Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Nghiên cứu đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển nông lâm nghiệp và du lịch khu vực đồng tháp mười, tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.63 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

LÊ TRỌNG QUÝ

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG –
LÂM NGHIỆP VÀ DU LỊCH KHU VỰC ĐỒNG THÁP MƢỜI, TỈNH
ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÝ

HÀ NỘI, NĂM 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

LÊ TRỌNG QUÝ

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG –
LÂM NGHIỆP VÀ DU LỊCH KHU VỰC ĐỒNG THÁP MƢỜI, TỈNH
ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÝ

Chuyên ngành: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trƣờng
Mã số: 60 85 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TSKH. PHẠM HOÀNG HẢI

HÀ NỘI, NĂM 2011



MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1.
2.2.

Mục đích của đề tài
Nhiệm vụ của đề tài


3. Giới hạn của đề tài
3.1.
Giới hạn phạm vi lãnh thổ nghiên cứu
3.2.
Giới hạn nội dung nghiên cứu
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.
Phương pháp khảo sát thực địa
4.2.
Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu
4.3.
Phương pháp bản đồ
4.4.
Phương pháp phân tích tiếp cận hệ thống, đánh giá tổng hợp
4.5.
Phương pháp hệ thông tin địa lý
5. Những kết quả của đề tài
6. Ý nghĩa của đề tài
7. Cấu trúc luận văn

Chƣơng 1
1.1. Cơ sở lí luận nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển kinh tế
1.1.1. Lí luận chung về nghiên cứu cảnh quan
1.1.1.1. Quan niệm về cảnh quan
1.1.1.2. Hướng NCCQ phục vụ phát triển kinh tế
1.1.1.3. Lý luận và phương pháp luận NCCQ
1.1.2. Lí luận chung về ĐGCQ
1.1.2.1. Khái niệm ĐGCQ
1.1.2.2. Hướng ĐGCQ phục vụ sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT
1.1.2.3. Lý luận và phương pháp ĐGCQ
1.1.3. Hệ thống phân loại CQ và bản đồ CQ
1.1.3.1. Hệ thống phân loại CQ
1.1.3.2. Bản đồ CQ
1.2. Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu, đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN phục vụ
phát triển kinh tế vùng đất ngập nƣớc Đồng Tháp Mƣời của tỉnh Đồng Tháp
1.3.
Quy trình nghiên cứu
Chƣơng 2
CÁC NHÂN TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM
CẢNH QUAN VÙNG ĐỒNG THÁP MƢỜI TỈNH ĐỒNG THÁP


2.1. Các nhân tố thành tạo CQ
2.1.1. Các nhân tố tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
2.1.1.2. Địa chất, khoáng sản và địa hình, địa mạo
2.1.1.3. Khí hậu
2.1.1.4. Thủy văn
2.1.1.5. Thổ nhưỡng
2.1.1.6. Sinh vật

2.1.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Dân cư và nguồn lao động
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật
2.1.2.3. Hiện trạng các ngành sản xuất, kinh tế
2.1.2.4. Hiện trạng sử dụng đất
2.2. Đặc điểm CQ vùng Đồng Tháp Mƣời
2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu phân loại CQ vùng Đồng Tháp Mƣời
2.2.2. Đặc điểm CQ vùng Đồng Tháp Mƣời
2.2.2.1. Đặc điểm cấu trúc đứng
2.2.2.2. Đặc điểm cấu trúc ngang
2.2.2.3. Đặc điểm cấu trúc động lực
2.2.2.4. Những chức năng chính của cảnh quan vùng Đồng Tháp Mười
Chƣơng 3
ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG - LÂM
NGHIỆP VÀ DU LỊCH VÙNG ĐỒNG THÁP MƢỜI TỈNH ĐỒNG THÁP
3.1. Những vấn đề lý luận, nguyên tắc và phƣơng pháp đánh giá
3.1.1. Nguyên tắc và phƣơng pháp đánh giá.
3.1.2. Lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu, thang điểm, bậc trọng số.
3.2. Các kết quả đánh giá và phân hạng mức độ thuận lợi của các loại
cảnh quan vùng Đồng Tháp Mƣời tỉnh Đồng Tháp
3.2.1. Đánh giá mức độ thuận lợi đối với các ngành sản xuất.
3.2.1.1. Đối với sản xuất nông nghiệp
3.2.1.2. Đối với lâm nghiệp (trồng rừng sản xuất)
3.2.1.3. Đối với ngư nghiệp (nuôi trồng thủy sản nước ngọt)
3.2.1.4. Đối với hoạt động khai thác du lịch bền vững
3.2.2. Phân hạng mức độ thuận lợi.
3.2.3. Kết quả đánh giá các loại cảnh quan cho phát triển các ngành sản xuất
3.3. Định hƣớng và các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và



phát triển bền vững vùng ĐNN Đồng Tháp Mƣời tỉnh Đồng Tháp
3.3.1. Cơ sở đề xuất định hƣớng và các giải pháp phát triển
3.3.2. Những kiến nghị, định hƣớng sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trƣờng trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá cảnh quan
KẾT LUẬN

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong thiên nhiên, các thành phần tự nhiên (TN) luôn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tạo thành các thể tổng hợp địa lí TN thống nhất. Mỗi khu vực chỉ thích hợp với một
số loại hình sử dụng nhất định và ngược lại. Khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên phục
vụ phát triển mà không gây tác động xấu đến TN, đòi hỏi con người phải hiểu biết các
quy luật của thiên nhiên. Nếu chỉ đánh giá một thành phần thì không thể đưa ra kiến nghị
tổng hợp cho sự phát triển. Để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính tổng hợp cao,
hướng nghiên cứu cảnh quan (NCCQ), đánh giá cảnh quan (ĐGCQ) đã trở thành hướng
nghiên cứu quan trọng, đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là cơ sở khoa học của
việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng thích hợp lãnh thổ.
Hệ sinh thái đất ngập nước (ĐNN) là một phần của cảnh quan thiên nhiên . Các
công trình nghiên cứu của các nhàkhoa hocc̣ cho biết số liêụ vềgiá trị kinh tếcủa các hệ
sinh thái đất ngập nước mang laịước tính khoảng 14.900 tỷ USD (chiếm 45% tổng giá trị
của tất cả các hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu). Con số này phản ánh những giá trị và
chức năng lớn lao của đất ngập nước bao gồm: Kiểm soát lũ lụt, bổ sung nước ngầm, ổn
định bờ biển và chống sóng bão, giữ lại các chất bồi lắng và chất dinh dưỡng, giảm thiểu
sự biến đổi khí hậu, làm sạch nước, nguồn cung cấp đa dạng sinh học, cung cấp các sản
phẩm của đất ngập nước, giải trí và du lịch, giá trị văn hoá...
Đất ngập nước hiểu theo công ước RAMSAR (Công ước về các vùng đất ngập
nước có tầm quan trọng quốc tế ra đời vào năm 1971) như sau: “Là các vùng đầm lầy,
than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hay nhân tạo, có nước thường xuyên hay tạm thời,
nước đọng hay nước chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả các vùng nước ven
biển có độ sâu không quá 6 m khi thuỷ triều thấp đều là các vùng đất ngập nước”. Như

vâỵ, theo khái niêṃ của Ramsar thiđ̀ ất ngập nước rất đa dangc̣, phong phú và phức tạp, nó
chiếm một phần không nhỏ diêṇ tich ́ lãnh thổ (các vùng biển nông, ven biển, cửa sông,
đầm phá, có thảm thực vật bao phủ hay không bao phủ, đồng bằng châu thổ, tất cả các
con sông, suối, ao, hồ, đầm lầy tự nhiên hay nhân tạo, các vùng nuôi trồng thuỷ sản, canh
tác lúa nước đều thuộc loại đất ngập nước).


Đất ngập nước là nơi dung nạp và điều tiết nước ngầm, cung cấp nước ngọt, điều
hòa sinh thái và khí hậu, hạn chế lũ lụt, chắn sóng và gió bão, chống xói lở và ổn định bờ
biển, duy trì tính đa dạng sinh học, tạo môi trường hoạt động cho nhiều ngành kinh tế
như: nông nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải, du lịch, khai khoáng.v.v.. Vùng đất ngập
nước là nguồn sống của phần lớn người dân Việt Nam , đồng thời nómang lại lợi ích và
giá trị to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường. Đất ngập nước cũng là nơi cư trú
của nhiều loài động thực vật quý hiếm của Việt Nam và thế giới.
ViêṭNam là một trong những quốc gia rất giàu tiềm năng về đất ngập nước về
diện tích, chức năng và giá trị vàdo nằm trong vùng nhiệt đới , nước ta được coi là một
trong quốc gia cócác trung tâm có mức đa dạng sinh học cao so với các quố c gia, vùng
lãnh thổ trên thế giới . Các hệ sinh thái nước ngọt của ViêṭNam có khoảng 2.611 loài
thủy sinh vật , 1.403 loài tảo biển , 190 loài giáp xác , 147 loài trai ốc , 54 loài cá, 157
loài đôngc̣ vật nguyên sinh [30] Các vùng đất ngập mặn nội địa lớn như Đồng Tháp Mười,
U Minh và hệ thống suối là nơi chứa nhiều loài động, thực vật đặc hữu. Đa dạng sinh học
là cơ sở sinh tồn cho mọi sinh vật, cung cấp cho con người nguồn lương thực và thực
phẩm, các nguồn dược liệu quan trọng, nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, xây dựng,
duy trì bảo vệ sức khỏe cho con người, văn hóa và thẩm mỹ.
Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về “Bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”. Thể hiện
quan điểm chủ đạo sau:
“Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của
phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án
phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ

đạo chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường”.
“Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động
xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện
môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh
huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ
hiện đại với các phương pháp truyền thống”.
“Chủ động tổ chức điều tra để sớm có đánh giá toàn diện và cụ thể về các nguồn tài
nguyên thiên nhiên... ở nước ta” - “Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên phải bảo đảm tính hiệu quả, bền vững và phải gắn với bảo vệ môi trường trước mắt
và lâu dài”.
- Quy hoạch các vùng đất ngập nước cho mục đích bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội.


- Khoanh vùng bảo vệ các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia. Nâng

cao diện tích các khu bảo tồn ĐNN, đặc biệt chú trọng tới bảo tồn các vùng ĐNN có tầm
quan trọng quốc tế và quốc gia, phục hồi các vùng ĐNN quan trọng đã bị suy thoái.
- Thử nghiệm và nhân rộng các mô hình sử dụng khôn khéo và phát triển bền vững

ĐNN tại các vùng ĐNN đặc thù cho các hệ sinh thái.
Những năm gần đây , do tốc độ công nghiệp hóa , hiện đại hóa vàđô thị hóa , một
diện tích rất lớn đất ngập nước đã bị chuyển hóa sang mục đích sử dụng khác , vì vậy tính
chất, giá trị của đất ngập nước bị mai một . Sự phát triển này đã làm cho tài nguyên môi
trường ViêṭNam nói chung , đất ngập nước nói riêng đang có dấu hiêụ báo đôngc̣ do chấ t
thải công nghiệp, ô nhiễm dầu, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật , chất hữu cơ và các chất
độc hại khác trong quátrinh̀ khai thác tài nguyên .
Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên tham gia công ước Ramsar (công ước
các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế ngày 2/2/1971), điều này cho thấy Việt
Nam đã sớm nhìn nhận được tầm quan trọng của các vùng đất ngập nước . Từ đó đến nay,
Việt Nam đã luôn nỗ lực để khuyến khích việc sử dụng khôn khéo và quản lý bền vững

các vùng đất ngập nước của quốc gia. Những năm gần đây, tại các Hội nghị Ramsar của
thế giới , Chính phủ ViêṭNam đã vàđang nỗ lực đăng ký bổ sung các điểm Ramsar theo
tiêu chínhưng chưa đaṭđươcc̣ mong muốn, do nhiều nguyên nhân khách quan vàchủ quan.
Trong đó, công tác quản lýcủa Nhànước đối với viêcc̣ bảo tồn vàphát triển bền vững các
vùng đất ngâpc̣ nước còn nhiều haṇ chế . Thách thức hiêṇ nay đối với đất ngập nước là rất
lớn, các hệ sinh thái đất ngập nước của nước ta chiếm diện tích rộng lớn nhưng hầu như
chưa được chú ý đầy đủ và đánh giá đúng mức cũng như thiếu sự đảm bảo về thể chế và
pháp lý . Cần có sư đc̣ ầu tư trung và dài hạn để xây dựng cơ sở tri thức , khung thể chế và
pháp lý , khoa hocc̣ công nghê c̣nhằm nâng cao nhận thức của cộ ng đồng và tăng cường
năng lực ở các cấp đã được phân cấp để quản lý hợp lý đất ngập nước . Các nỗ lực vàsư
c̣đầu tư có thể bắt đầu quy mô vừa vànhỏđến viêcc̣ đầu tư lớn , chắc chắn theo thời gian nỗ
lực đó se đ ̃ ược phát triển thành một hệ thống to àn quốc toàn diện trong lĩnh vực đất ngập
nước mới mong đạt được sự quản lý hữu hiêụ vùng đất ngập nước tầ m quốc
gia vàquốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh là một trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng của biến
đổi khí hậu , nước ta phải bắt đầu từ việc có một quy hoạch phát triển bền vững đất ngập
nước (có tính đến các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu) cho tương lai vàlâu dài.
Đểgiải quyết những vấn đềnêu trên
, Chính phủ ban hành
Nghị định số
109/2004/NĐ-CP ngay 23/9/2003 (viết tắt la
̀

tra, lập quy hoạch , bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước
khẳng đinḥ sư cc̣ ần thiết va tinh
̀́


trách nhiệm của
các bộ, ngành, có liên quan , các điạ phương co vung đất ngâpc̣ nươc phai sơm triển khai
viêcc̣ xac đinḥ laịmôṭcach chinh xac đểkhoanh vung diêṇ tich hiêṇ t

́

đệm vùng đất ngập nước , nghiên cứu đánh giá tổng hợp các hợp phần tự nhiên, khai thác
hợp lí các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả, xây dựng bản đồ kiến nghị bố trí các
ngành sản xuất hợp lí, nhất làđối với vùng đất ng ập nước nội địa có quy mô , liên vùng,
liên khu vưcc̣ như ởvùng Đồng Tháp Mười . Do điều kiện về thời gian cũng như kinh phí
có hạn nên chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu vùng đất ngập nước khu vực Đồng Tháp
Mười của tỉnh Đồng Tháp.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu đánh giá cảnh quan
phục vụ phát triển Nông - Lâm nghiệp và du lịch khu vực Đồng Tháp Mười tỉnh Đồng
Tháp” làm đề tài luận văn Cao học.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1. Mục đích của đề tài

Đề tài thực hiện nhằm nâng cao năng lưcc̣ quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững
vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất
nước và trước các tác động khôn lường của biến đổi khí hậu toàn cầu .
- Xác lập cơ sở khoa học về thực trạng và tiềm năng điều kiện tự nhiên (ĐKTN), tài

nguyên thiên nhiên (TNTN) cho định hướng tổ chức không gian và phát triển ngành nông
- lâm nghiệp, du lịch vùng Đồng Tháp Mười thông qua nghiên cứu, ĐGCQ.
- Đề xuất được các định hướng quy hoạch, khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên lãnh

thổ nghiên cứu theo hướng phát triển bền vững (PTBV).
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thu thập thông tin tư liệu, tổng quan các công trình nghiên cứu về NCCQ,

ĐGCQ, xác lập cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Phân tích các nhân tố thành tạo CQ, đặc điểm một số CQ tiêu biểu của lãnh thổ


nghiên cứu.
- Xây dựng hệ thống phân loại CQ, bản đồ CQ, bản đồ ĐGCQ ĐNN nội địa vùng

Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
- Phân tích tiềm năng TN và thế mạnh của vùng ĐNN nội địa, Đồng Tháp Mười

của tỉnh Đồng Tháp. Đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN cho mục đích phát triển các
ngành nông - lâm nghiệp và du lịch.
3. Giới hạn của đề tài
3.1. Giới hạn phạm vi lãnh thổ nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vùng ĐNN nội địa Đồng Tháp Mười
của tỉnh
Đồng Tháp; (bao gồm diện tích ĐNN thường xuyên và ĐNN theo mùa ) nằm trong điạ
giới hành chinh́ là vùng phía Bắc sông Tiền: thuộc vùng đất ngâpc̣ nước Đ ồng Tháp Mười
2

có diện tích trên 258,48 km , chiếm 76,6% tổng diện tích tự nhiên của tinhh̉ , bao gồm
thành phố Cao Lãnh, thị xã Hồng Ngự (Ngày 23/12/2008 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng thay mặt Chính phủ ký ban hành Nghị định số 08/NĐ-CP về việc điều chỉnh
địa giới hành chính huyện Hồng Ngự để thành lập thị xã Hồng Ngự và thành lập các
phường: An Lộc, An Thạnh, An Lạc thuộc thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) và 06
huyện: Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao Lãnh. Tổng số
đơn vi hạ̀nh chinh́ cấp xa ̃ thuôcc̣ vùng dự án là 98 đơn vi,c̣chiếm tỉlê c̣ 68,05% tổng sốxã,
phường, thị trấn của tỉnh.
3.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu
- Đề tài tập trung đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN phục vụ phát triển một số ngành


quan trọng, có nhiều tiềm năng là nông - lâm nghiệp và du lịch.
-Trên cơ sở phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế
- xã hội vùng ĐNN nội địa Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
- Trên cơ sở ĐGCQ, đề xuất một số kiến nghị cho khai thác, sử dụng hợp lí tài

nguyên, bố trí hợp lý không gian sản xuất phục vụ phát triển KT-XH và BVMT vùng
ĐNN nội địa Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp truyền thống, rất quan trọng với tất cả các ngành nghiên cứu thiên
nhiên, nhất là đối với địa lí TN tổng hợp. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đi thực
tế địa bàn nghiên cứu, tìm hiểu, chụp ảnh các yếu tố tự nhiên ở một số địa điểm. Quá
trình khảo sát tập trung chủ yếu vào đặc điểm địa lí TN và phân hoá không gian lãnh thổ.
Kết hợp với các phương pháp khác, so sánh đối chiếu với kết quả nghiên cứu trong phòng
để nắm vững đặc trưng cơ bản của lãnh thổ nghiên cứu.
4.2. Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu
Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã thu thập có chọn lọc các tài liệu, số liệu
liên quan đến khu vực nghiên cứu. Sau khi thu thập và phân tích xử lí số liệu theo mục
đích, yêu cầu của đề tài, chúng tôi thống kê các tài liệu theo bảng biểu và trình bày bằng
biểu đồ. Từ đó, đánh giá tổng hợp, rút ra nhận xét về thực trạng và tiềm năng phát triển
các ngành kinh tế của lãnh thổ nghiên cứu.
4.3. Phương pháp bản đồ


“Bản đồ là alpha và omega của địa lý” (N.N. Baranski). Nghiên cứu bản đồ, thành
lập bản đồ là việc bắt đầu, cũng là việc kết thúc của quá trình nghiên cứu địa lý, thể hiện
mọi kết quả nghiên cứu của các công trình.
Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Bắt đầu từ việc
nghiên cứu bản đồ nhằm nắm bắt khái quát nhanh chóng khu vực nghiên cứu, từ đó vạch
ra các tuyến, điểm khảo sát đặc trưng của khu vực. Để đánh giá tổng hợp các ĐKTN,

TNTN theo đơn vị lãnh thổ thì không thể không thành lập bản đồ CQ (bản đồ địa tổng
thể). Đề tài đã xây dựng bản đồ CQ tỉ lệ 1: 100.000 cho khu vực nghiên cứu, dựa trên cơ
sở phân tích các bản đồ thành phần như: bản đồ địa mạo, bản đồ độ cao và độ dốc, bản đồ
đất, bản đồ thảm thực vật... Những bản đồ thành phần được đưa về cùng tỉ lệ rồi chồng
xếp lên nhau, lấy đường khoanh trung bình làm ranh giới của các đơn vị CQ.
4.4. Phương pháp phân tích tiếp cận hệ thống, đánh giá tổng hợp
Phương pháp này được áp dụng khi phân tích cấu trúc CQ, mối quan hệ giữa các
hợp phần TN trong cấu trúc đứng và cấu trúc ngang của các đơn vị CQ trên lãnh thổ
nhằm xác định tính ổn định và tính biến động của chúng. Đánh giá tổng hợp giá trị kinh
tế của TNTN và ĐKTN của tổng thể lãnh thổ cho mục tiêu KT-XH, mô hình hoá các hoạt
động giữa TN với KT-XH, phục vụ việc dự báo cho sự biến đổi của môi trường, điều
chỉnh các tác động của con người, xây dựng cơ sở cho việc quản lí tài nguyên và BVMT.
4.5. Phương pháp hệ thông tin địa lý
Hệ thông tin địa lí (Geographic Information System-GIS) với sự hỗ trợ đắc lực của
các phần mềm máy tính, nhất là phần mềm MapInfo, phần mềm xử lí ảnh. Phương pháp
này thực hiện có hiệu quả việc thu thập, cập nhật, phân tích và tổng hợp các thông tin về
đối tượng trên các lớp thông tin nhằm tìm ra những đặc điểm, tính chất chung của đối
tượng để tạo ra lớp thông tin mới, trình bày dữ liệu dưới dạng các bản đồ phục vụ việc
ĐGCQ.
5. Những kết quả của đề tài
+ Hệ thống và vận dụng cơ sở lí luận NCCQ, ĐGCQ cho việc nghiên cứu.
+ Xác định tổng quan ĐKTN, KT-XH của khu vực nghiên cứu.
+ Xây dựng được hệ thống phân loại CQ, bản đồ CQ tỉ lệ 1: 100.000 và bản đồ

ĐGCQ tỉ lệ 1: 100.000, bản đồ kiến nghị sử dụng hợp lý lãnh thổ cho vùng đất ngập nước
Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp.


+ Đưa ra được định hướng phát triển cho khu vực nghiên cứu.


6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc khai thác và sử dụng hợp lí tài
nguyên thiên nhiên và BVMT.
Kết quả nghiên cứu đạt được sẽ góp phần giúp các nhà quản lí địa phương có thêm
cơ sở khoa học cho việc xây dựng định hướng quy hoạch sản xuất, chiến lược PTBV,
khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT, phát triển các ngành kinh tế, ổn định
đời sống nhân dân.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung chính của
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục
vụ phát triển kinh tế
Chƣơng 2: Các nhân tố thành tạo cảnh quan và đặc điểm cảnh quan vùng
Đồng Tháp Mƣời tỉnh Đồng Tháp
Chƣơng 3: Đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển ngành nông nghiệp – lâm
nghiệp và du lịch vùng Đồng Tháp Mƣời tỉnh Đồng Tháp


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CẢNH
QUAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Cơ sở lí luận nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển kinh tế
1.1.1. Lí luận chung về nghiên cứu cảnh quan
1.1.1.1. Quan niệm về cảnh quan
Khái niệm CQ được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỉ XIX, có nghĩa là phong cảnh
(tiếng Đức- Landschaft). Theo lịch sử phát triển của CQ học, nhiều tác giả nghiên cứu về
nó, đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau như: L.C.Berge (1931), [10], [20]; N.A. Xolsev
(1948) [10], [20]; A.G. Ixatxenko (1965, 1991), [10], [20]; Armand D.L. (1975), [1]; Vũ
Tự Lập (1976), [23]; Nguyễn Cao Huần (2005), [19]...
Cảnh quan là đối tượng nghiên cứu của Địa lý học hiện đại. Không kể quan niệm

CQ là phong cảnh như trên, hiện nay trong khoa học địa lý cùng tồn tại 3 quan niệm khác
nhau về CQ: CQ là một khái niệm chung (F.N. Minkov, D.L. Armand,...), đồng nghĩa với
tổng thể địa lý thuộc các đơn vị khác nhau; CQ là đơn vị mang tính kiểu hình (B.B.
Polunov, N.A. Gvozdetxki,...); CQ là các cá thể địa lý không lặp lại trong không gian
(N.A. Xolsev, A.G. Ixatxenko, Vũ Tự Lập...). Dù xét CQ theo khía cạnh nào thì CQ vẫn
là một tổng thể TN. Sự khác biệt của các quan niệm trên ở chỗ coi CQ là đơn vị thuộc
cấp phân vị nào, CQ được xác định và thể hiện trên bản đồ theo cách thức nào [10], [20].
Hai quan niệm sau (quan niệm kiểu loại và quan niệm cá thể) được các nhà nghiên
cứu chuyên ngành CQ sử dụng. Trong đó, quan niệm kiểu loại phổ biến hơn. Theo quan
niệm này, CQ là sự phối hợp biện chứng như một tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên tương
đối đồng nhất, không phụ thuộc vào phạm vi lãnh thổ phân bố. Quan niệm này rất có lợi
thế cho thành lập bản đồ CQ phục vụ các mục đích thực tiễn. Vì khi có nhiều yếu tố chưa
thể định lượng được một cách chính xác, cần phải công nhận tính đồng nhất tương đối để
có thể ghép vào một nhóm, đưa ra các phương án tính toán, nhằm bố trí hợp lý sản xuất.
Trong địa lý ứng dụng, NCCQ phục vụ sản xuất, CQ vẫn được xem xét ở 3 khía
cạnh: đơn vị tổng thể (theo khái niệm chung), đơn vị phân kiểu (khái niệm loại hình) và
đơn vị cá thể (khái niệm cá thể) (Shishenko P.G, 1980) [10].
Như vậy, CQ trước hết như là một tổng hợp thể tự nhiên (khái niệm chung), vừa
được xét như một đơn vị cá thể, vừa được xét như một đơn vị loại hình. Trong luận văn
này chúng tôi sử dụng quan niệm CQ là đơn vị mang tính kiểu hình để thành lập bản đồ
CQ vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.


1.1.1.2. Hướng NCCQ phục vụ phát triển kinh tế
Cảnh quan học đã vận dụng những tri thức địa lý chung để nghiên cứu lãnh thổ cụ
thể. Học thuyết CQ cũng như khoa học địa lý, tuân thủ các giai đoạn phát triển: phân tích
bộ phận, tổng hợp, tổng hợp bậc cao hơn và phát triển theo dạng xoắn ốc, ngày càng đi
sâu vào bản chất sự vật, hiện tượng của lớp vỏ CQ.
Cùng với sự phát triển khoa học địa lý bộ phận, thành tựu nghiên cứu địa lý sinh vật
và phân hoá không gian của các hợp phần CQ, khoa học CQ xác định một thời kì nghiên

cứu sự phân chia bề mặt Trái đất. CQ học là học thuyết về các quy luật phân hoá lãnh thổ
của lớp vỏ địa lý; CQ là đơn vị cơ sở. Hệ thống phân vùng được xem như là nhóm các
CQ vào các liên kết lãnh thổ bậc cao trên cơ sở các mối quan hệ liên CQ về mặt không
gian và lịch sử [20]. Đây là giai đoạn nghiên cứu cấu trúc không gian của CQ.
Hướng nghiên cứu cấu trúc xác định tính chất CQ. Do đó, các nghiên cứu hướng
sâu vào chỉ tiêu định lượng tính chất CQ, sử dụng các biện pháp như: tiếp cận hệ thống,
tiếp cận điều khiển, tiếp cận sinh thái, nghiên cứu tác động kĩ thuật (nhân tác) vào
NCCQ... Điều này đánh dấu hướng chuyển từ nghiên cứu cấu trúc không gian sang
nghiên cứu chức năng động lực của CQ và đây là cơ sở cho sự ra đời của nhiều bộ môn
khoa học mới: địa vật lý CQ, địa hoá học CQ, vật hậu học CQ, sinh thái học CQ...
Cùng thời gian này, vấn đề “môi trường sống dựa trên các nguyên tắc sinh thái và
CQ địa lý” góp phần tạo nên hướng NCCQ mới - hướng sinh thái CQ, nhưng nó ít có tiến
bộ rõ rệt trong lĩnh vực lý thuyết. Việc sinh thái hoá CQ là sử dụng phương pháp nghiên
cứu HST trong NCCQ, coi mỗi đơn vị CQ là một HST. Nghiên cứu thể tổng hợp ĐLTN
hay hệ địa - sinh thái, nhằm nhấn mạnh vai trò của giới hữu sinh trong tổng thể. Tiếp cận
hệ thống đối với hệ địa - sinh thái (hệ thống động lực hở tự điều chỉnh) đồng nghĩa với
việc nghiên cứu các thành phần, các mối quan hệ tương hỗ giữa chúng. Để hiểu mối cân
bằng của một hệ địa - sinh thái cần hiểu mối liên hệ nội tại giữa các thành phần thuộc hai
nhóm vật chất vô cơ và hữu cơ [6], [26]. Hướng sinh thái hoá CQ là hướng ứng dụng với
mục đích nghiên cứu trao đổi và chuyển hoá vật chất của vòng tuần hoàn sinh vật trong
CQ, bảo vệ và làm tốt hơn môi trường sống. Qua đó, con người có thể điều chỉnh hoạt
động của hệ theo hướng mong muốn.
Hướng “CQ sinh thái” - một nhánh khác của khoa học CQ, được nảy sinh trong sự
tiếp xúc và liên kết nghiên cứu giữa CQ học và sinh thái học. Nó hoàn toàn khác “sinh
thái hoá CQ” cả về đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. CQ sinh thái kế
thừa và phát triển kết quả NCCQ và HST. CQ sinh thái nghiên cứu sự phân hoá của các


đơn vị CQ sinh thái theo hệ thống phân bậc. Tiếp cận sinh thái vào NCCQ không có
nghĩa là đưa hoàn toàn các phương pháp HST vào NCCQ như trong sinh thái CQ.

Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và những ngành liên quan, NCCQ đã
đi sâu vào hướng nghiên cứu bản chất xu thế phát triển, mối quan hệ nhiều chiều giữa các
thành phần tự nhiên, đặc biệt là xu thế phát triển của CQ hiện đại dưới tác động kĩ thuật
của con người.
Hiện nay, xu hướng NCCQ trên thế giới và ở Việt Nam là dựa vào kết quả nghiên
cứu ở phạm vi toàn cầu. Các nhà CQ học tiếp tục đi sâu vào hướng tiếp cận khoa học
tổng hợp - NCCQ vùng. Quan trọng hơn là ứng dụng kết quả nghiên cứu đó cho các mục
đích thực tiễn: ĐGCQ cho mục đích phát triển sản xuất, KT – XH và bảo vệ môi trường
lãnh thổ trên quan điểm PTBV [10, tr.58].
1.1.1.3. Lý luận và phương pháp luận NCCQ
Theo GS. Nguyễn Thượng Hùng: “NCCQ thực chất là nghiên cứu về các mối quan
hệ tương hỗ giữa các hợp phần TN, nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và quy luật
phân hóa của TN nhằm phát hiện và phân chia các thể tổng hợp TN - các đơn vị CQ có
tính đồng nhất tương đối trong lãnh thổ đánh giá làm cơ sở đánh giá tổng hợp các
ĐKTN-TNTN và KT-XH để lập quy hoạch sử dụng hợp lý, phát triển kinh tế và BVMT”
[49, tr.3].
NCCQ nói chung hay phân tích, đánh giá tính đa dạng CQ một lãnh thổ là dựa vào
tiếp cận hệ thống để nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố thành phần trong
địa tổng thể và giữa các địa tổng thể TN với nhau. Để xác định cơ sở lý luận, phương
pháp luận cần xác định đối tượng nghiên cứu, những nguyên tắc cơ bản, cơ sở khoa học
thực hiện nội dung và đề xuất các bước nghiên cứu cụ thể... nhằm giải quyết mục tiêu và
nhiệm vụ đặt ra:
+ Đối tượng NCCQ là các đơn vị CQ, gồm đơn vị phân loại CQ (các cấp như: hệ,

lớp, kiểu, loại, dạng...) và đơn vị phân vùng CQ (các cấp như: địa ô, miền, vùng, xứ...).
Việc lựa chọn, sử dụng đối tượng nghiên cứu (đơn vị CQ) theo đơn vị phân loại hay đơn
vị phân vùng phụ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, đặc biệt là phụ thuộc vào tỉ lệ các bản
đồ sẽ xây dựng.
+ Những nguyên tắc nghiên cứu mang tính đặc trưng trong NCCQ là nguyên tắc


phát sinh, đồng nhất tương đối.
+ Từ những nguyên tắc cơ bản cùng với mục đích và đối tượng nghiên cứu, lựa

chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Sử dụng các phương pháp này làm rõ tính chất


đặc thù của TN và các đơn vị CQ nhằm tiến hành bước nghiên cứu tiếp theo: đánh giá
tính đa dạng, phức tạp mỗi CQ; xác lập quy trình nghiên cứu.
+ Các bước NCCQ gồm: xây dựng bản đồ CQ lãnh thổ nghiên cứu; xây dựng bản

đồ phân vùng CQ; phân tích cụ thể tính đa dạng về cấu trúc, chức năng và động lực theo
từng đơn vị CQ (theo đơn vi phân loại hoặc theo đơn vị phân vùng).
Theo lý luận chung, nghiên cứu đặc điểm CQ cần nghiên cứu về cấu trúc, chức
năng và động lực của CQ, cụ thể:
+ Về cấu trúc CQ: bao gồm cấu trúc đứng và cấu trúc ngang. Đặc trưng của CQ

thể hiện rõ nhất trong cấu trúc của nó. Mỗi đơn vị CQ dù ở cấp nào cũng được cấu tạo
bởi các thành phần TN có quan hệ mật thiết với nhau: địa chất, địa hình, khí hậu, nước,
đất, sinh vật, hoạt động nhân tác... Mỗi khu vực nghiên cứu thể hiện đặc điểm phân hoá
phức tạp theo không gian lãnh thổ của các đơn vị CQ nhưng vẫn có mối liên quan chặt
chẽ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các đơn vị từ cao xuống thấp (từ lớp CQ, phụ lớp CQ đến
kiểu CQ, loại CQ).
Phân hoá theo không gian và thành phần cấu tạo là đặc điểm rất quan trọng của CQ.
Nó liên quan đến quy luật biến động, phát triển của mỗi đơn vị CQ trong toàn hệ thống
CQ. Đây là cơ sở để xác định chức năng đặc trưng cho các mục đích sử dụng khác nhau.
+ Về chức năng CQ: qua cơ sở phân tích, ĐGCQ, xác định những chức năng chủ

yếu của chúng trên lãnh thổ nghiên cứu như: chức năng phòng hộ bảo vệ, chức năng phục
hồi và bảo tồn, chức năng phát triển kinh tế sinh thái, chức năng sản xuất lương thực thực
phẩm, chức năng NTTS, chức năng thuỷ điện, chức năng công nghiệp, đô thị...

+ Về động lực của CQ: các CQ luôn chịu sự tác động trong suốt quá trình hình

thành, phát triển của mình. Động lực phát triển CQ phụ thuộc các yếu tố của TN (năng
lượng bức xạ mặt trời, chế độ nhiệt, cơ chế hoạt động của gió mùa,...) và hoạt động khai
thác lãnh thổ của con người. Nhịp điệu và xu thế biến đổi của nó phụ thuộc sự luân phiên
tác động của chế độ mùa vào lãnh thổ. Tác động này làm biến đổi CQ qua sự gia tăng các
quá trình tích tụ và trao đổi vật chất - năng lượng trong nó, cả những tác động kìm hãm
hay thúc đẩy các quá trình TN. Tuy nhiên, yếu tố động lực có tính chất quyết định nhất
đến biến đổi CQ là các hoạt động khai thác lãnh thổ của con người. Tác động của con
người nếu theo hướng tích cực (trồng và bảo vệ rừng, xây hồ chứa...) tạo ra cân bằng TN,
tăng sinh khối CQ, cải thiện tốt môi trường khu vực. Nếu là những tác động tiêu cực (phá
rừng, làm thoái hoá đất, hoạt động kinh tế quá mức...) làm biến đổi, suy thoái CQ theo
chiều hướng xấu.


Những lí luận NCCQ nêu trên được đề tài vận dụng trong khi tìm hiểu, nghiên cứu
các ĐKTN và TNTN của hệ thống lãnh thổ vùng ĐNN Đồng Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp
nhằm xác định các loại CQ khác nhau trên lãnh thổ, đánh giá tổng hợp chúng cho mục
đích phát triển và bố trí hợp lí các ngành NLNN.
1.1.2. Lí luận chung về ĐGCQ
1.1.2.1. Khái niệm ĐGCQ
Đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN một lãnh thổ là rất phức tạp. Đối tượng của
ĐGCQ là các hệ địa lý, nhưng bản thân hoạt động đánh giá lại thể hiện cơ chế quan hệ
tương hỗ giữa hệ thống TN (khách thể) và hệ thống KT-XH (chủ thể). Vậy nên, “thực
chất ĐGCQ là đánh giá tổng hợp các tổng thể TN cho mục đích cụ thể nào đó (nông
nghiệp, thuỷ sản, du lịch, tái định cư...)” [19, tr.18].
Nói cách khác ĐGCQ là đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN lãnh thổ nghiên cứu cho
mục đích thực tiễn. Tuỳ thuộc từng mục đích cụ thể, lựa chọn kiểu đánh giá phù hợp. Mỗi
kiểu đánh giá biểu thị một giai đoạn đánh giá theo yêu cầu từ thấp đến cao. Đánh giá
chung: giai đoạn đánh giá sơ bộ, ban đầu trên cơ sở các kết quả nghiên cứu TN theo vùng

lãnh thổ, mang tính định hướng chung cho các mục đích thực tiễn khác nhau; Đánh giá
mức độ “thuận lợi” hay “thích hợp” của ĐKTN, TNTN đối với các ngành sản xuất và
đánh giá kinh tế - kỹ thuật đề cập sâu hơn đến giá trị và hiệu quả của các ngành sản xuất
đó. Kiểu đánh giá phổ cập nhất trong những thập kỉ gần đây là đánh giá mức độ “thuận
lợi” hay “thích hợp” của ĐKTN, TNTN cho các dạng khai thác khác nhau. Đây là cơ sở
khoa học quan trọng nhất của bước đánh giá kinh tế - kỹ thuật và là cơ sở tiền quy hoạch
cho từng lãnh thổ riêng biệt.
Vậy ĐGCQ là bước trung gian giữa nghiên cứu cơ bản và quy hoạch sử dụng hợp
lý tài nguyên và BVMT.
1.1.2.2. Hướng ĐGCQ phục vụ sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT
Cùng với sự tiến bộ xã hội, phát triển khoa học kĩ thuật và sản xuất, con người ngày
càng có nhu cầu cao về khai thác tài nguyên phục vụ phát triển KT-XH. Đồng thời, tác
động vào môi trường TN ngày càng mạnh. Con người khai thác ĐKTN, TNTN quá mức,
thậm chí vượt quá khả năng tự điều chỉnh và phục hồi của TN. Hậu quả là: làm cạn kiệt
nhiều loại tài nguyên, suy thoái môi trường TN, đe doạ cuộc sống con người...
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, con người không thể không khai
thác tài nguyên. Trước thực tế đó, yêu cầu khai thác và sử dụng hợp lý ĐKTN, TNTN là
vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Tuy vậy, yêu cầu này chỉ đáp ứng được khi có những kết quả


nghiên cứu tổng hợp. Vì vậy, đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN lãnh thổ nhằm xây dựng
cơ sở khoa học cho khai thác và sử dụng hợp lí chúng là rất cần thiết. Cách tiếp cận có
hiệu quả và tổng hợp nhất là nghiên cứu, phân tích, đánh giá thể tổng hợp TN lãnh thổ
cho mục đích thực tiễn. Đánh giá ở đây là đánh giá về mặt kinh tế, kỹ thuật của ĐKTN,
TNTN, so sánh khả năng đáp ứng của hệ thống TN với yêu cầu của hệ thống KT-XH.
Hiện nay, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá ĐKTN, TNTN cho mục
đích phát triển các vùng lãnh thổ như vùng đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ, Lai Châu, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế và nhiều tỉnh, khu vực khác.
Những công trình này góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề KT-XH, môi
trường...

1.1.2.3. Lý luận và phương pháp ĐGCQ
Khoa học đánh giá không chỉ là khoa học liên ngành (gồm kinh tế, xã hội, bản đồ,
toán học điều khiển, quản lý...) mà còn là khoa học địa tiêu chuẩn hoá. Vậy nên đối
tượng, nguyên tắc, phương pháp tiến hành của khoa học đánh giá là tập hợp các nguyên
tắc, phương pháp của từng ngành riêng.
Theo các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn thì đánh giá tổng hợp bao gồm:
lý thuyết đánh giá chung và thủ pháp tiến hành. Trong lý luận chung của đánh giá tổng
hợp, quan trọng nhất là xác định đối tượng, mục đích, nội dung, lựa chọn chỉ tiêu,
phương pháp đánh giá và xác định nhiệm vụ của tình huống đánh giá.
* Đối tượng đánh giá là các hệ địa lý, đặc điểm cấu trúc chức năng, động lực của

các thể tổng hợp TN, các quá trình và hiện tượng TN chung. Đối tượng đánh giá tổng hợp
không phải là một đơn vị cá thể riêng lẻ, các thành phần, các yếu tố riêng biệt của TN, xã
hội mà là tổng hoà các mối quan hệ, các tác động qua lại giữa hệ thống TN và hệ thống
KT-XH.
Để có kết quả đánh giá đúng, phải có số đo về trao đổi vật chất và năng lượng trong
quan hệ tương hỗ giữa hai hệ thống (hệ thống TN và hệ thống KT-XH). Theo Terry
Rambo, mối quan hệ giữa hệ thống TN và hệ thống KT-XH được biểu diễn theo sơ đồ
sau:
Hình 1.1: Sơ đồ trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin và mối quan hệ giữa hệ
thống tự nhiên và hệ thống KT – XH


Giải quyết mối quan hệ giữa hệ TN và hệ KT-XH là giải quyết mối quan hệ
giữa thích ứng và chọn lọc. Hệ TN không thể thích ứng với hệ KT-XH, mà hệ KT-XH
phải thích ứng và chọn lọc với hệ thống TN. Yêu cầu của đánh giá phải hiểu được
những quy luật của TN, mối quan hệ giữa hệ thống TN và hệ thống KT-XH để đưa ra
các biện pháp tác động đúng đắn. Đây là cơ sở khoa học của công tác đánh giá tổng hợp
các ĐKTN, TNTN.
* Mục đích của đánh giá là sử dụng môi trường TN hợp lí nhất, hiệu quả nhất,


tối ưu nhất và đảm bảo hướng PTBV nhất.
Một ĐKTN có thể tốt cho mục đích này nhưng không tốt cho mục đích khác. Có
thể nói rằng đặc điểm của TN là “đơn trị” nhưng giá trị kinh tế của đặc điểm TN là “đa
trị” nên số đo giá trị đặc điểm TN qua quan trắc khác hẳn giá trị kinh tế của nó. Vì vậy,
hoạt động đánh giá cần xác định được giá trị kinh tế của ĐKTN, TNTN. Mức độ sử
dụng ĐKTN, TNTN cho các mục đích rất khác nhau nên kết quả đánh giá tổng hợp
cũng biểu thị mức độ “thích hợp” khác nhau cho việc sử dụng chúng.
Hoạt động đánh giá không thể làm một lần. Nó theo một quá trình nhận thức, tiếp
cận với đánh giá: kiểm kê lại, đánh giá lại tác động của đối tượng trong hệ địa kinh tế kỹ thuật. Vậy nên, không thể tồn tại một kiểu đánh giá chung chung. Căn cứ vào từng
mục đích cụ thể để chọn ra cách đánh giá cụ thể.
* Nhiệm vụ cụ thể của công tác đánh giá thường gắn liền với mục đích đánh giá

cho các thể tổng hợp (tự nhiên)TN riêng biệt. Có hai kiểu đánh giá là: Đánh giá về mặt
chất lượng và đánh giá kinh tế. Đánh giá chất lượng: đánh giá định tính, phân loại mức
độ tốt


xấu theo cấp, theo mức độ thuận lợi nhiều hay ít. Đánh giá kinh tế: hiệu quả kinh tế đánh
giá bằng tiền, nhưng phải xem xét toàn diện các mặt vì sự PTBV của môi trường sinh
thái. Lợi ích sinh thái của môi trường nhiều khi không thể tính được bằng tiền. Do đó,
đứng trên quan điểm sinh thái, cần sử dụng các mô hình đánh giá khác nhau.
* Nguyên tắc của đánh giá tổng hợp là thông qua đặc điểm, tính chất của chủ thể,

tương ứng với chúng là đặc tính thành phần của khách thể để xác định mức độ thích hợp
của các thể tổng hợp TN cho từng ngành sản xuất, kinh tế riêng biệt. Đa phần khi đánh
giá cần tính đến khả năng sử dụng vào nhiều mục đích của lãnh thổ (đánh giá cho yêu cầu
của nhiều chủ thể).
Việc lựa chọn đúng phương pháp đánh giá quyết định mức độ chính xác, chi tiết và
kết quả công tác đánh giá. Phương pháp tổng hợp bao gồm: phương pháp mô hình chuẩn

(mô hình hoá tối ưu), phương pháp bản đồ, phân tích tổng hợp, so sánh định tính,
phương pháp thang điểm tổng hợp có trọng số... Quá trình đánh giá có thể sử dụng riêng
lẻ hoặc kết hợp các phương pháp với nhau.
Trong đánh giá, cần tìm hiểu nhân tố giới hạn (nhân tố loại trừ khả năng sử dụng
vào một mục đích nào đó). Việc xác định được nhân tố giới hạn giúp đơn giản hoá quá
trình đánh giá. Vì địa tổng thể chứa đựng nhân tố giới hạn nào đó được xem là bất lợi cho
việc sử dụng sẽ không được đánh giá, mặc dù các nhân tố khác của nó thuận lợi hay trung
bình.
Thang bậc đánh giá: tuỳ theo yêu cầu đánh giá (khái quát hoặc chi tiết), thường lựa
chọn thang đánh giá từ 2,3... 10 cấp hoặc nhiều hơn.
Chỉ tiêu đánh giá được lựa chọn phụ thuộc đối tượng, mục đích đánh giá. Yêu cầu
của chỉ tiêu là các đặc điểm đặc trưng của lãnh thổ (có thể là chỉ tiêu giới hạn đối với
mục đích sử dụng lãnh thổ đó). Bao gồm: các chỉ tiêu tự nhiên; các chỉ tiêu KT-XH và
hoạt động nhân tác. Việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá tuân thủ các nguyên tắc:
+ Chỉ tiêu lựa chọn phải phản ánh mối quan hệ của chúng đối với yêu cầu của chủ

thể (dạng sử dụng).
+ Số lượng yếu tố chỉ tiêu lựa chọn phải ít hơn hoặc bằng số lượng tính chất của các

CQ đã biết và liệt kê trong bảng đánh giá.
+ Ưu tiên lựa chọn các chỉ tiêu có sự phân hoá trong không gian.

Tuỳ vào mục đích đánh giá, số lượng và mức độ quan trọng của chỉ tiêu đánh giá sẽ
thay đổi. Với mỗi mục đích, lựa chọn những loại chỉ tiêu thích hợp, xác định trọng số
theo thứ tự ưu tiên cho từng chỉ tiêu.


Trong đánh giá tổng hợp các ĐKTN, TNTN, lựa chọn phương pháp, thang bậc hay
hệ thống chỉ tiêu đánh giá là rất phức tạp. Nó phụ thuộc chặt chẽ vào mức độ phân hoá
của TN, sự nhạy cảm và hiểu biết nhuần nhuyễn TN lãnh thổ của người nghiên cứu. Kết

quả đánh giá còn được kiểm nghiệm và điều chỉnh lại cho phù hợp với từng ngành sản
xuất trên lãnh thổ nghiên cứu. Trong quá trình đánh giá, tổng hợp hoặc thay đổi phương
pháp là tất yếu để đạt kết quả đánh giá chính xác và hiêu quả.
Qua nhiều công trình nghiên cứu của các nhà địa lý Xô Viết, các mô hình đánh
giá tổng hợp khái quát cho các lãnh thổ: mô hình đánh giá chung của Mukhina L.I
(1970); mô hình đánh giá tổng hợp các ĐKTN, TNTN cộng hoà Ucraina của Marinhich
A.M (1970); mô hình đánh giá thiết kế lãnh thổ CH Ucraina của Sisenko P.G (1983) và
nhiều công trình khác. Có thể khái quát nội dung quá trình đánh giá tổng hợp theo mô
hình sau [10]:
Hình 1.2: Sơ đồ khái quát nội dung quá trình đánh giá tổng hợp

Đánh giá tổng hợp
Xác định mức độ thích hợp của
các thể tổng hợp TN đối với các
mục tiêu thực tiễn cụ thể
Đề xuất các kiến nghị
sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi
1.1.3. Hệ thống phân loại CQ và bản đồ CQ
1.1.3.1. Hệ thống phân loại CQ
* Các nguyên tắc và phƣơng pháp xây dựng hệ thống phân loại CQ
Phân loại CQ là khâu quan trọng trong nghiên cứu và thành lập bản đồ CQ. Trên thế
giới và ở Việt Nam có rất nhiều hệ thống phân loại khác nhau, nhưng chưa có một hệ
thống phân loại thống nhất cho từng cấp lãnh thổ cụ thể.
Theo tác giả Vũ Tự Lập và nhiều nhà NCCQ thì khi tiến hành phân loại CQ, đưa ra
một hệ thống phân loại cho từng cấp, cần đảm bảo những nguyên tắc chung như sau
[23,tr.95], [27,tr.114].


- Phân loại riêng từng cấp phân vị, mỗi hệ thống có số lượng cá thể riêng, chỉ tiêu


phân loại riêng và số lượng bậc phân loại riêng.
- Hệ thống phân loại phải phản ánh đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa các quy

luật phân hoá không gian phổ biến của địa lý quyển, đây là nguyên nhân chính dẫn đến
sự hình thành nên các cấp.
- Hệ thống phân loại phải bao quát đầy đủ các cấp có thể áp dụng cho việc thành lập

bản đồ CQ ở mọi tỉ lệ, cho mọi lãnh thổ lớn nhỏ, cả cho miền núi lẫn đồng bằng. Hệ
thống phân loại phải bao quát đầy đủ các cá thể, không thể có tình trạng không thể biết
xếp một cá thể vào bậc phân loại nào, đồng thời cũng không được xếp một cá thể vào vài
bậc phân loại khác nhau.
- Mỗi bậc phân loại chỉ được dùng một tiêu chí. Nếu muốn dùng nhiều chỉ tiêu, thì

phải kết hợp chúng lại thành một chỉ tiêu tổng hợp.
- Hệ thống phân loại phải có số bậc hợp lý tuỳ thuộc vào tính chất của đối tượng

phân loại. Tránh quá nhiều (sẽ gây rườm rà), tránh thiếu bậc (gây khó hiểu cho mối liên
hệ giữa các bậc). Nên chọn những yếu tố quan trọng chi phối hoặc đại diện nhiều yếu tố
khác nhau.
- Chú ý đến danh pháp cho từng bậc phân loại khác nhau, đồng thời đơn vị bậc dưới

nên có dấu vết của bậc trên trong tên gọi và kí hiệu.
Những nguyên tắc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Luận văn đã áp dụng linh
hoạt các nguyên tắc này trong quá trình phân loại CQ cho khu vực nghiên cứu.
Sự phân hoá của CQ là phân hoá cấu trúc của các thành phần. Các thành phần này
xâm nhập, tác động tương hỗ với nhau. Mối tương quan giữa các thành phần CQ không
biểu hiện lên bề mặt Trái đất. Nghiên cứu đặc trưng cấp phân vị cần dựa vào tổng thể các
dấu hiệu địa đới và phi địa đới. Thống nhất giữa quy luật địa đới và phi địa đới là sự
thống nhất biện chứng. Mặt nào đó trội lên thì mặt kia sẽ giữ vai trò thứ yếu. Do đó, khi

phân loại không nên xét chúng trong mối quan hệ đồng cấp.
Xây dựng một hệ thống phân loại đầy đủ, các cấp ứng với các chỉ tiêu khác nhau,
tránh những cấp mà chỉ tiêu chưa thật rõ ràng, chưa có sự thống nhất cao của nhiều nhà
nghiên cứu. Mỗi chỉ tiêu phân hoá chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một vùng nhất định.
Khó có thể áp dụng hệ thống phân loại, chỉ tiêu các cấp của vùng này cho vùng khác. Vì
vậy, căn cứ vào đặc thù TN, sự phân hóa CQ của khu vực nghiên cứu, chúng tôi đã xây
dựng được hệ thống phân loại CQ riêng cho lãnh thổ nghiên cứu là vùng đất ngập nước
Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp.
* Một số hệ thống phân loại phổ biến trong NCCQ
+ Một số hệ thống phân loại CQ trên thế giới


Cho đến nay, CQ học vẫn chưa có một hệ thống phân loại được nhiều người chấp
nhận là đủ cơ sở khoa học và chỉ tiêu cụ thể cho từng cấp. Để xây dựng hệ thống phân
loại và thành lập bản đồ CQ vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp,
chúng tôi tham khảo một số hệ thống phân loại của tác giả nước ngoài. Chúng tôi không
có ý định phân tích ưu khuyết điểm của các hệ thống, chỉ nêu một số hệ thống phân loại
có tính chất phổ biến nhằm thuận cho việc xác lập hệ thống phân loại phù hợp với khu
vực nghiên cứu.
Các hệ thống phân loại đều phân chia các cấp dựa vào quy luật địa đới và phi địa
đới nhưng đánh giá vai trò của chúng là khác nhau, nên có sự khác nhau giữa các hệ
thống và phân tán trong việc xây dựng hệ thống phân loại.
Hệ thống phân vị của phân vùng là hệ thống phân loại các thể tổng hợp ĐLTN cá
thể. Trong nghiên cứu các thể tổng hợp ĐLTN cần phân chia theo các đơn vị kiểu loại.
Hiện nay, xây dựng bản đồ CQ các tỉ lệ cũng sử dụng rộng rãi các đơn vị phân vùng theo
kiểu loại để thể hiện các thể tổng hợp kiểu loại (các CQ). Sau đây là 3 công trình tiêu
biểu của phân loại CQ theo kiểu loại.
- Hệ thống phân loại CQ của A.G. Ixasenco (1961)





Gồm 8 bậc: Nhóm kiểu

kiểu

phụ kiểu

lớp

phụ lớp



loại



biến chủng (thể loại) [20], [43], [49].
Bảng 1.1: Hệ thống phân loại CQ của A.G. Ixasenco (1961)
STT

Đơn vị
Nhóm kiểu

1
2

Kiểu


3

Phụ kiểu

4

Lớp

5

Phụ lớp

6

Loại

7

Phụ loại
8

Biến
chủng

phụ loại




(thể loại)

- Hệ thống phân loại CQ của N.A. Gvozdexki (1961)









Gồm 5 bậc: lớp kiểu phụ kiểu nhóm loại [23], [43], [49]
Bảng 1.2: Hệ thống phân loại CQ của N.A. Gvozdexki (1961)
STT
1

Đơn vị
Lớp

2
Kiểu
3

Phụ kiểu
(biến thể
của kiểu)

4

Nhóm


5

Loại

- Hệ thống phân loại CQ của Nhikolaev (1966)
Gồm 12 cấp: Thống







hệ



phụ hệ



lớp



phụ lớp



nhóm




kiểu

phụ hạng loại phụ loại [10], [43], [49]
Bảng 1.3: Hệ thống phân loại CQ của Nhikolaev (1966)
ST
T

Đơn vị

1
2

Thống
Hệ

3

Phụ hệ

4

Lớp

5

Phụ lớp


6

Nhóm

7
8

Kiểu
Phụ
kiểu
Hạng

9



phụ kiểu



hạng




10
11

Phụ
hạng

Loại

12

Phụ loại

Những hệ thống phân loại trên cho thấy: thứ tự cấp bậc không đồng nhất trong sơ
đồ phân loại của các tác giả, có sơ đồ thì đặt cấp kiểu trên cấp lớp, đa số các sơ đồ lại đặt
cấp lớp trên cấp kiểu.
+ Một số hệ thống phân loại CQ áp dụng cho lãnh thổ Việt Nam.
- Hệ thống phân loại của tác giả nước ngoài
- Người đưa ra hệ thống phân vùng đầu tiên cho nước ta là T.N. Seglova (Liên Xô

cũ) trong công trình “Việt Nam” (1957) - tác phẩm địa lý Việt Nam ra đời đầu tiên. Ông
sử dụng hệ thống phân vị đơn giản, có 2 cấp: vùng và á vùng.
- Trong “Thiên nhiên miền Bắc Việt Nam”(1961) của Fridland, sử dụng hệ thống

phân vị gồm 5 cấp. Mối quan hệ giữa các cấp không rõ ràng. Miền Bắc Việt Nam được
chia thành 3 lãnh thổ: đồng bằng, đồi, núi. Lãnh thổ đồng bằng và đồi, được chia ra tỉnh
 vùng. Lãnh thổ núi chia theo hệ thống khác: lãnh thổ



khu vực đá silicat) hoặc vùng (đối với các khu vực đá vôi).

quận



á quận




đới (đối với

- Hệ thống phân vị này không chỉ rõ quan hệ của các cấp với cấp trên nó và không

có chỉ tiêu cho từng cấp cụ thể [30].
- Hệ thống phân loại của tác giả Việt Nam

Các tác giả nghiên cứu về CQ nước ta đưa ra nhiều hệ thống phân loại, nhưng chưa
có một hệ thống phân loại chung cho toàn lãnh thổ. Các hệ thống phân loại có hướng tiếp
cận khác nhau, phục vụ nhiều mục đích khác nhau, số lượng cấp CQ trong hệ thống phân
loại không giống nhau nhưng không mâu thuẫn về nguyên tắc phân chia.
Hệ thống phân loại của Vũ Tự Lập (1974), áp dụng cho NCCQ miền Bắc Việt Nam
gồm 16 cấp [23]. Mỗi cấp phân vị có chỉ tiêu chuẩn đoán kèm theo. Đây là hệ thống phân
loại đồ sộ, có tính lý thuyết cao, có nguyên tắc rõ ràng, phản ánh đúng đắn mối quan hệ
không gian của địa lý quyển, có đầy đủ các cấp (phần đất liền) để phân vùng ở mọi tỉ lệ
cho lãnh thổ có kích thước lớn nhỏ, cho cả miền núi và đồng bằng. Hệ thống phân loại
này được xây dựng theo quan điểm các đơn vị CQ là những cá thể, không lặp lại trong


không gian. Vì thế, không thể áp dụng cho bản đồ phân kiểu CQ. Trong hệ thống này có
những đơn vị bắt buộc với chỉ tiêu chính xác để làm chỗ dựa cho phân vùng một lãnh thổ
theo hướng “từ trên xuống” hoặc “từ dưới lên”, từ cấp lớn nhất (địa lí quyển) đến cấp nhỏ
nhất (điểm địa lý). Chúng tôi nhận thấy khó áp dụng hệ thống phân loại này cho một lãnh
thổ nhỏ như khu vực luận văn tiến hành nghiên cứu.
Hình 1.3: Sơ đồ hệ thống phân loại của Vũ Tự Lập (1974), áp dụng cho NCCQ miền

Đất liền

Ô địa lý
Xứ địa lý
Miền địa lý
Khu địa lý

Khối địa lý

Á khu địa lý

Đai cao địa lý
Cảnh địa lý
Á đai cao địa lý

Á cảnh địa lý

Nhóm dạng địa lý
Dạng địa lý
Á dạng địa lý

Nhóm diện địa lý
Diện Địa lý
Điểm địa lý
Ngoài hệ thống trên, có rất nhiều hệ thống phân loại khác:
- Vũ Tự Lập (1983): hệ thống phân loại 4 cấp áp dụng cho bản đồ các kiểu CQ Việt

Nam tỉ lệ 1: 2.000.000, gồm: Lớp CQ



phụ lớp




hệ



kiểu [49].


×