Tôn giáo: 50% dân số theo đạo Hồi, 40% theo đạo Thiên chúa và 10% theo đạo cổ
truyền. Năm 2009, Dân số là 150,2. triệu người, đông dân nhất châu Phi. GDP đạt 351
tỉ USD. GDP đầu người là 2.385 USD.
Nigeria là nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất châu Phi Nam Sahara (34 tỷ thùng
và 2000 tỷ m3 khí đốt tự nhiên). Hàng năm Nigeria cung cấp cho Mỹ 12% tổng lượng
dầu nhập khẩu của nước này. Ngoài ra còn các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khí
gaz, dầu lửa, thiếc, quặng sắt, than, chì.
Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp: 53.2%, Nông nghiệp: 17.4%, Dịch vụ: 29.4% xuất
khẩu 83,1 tỉ USD với các mặt hàng. chính: Xăng dầu, cacao, cao su. Nhập khẩu 46,36 tỉ
USD gồm máy móc, hoá chất, thiết bị vận tải, lương thực và hàng tiêu dùng.
Quan hệ giữa Việt Nam và Nigêria:
Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao: 25/5/1976. Trước đây Nigeria chỉ chú trọng
quan hệ với các nước phát triển như Mỹ, Tây âu, Nhật Bản nên quan hệ với các nước
nhỏ (trong đó có Việt Nam) chỉ ở mức khiêm tốn, ít đoàn qua lại thăm. Từ năm 2001 trở
lại đây quan hệ giữa ta và Nigeria tiến triển mạnh. Hai nước đã ký kết một số Hiệp định

và trao đổi các đoàn, kể cả đoàn cấp cao.
Năm 2005, Bộ Thương mại mở Phòng Tùy viên Thương mại Việt Nam tại
Nigeria. Cuối năm 2007, Nigêria mở Đại sứ quán tại Hà Nội. Tháng 4/2008, Việt Nam
mở Đại sứ quán tại Nigeria. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nigêria đã tăng lên
trong những năm qua. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu sang Nigêria đạt 32,9 triệu USD
và đến năm 2009 đạt 100 triệu USD. Ta xuất chủ yếu là sản phẩm dệt may, máy vi tính
và linh kiện điện tử và gạo.
• Thị trường gạo Nigêria:
Hiện nay Nigêria là nước có dân số đông nhất châu Phi với khoảng 150,2 triệu
người. Kể từ những năm 70 đến nay, tiêu thụ gạo của Nigêria đã tăng mạnh ở mức
10%/năm. Trước đây khi sản xuất trong nước thấp, nhập khẩu gạo còn bị hạn chế và có
thời gian gạo bị cấm nhập khẩu, giá thành gạo trong nước luôn ở mức cao và gạo là một
loại thức ăn xa xỉ, chỉ dành cho một phần dân số có thu nhập khá. Kể từ khi chính phủ
Nigêria dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu gạo và giảm bớt thuế nhập khẩu mặt hàng này, gạo
đã dần trở nên phổ biến trong các bữa ăn của người dân Nigêria. Nền kinh tế tăng
trưởng mạnh, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đã khiến cho việc tiêu thụ gạo ngày càng
lớn vì so với những loại ngũ cốc khác, gạo dễ nấu và tốn ít thời gian hơn. Tổng nhu cầu
tiêu thụ gạo của Nigêria đạt khoảng 5 triệu tấn. Loại gạo phô biến là gạo đồ (parboil).
Tuy nhiên, sản xuất gạo của Nigêria chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu tiêu thụ
gạo khổng lồ trên thị trường. Diện tích canh tác lúa gạo trong tổng diện tích sản xuất
nông nghiệp còn rất nhỏ, chỉ tương đương khoảng 7%. Năng suất lúa chỉ đạt 2 tấn/ha
(trong khi của Việt Nam là khoảng 6 tấn/ha). Vì vậy, hàng năm Nigêria vẫn phải nhập
khẩu một khối lượng khoảng hơn 1,6 triệu tấn gạo để phục vụ nhu cầu trong nước. Loại
gạo đồ chất lượng cao chủ yếu phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng thành thị với mức
thu nhập cao hơn và dùng trong những bữa ăn ngày lễ tết, còn những loại gạo xay xát
trong nước chất lượng kém hơn và được tiêu thụ phần lớn ở các vùng nông thôn.
Trước thực trạng nhu cầu tiêu thụ gạo ngày càng lớn, chính phủ Nigêria đã có
nhiều biện pháp để nhằm tăng cường sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước, đồng thời
giảm bớt sự phụ thuộc vào gạo nhập khẩu và cũng nhằm mục đích tiết kiệm ngoại tệ.
Tổng thống Nigêria đã đặt ra mục tiêu đạt sản lượng lúa gạo ở mức 6 triệu tấn và mở

rộng diện tích trồng lúa lên 3 triệu ha năm 2007 để đáp ứng nhu cầu trong nước và có
lượng dư thừa cho xuất khẩu. Nhằm đạt mục tiêu này, Chính phủ Nigêria đã giải ngân 1
tỷ nai ra (khoảng 7,5 triệu USD) để nhân rộng mô hình điển hình sản xuất gạo.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngành sản xuất gạo của quốc gia này chưa thể đủ tiềm
lực để có thể thay thế toàn bộ hơn 1,6 triệu tấn gạo nhập khẩu vào đây hàng năm. Do
đó, Nigêria vẫn là thị trường tiềm năng cho các nhà xuất khẩu gạo trên thế giới.
Ngoài ra, một vấn đề làm cản trở đến hoạt động xuất khẩu gạo vào đây nói riêng
và xuất khẩu hàng hóa nói chung vào Nigêria là tình trạng lừa đảo trong khâu thanh
toán khá phổ biến. Mặc dù trên thực tế các phương thức thanh toán là những phương
thức được chấp nhận toàn cầu như LC, mở tài khoản . . . nhưng hiện tượng chứng từ giả
từ các ngân hàng ma rất nhiều. Nên khi buôn bán với Nigêria các nước nên xem xét cẩn
thận khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại ở nước này.
3.1.4. Nhu cầu tiêu thụ gạo và tình hình sản xuất gạo của Châu Phi.
Gạo là một trong bốn loại lương thực quan trọng nhất của châu Phi, cùng với kê,
ngô và lúa miến. Với số dân khoảng gần 1 tỷ người, nhu cầu tiêu thụ gạo ở châu Phi là
rất lớn.
Bảng 3.1:Số lượng gạo tiêu thụ của Châu Phi từ năm 2006-2009.
ĐVT: Triệu tấn
Năm 2006 2007 2008 2009
Số lượng 19.97 20.470 21.084 22.625
(Nguồn: Office ofglobal analysis, Foreign Agricultural Service, Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ).
Do sự tiện dụng của việc chề biến gạo so với kê vài những loại ngũ cốc khác, giá
gạo cũng không còn quá cao so với thu nhập của đại bộ phận người dân, gạo ngày càng
trở nên phổ biến trong những bữa ăn hàng ngày. Người châu Phi thường chế biến gạo
theo nhiều cách như nấu thành cơm, nấu thành cháo hoặc bánh, tuy nhiên nấu thành
cơm theo cách truyền thống vẫn là phương thức phổ biến ở nhiều nước châu Phi. Chính
vì vậy mà nhu cầu tiêu thụ gạo của người dân Châu Phi ngày một tăng. Cụ thể năm
2006 nhu cầu gạo tiêu thụ là 19,997 triệu tấn nhưng đến năm 2009 . nhu cầu tiêu thụ
gạo là 22,625 triệu tấn. Trung bình tăng nhu cầu tiêu thụ gạo tăng 4,23%/năm.
Mặc dù mức tiêu thụ gạo lớn nhưng sản xuất luôn không đáp ứng được nhu cầu

đối với mặt hàng gạo. Lí do chính của hiện tượng này là do hiện tại giống lúa phổ biến
là giống lúa châu Á chưa được cải thiện, lai tạo để phù hợp với điều kiện thời tiết của
châu Phi. Công nghệ canh tác lạc hậu, máy móc nông nghiệp cũ kỹ, chi phí và thuế nói
chung đối với các loại mặt hàng đầu vào nông nghiệp như máy móc, phân bón còn cao.
Ngoài ra, còn do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, thời tiết ngày càng có khí hậu khắc
nghiệt, hạn hán xảy ra liên miên, làm cho năng suất lúa không được cao.
Bảng 3.2. Tình hình sản xuất gạo của Châu Phi từ năm 2006-2009.
ĐVT. Triệu Tấn
Năm 2006 2007 2008 2009
Số lượng 12,835 13,648 13,807 15,249
(Nguồn: Offce ofglobal analysis, Foreign Agncultural Service, bộ nông nghiệp Hoa Kỳ).
Nhìn vào bảng số liệu tình hình sản xuất gạo của các nước Châu Phi từ năm 2006-
2009 thì ta thấy được rằng tình hình sản xuất ngày càng được nâng cao, cụ thể năm
2006 sản xuất 12,835 triệu tấn gạo và đến năm 2009 sản xuất được 15,249 triệu tấn gạo.
Trung bình lượng gạo sản xuất hàng năm tăng 5,98 %năm. Thế nhưng sản lượng gạo
sản xuất vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ gạo của các nước Châu Phi, trung
bình chỉ đáp ứng được khoảng 66,56% nhu cầu. tiêu thụ gạo, nên 33,44% lượng gạo
tiêu thụ của các nước Châu phi phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Vì vậy hàng năm Châu
Phi vẫn phải nhập khẩu với một khối lượng gạo rất lớn.
3.1.5. Dự đoán nhu cầu tiêu thụ gạo của các nước Châu Phi trong thời gian
tới.
Với điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt như hiện nay, đặc biệt hiện tượng
khô hạn ngày một kéo dài, làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng khó khăn. Đặc biệt
đối với các nước Châu Phi, với tốc độ tăng trưởng dân số cao (2,6%/năm), mà kỹ thuật
nông nghiệp lại lạc hậu, chưa thể tái tạo được giống lúa thích hợp với điều kiện thời tiết
của Châu Phi, cho nên năng suất lúa thấp, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Thì
việc nhập khẩu gạo ngày càng tăng là không thể tránh khỏi. Và theo “Rice Trade long-
term projections' của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ thì nhu cầu nhập khẩu gạo của Châu Phi
trong thời gian tới như sau:
Bảng 4.1. Dự đoán tình hình nhập khẩu gạo của Châu Phi đến năm 2015

Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Số lượng 8,186 8,186 8,987 9,292 9,492 9,725
(Nguồn: bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ)
Theo dự báo thì tốc độ nhập khẩu gạo của các nước Châu Phi ngày càng tăng, và
tới năm 2015 sẽ nhập 9,725 triệu tấn. Đây là một lượng gạo lớn. Tuy nhiên nhữngnhà
xuất khẩu chính vào Châu Phi như Thái Lan và ấn ĐỘ thì đang gặp phải nhiều
khókhăn. Thái Lan thì đang lâm vào tình trạng khủng hoảng chính trị nên Chính phủ
không bảo hộ sản xuất nông nghiệp như trước nữa. Còn Ấn Độ thì nhằm đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo từ năm 2008 và dự báo
trong năm nay, từ một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới, Ấn Độ có thể trở
thành một nước nhập khẩu gạo. Trong khi đó Việt Nam thì điều kiện thiên nhiên ưu đãi,
áp dụng khoa học kĩ thuật vào nông nghiệp, tăng năng suất nên hàng năm việt Nam
luôn dư một lượng gạo lớn để xuất khẩu. Vì vậy, với tình hình trên, đang mở ra cho Việt
Nam nói chung và Vinafood2 nói riêng một cơ hội xuất khẩu gạo đầy tiềm năng vào thị
trường này
3.1.6 Tình hình nhập khẩu gạo của các nước Châu Phi
Bảng 3.3 Số lượng gạo nhập khẩu của Châu Phi từ năm 2006-2009
Đvt : Triệu tấn
Năm 2006 2007 2008 2009
Số lượng 7,68 8,159 7,574 7,8
(Nguồn: Oìfice of global ânlysis, Foreign Agricultural Service, Bộ nông nghiệp
Hoa Kỳ)
Khi sản xuất không đáp ứng được nhu cầu, nhập khẩu là hệ quả tất yếu. Hàng
năm Châu Phi luôn phải nhập khẩu một lượng gạo tương đối lớn. Trung bình hàng năm
nhập khoảng gần 8 triệu tấn. Nhưng lượng gạo nhập khẩu không đều ở các năm,
nguyên nhân là do việc nhập khẩu gạo phụ thuộc vào tình hình sản xuất trong nước . có
năm nhu cầu lương thực, thực phẩm nhập khẩu lên rất cao và không nước nào đáp ứng
kịp, nhưng cũng có năm nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này lại rất khiêm tốn, đây chính là
nét đặc thù và cũng là một rủi ro của thị trường mà các nhà xuất khẩu gạo phải tính đến
rất kỹ. Năm 2009 lượng nhập khẩu của Chau Phi là 7,8 triệu tấn, tăng 3% so với năm

2008 là 7,574 triệu tấn.
Những nước nhập khẩu gạo lớn nhất Châu Phi là Nigieria, Xê-nê-gan, Bờ Biển
Ngà…đây chủ yếu là những nước có dân số đông, lượng tiêu thụ gạo lớn mặc dù Ni-
giê-ri-a hay Ma-đa-gat-xca và Ghana đều là những nước xuất khẩu gạo hàng đầu Châu
Phi.
Ngoại trừ hai nước nhập khẩu nhiều gạo đò chất lượng cao là Nam Phi và Ni-giê-
ria, các nước trong khu vực nhập khẩu loại gạo tấm và gạo đồ có phẩm chất thấp, giá
vừa phải. Riêng thị trường Ni-giê-ria đã chiếm 21% tổng lượng nhập vào châu lục, tiếp
đến là Nam Phi (5%) và Xê-nê-gan (5%). Các nước xuất khẩu gạo chính vào khu vực là
Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Mỹ trong đó Thái Lan vẫn là nhà cung cấp gạo
với khối lượng lớn nhất và chủng loại đa dạng.
3.1.7 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Phi
3.1.7.1 Tình hình xuất khẩu
Bước sang năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã có ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của nước ta, trong đó có việc xuất khẩu sang
thị trường Châu Phi. Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi vẫn đạt 1,5 tỷ
usd tăng 12,78% so với năm 2008 là 1,33 tỷ usd.

×