Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Nghiên cứu giá trị của GP73 trong chẩn đoán ung thư gan trên bệnh nhân nhiễm virus viêm gan b 14

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.02 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Tự NHIÊN

Trần Thị Thanh Huyền

NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA GP73 TRONG
CHẴN ĐOÁN UNG THƯ GAN TRÊN BỆNH NHÂN
NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Tự NHIÊN

Trần Thị Thanh Huyền

NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA GP73 TRONG
CHẴN ĐOÁN UNG THƯ GAN TRÊN BỆNH NHÂN
NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B
Chuyên ngành

: Sinh học thực nghiệm

Mã số

: 60420114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Lê Hữu Song

PGS. TS. Hoàng Thị Mỹ Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Lê Hữu Song - Bệnh viện TƯQĐ 108, PGS.TS Hoàng
Thị Mỹ Nhung - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Các số liệu, những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung
thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu của mình.

Học viên

Trần Thị Thanh Huyền


LỜI
CẢM ƠN
MỤC

LỤC
Để có thể hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, biết ơn
sâu sắc tới PGS.TS. Lê Hữu Song - Bệnh viện TƯQĐ 108; PGS.TS. Hoàng Thị
Mỹ Nhung - Bộ môn Sinh học tế bào, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học

Tự nhiên đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt thời gian tôi thực hiện
đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS. BS. Phan Quốc Hoàn đã tạo điều kiện
để tôi thực hiện luận văn tại khoa Sinh học phân tử - Bệnh viện Trung ương quân
đội 108; tới các anh chị tại khoa Sinh học phân tử - Bệnh viện Trung ương quân đội
108 đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Bộ môn Sinh họcTế bào và lãnh
đạo Khoa Sinh học đã giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi học tập


nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè

đãủng hộ,

giúp đỡ tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành được luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên

Trần Thị Thanh Huyền



DANH MỤC
BANG
Bảng
So sánh mức độ biểu hiện protein GP73 giữa các nhóm

nghiên3.12:
cứu ....51


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFP

: Alpha Feto Protein

bp

: base pair

cADN

: complementary ADN

dNTP

: deoxyribonucleotide triphosphate

ADN

: Acid deoxyribonucleic

ABL

: Abelson

ARN

ELISA

: Acid ribonucleic
: Enzyme Linked Immunosorbent Assay (Kỹ thuật miễn
dịch gắn men)

GOLM1

: Golgi Membrane Protein 1

GP73
HBsAg

: Golgi protein 73
: Hepatitis B surface Antigen (Kháng nguyên bề mặt

virus viêm gan B)
HBV
HCC

: Hepatitis B virus (Virus viêm gan B)
: Hepatocellular carcinoma (Ung thư tế bào gan nguyên
phát)

CHB

: Chronic hepatitis (Viêm gan B mạn tính)

CH


: Healthy control (Nhóm người khỏe mạnh)

LC

: Liver cirrhosis (Xơ gan)

M-MLV

: Moloney Murine Leukemia Virus

mARN

: Messenger ARN

PCR
Real Time
PCR

: Polymerase Chain Reaction (Phản ứng chuỗi trùng hợp)

RT- PCR

: Reverse transcriptase Polymerase chain Reaction (Phản

: Real Time Polymerase chain Reaction (Phản ứng chuỗi
trùng hợp tính theo thời gian thực)
ứng chuỗi trùng hợp sử dụng enzyme phiên mã ngược)

RT


: Reverse transcription (Quá trình phiên mã ngược)


ROC curve

: Receiver operating characteristic curve - đường cong
ROC

VGM

: Viêm gan mạn

VRVGB

: Virus viêm gan B


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư gan là một trong những nguyên nhân gây tử vong phổ biến trên thế
giới, đứng hàng thứ 5 đối với nam giới và hàng thứ 9 đối với nữ giới. Theo thống kê
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), riêng năm 2012 trên thế giới có 789.000 trường
hợp mắc mới và 746.000 trường hợp tử vong. Ung thư gan là nguyên nhân đứng
hàng thứ 2 chỉ sau ung thư phổi cả về tỷ lệ mắc mới và tử vong do các bệnh ung thư
ở Việt Nam.
Kết quả các nghiên cứu trước đây đã chứng minh nhiễm virus viêm gan B
(HBV) là nguyên nhân chủ yếu gây ung thư gan. Tuy nhiên không phải tất cả các
bệnh nhân nhiễm HBV đều tiến triển thành ung thư gan. Nhiễm HBV có thể gây ra
viêm gan cấp tính tự hồi phục, người mang HBV mạn tính không triệu chứng hoặc
tiến triển thành viêm gan mạn tính, xơ gan, viêm gan ác tính, và ung thư gan.
Việt Nam là nước có tỷ lệ nhiễm HBV đứng hàng cao nhất thế giới với tỷ lệ

HBsAg (+) ở người lớn khoẻ mạnh từ 10 - 20% có nơi lên tới 26%. Như vậy, với
dân số hơn 90 triệu người, ước tính có hơn 10 triệu người đang mang HBV mạn
tính ở nước ta và nguy cơ phát sinh ung thư gan ở những người này là rất lớn.
Ung thư gan thường được chẩn đoán xác định ở giai đoạn muộn. Nguyên nhân
chẩn đoán ung thư gan muộn là do sự hạn chế về các phương pháp phát hiện hiện
nay. Các phương pháp chẩn đoán và sàng lọc ung thư gan hiện chủ yếu dựa vào xét
nghiệm định lượng AFP trong máu, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT scanner),
chụp cộng hưởng từ. Tuy nhiên, AFP chỉ có độ nhạy 60-70%, trong khi đó siêu âm
chỉ có khả năng phát hiện được khối u gan có kích thước từ 2cm trở lên. Điều này
có nghĩa cần tiếp tục tìm kiếm các công cụ mới hỗ trợ cho phương pháp chẩn đoán
đang có.

9


GP73 (Golgi protein 73 hay còn được gọi là GOLM1- Golgi Membrane
Protein 1) là một protein xuyên màng golgi type II, có trọng lượng phân tử bằng 73
kDa. Chức năng của nó cho đến nay chưa được xác định rõ ràng. Các nghiên cứu
gần đây cho thấy, GP73 là một marker có tiềm năng hỗ trợ cho chẩn đoán sớm và
sàng lọc. Thậm chí khi so sánh giá trị của GP73 với AFP trong chẩn đoán ung
thưgan, một số tác giả còn cho thấy, mặc dù có độ đặc hiệu thấp hơn nhưng GP73 lại
có độ nhạy cao hơn so với AFP. Đặc biệt, khi so sánh đường cong ROC cho thấy
GP73 có giá trị tiên lượng HCC tốt hơn AFP. Với các lý do đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài ”Nghiên cứu giá trị của GP73 trong chẩn đoán ung thư tế bào
gan trên bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B” với các mục tiêu như sau:
1. Xác định mức độ biểu hiện gen của GP73 trên các nhóm bệnh nhân bệnh
gan do HBV: ung thư gan, xơ gan, viêm gan B mãn tính, và nhóm người
khỏe
mạnh.


So sánh giá trị chẩn đoán ung thư gan của nồng độ GP73 và AFP
huyết
tương.

10


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1.

Tình hình dịch tễ học bệnh ung thư gan.

1.1.1.

Dịch tễ học trên thế giới.

Ung thư gan là một trong những bệnh ung thư phổ biến trên thế giới, tập trung
chủ yếu ở các nước kém phát triển. Ung thư gan là bệnh có tỷ lệ mắc mới và tử
vong đứng hàng thứ 5 trong số các bệnh lý ác tính. Hàng năm có khoảng 782.000 ca
bệnh mới phát hiện, và tử vong khoảng 746.000 người [28].

Hình 1.1: Biểu đồ phân bố tỷ lệ mắc mới và tần suất tử vong của một
số bệnh ung thư điển hình trên thế giới (Globocan - 2012).


Ung thư gan thường tăng theo tuổi, tỷ lệ xuất hiện ung thư thường gặp nhất
là sau tuổi 65. Mặc dù ung thư gan thường ít gặp ở tuổi dưới 50 ở Bắc Mỹ và Tây
Âu, nhưng số liệu gần đây cũng cho thấy tuổi mắc ung thư có xu hướng trẻ hơn
trong khoảng 2 thập kỷ qua [8]. Ở các nước phương Tây ung thư gan cũng
thườngxuyên xảy ra trên các bệnh nhân xơ gan trên 90%, trong khi đó tại các nước

châu

Á

và châu Phi thì ung thư gan gặp nhiều hơn trên các bệnh nhân không có xơ gan [8].
1.1.2.

Dịch tễ học tại Việt Nam.

Theo WHO, ung thư gan là một trong các loại ung thư thường gặp nhất ở
Việt Nam, đứng hàng thứ 2 trong số các bệnh lý ác tính về tỷ lệ mắc mới và tỷ lệ tử
vong. Hàng năm có khoảng 21.997 ca bệnh mới phát hiện, và tử vong khoảng
20.920 người. Theo “Ghi nhận ung thư quần thể” tại thành phố Hồ Chí Minh năm
2006, ung thư gan đứng hàng thứ 1 ở nam giới với tần suất là 24,2/100.000 dân và
đứng hàng thứ 5 ở nữ giới với tần suất là 6,2/100.000 dân.

ASR (W) rate per 100,000

Hình 1.2: Biểu đồ phân bố tỷ lệ mắc mới và tần suất tử vong của một


số bệnh ung thư điển hình ở Việt Nam (Globocan - 2012).


Tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm tiếp nhận khoảng
500 ca ung thư gan mới. Trong những năm gần đây, mỗi năm, Việt Nam có đến
10.000 ca mắc bệnh mới, và trở thành quốc gia có tỉ lệ người mắc bệnh ung thư
ganhàng đầu thế giới. Phần lớn các bệnh nhân lại phát hiện bệnh trong giai đoạn
muộn
nên việc chữa trị không còn hiệu quả [51].

Do ung thư gan thường đa ổ và đa vị trí nên ngay trong những trường hợp ung
thư gan khu trú có phẫu thuật, chỉ khoảng 30-40% bệnh nhân sống được thêm 5
năm, còn trung bình là khoảng 3 năm.
Một nghiên cứu gần đây dựa trên các số liệu hiện có và sử dụng các thuật
toán để tính toán tiên lượng cho thấy tỷ lệ nhiễm HBV mạn tính tăng từ 6,4 triệu
người năm 1990 lên khoảng 8,4 triệu năm 2005 và tiên lượng đến năm 2025 là 8
triệu. Đó là kết quả của chương trình tiêm chủng để phòng nhiễm HBV. Trong khi
đó tỷ lệ xơ gan và ung thư gan do HBV lại có xu hướng tăng cao: năm 1990 là
21.900 đối với xơ gan, 9.400 đối với ung thư gan thì đến năm 2025 các số liệu
tương ứng là 58.650 và 25.000. Tỷ lệ tử vong do HBV tăng từ 12.600 năm 1990 và
có thể lên tới 40.000 ở năm 2025 [51].
1.2.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây ung thư gan.

Hình thành khối ung thư tế bào gan là một quá trình gồm nhiều giai đoạn và bị
tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
một số yếu tố khiến một người có nguy cơ mắc ung thư gan cao hơn những người
khác.


Hình 1.3: Các nguyên nhân gây ung thư


Viêm gan B: Viêm gan B là bệnh nhiễm trùng do virus tấn công gan, có thể
gây viêm gan cấp tính và mãn tính. Virus viêm gan B lây truyền qua đường máu
hoặc các dịch cơ thể của người mang virus. WHO cho biết hiện nay trên thế giới có
khoảng 240 triệu người mắc viêm gan B mãn tính (được định nghĩa là có kháng
nguyên viêm gan B bề mặt dương tính trong vòng ít nhất 6 tháng) [59]. Trong các
yếu tố nguy cơ gây ung thư gan thì nhiễm HBV là yếu tố nguy cơ hàng đầu (người

mang HBV mạn tính có nguy cơ phát triển ung thư gan cao gấp 100 - 200 lần so với
người không nhiễm loại virus này) [19, 34], là nguyên nhân gây ra 50 - 60% các ca
ung thư gan trên toàn thế giới [22]. Khi đó, ung thư gan là biến chứng muộn của
viêm gan B mãn tính, thường xảy ra vào độ tuổi 40-50 đặc biệt là khi các bệnh nhân
lớn tuổi hoặc bị xơ gan phát triển [19]. Tuy nhiên, không phải tất cả các bệnh nhân
nhiễm HBV đều tiến triển thành ung thư gan. Nhiễm HBV có thể chỉ là người mang
HBV mạn tính không triệu chứng nhưng cũng có thể gây viêm gan cấp tính tự hồi
phục, viêm gan ác tính hoặc tiến triển thành viêm gan mạn tính, xơ gan và thậm chí
ung thư gan. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó được nhiều nghiên cứu chứng
minh là có liên quan chặt chẽ đến kiểu gen, đột biến gen của HBV, tính chất di
truyền học của bệnh nhân cũng như quá trình tương tác giữa bộ gen của virus và
ADN của tế bào gan.
Viêm gan C: cũng giống như viêm gan B, viêm gan C là một bệnh truyền
nhiễm bởi virus, có thể gây nên cả viêm gan cấp và mãn tính.. Hiện nay trên thế giới
có 130-150 triệu người mắc viêm gan C mãn tính và có khoảng 500 nghìn người tử
vong vì các bệnh liên quan đến viêm gan C mỗi năm [60]. Đặc biệt, bệnh nhân
dương tính với viêm gan C có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp 17 lần những
người âm tính [14]. Bên cạnh đó, nguy cơ phát triển thành ung thư gan của những
người đã mắc viêm gan C tăng từ 2-6% qua mỗi năm [54]. Trong khi viêm gan B là
nguyên nhân chủ yếu gây ung thư gan tại các nước châu Á và châu Phi thì viêm gan
C lại là nguyên nhân chính gây ung thư gan tại Mỹ, Anh, Canada và Úc [23, 41].


Xơ gan: Xơ gan là bệnh mãn tính của gan, gây hủy hoại các tế bào gan và
thay thế bằng các tổ chức xơ hóa, các mô sẹo (scar tissue), khiến các tế bào mô
gankhông thể thực hiện chức năng vốn có của nó. Hình thành xơ gan đã được chứng
minh là một phần quan trọng trong việc phát triển thành ung thư gan [40, 36]. Hầu
hết (80-90%) những người tiến triển thành ung thư gan đều đã xuất hiện các triệu
chứng của xơ gan [21]. Xơ gan có thể do các nguyên nhân chủ yếu như lạm dụng
rượu bia, viêm gan B, viêm gan C mãn tính, viêm gan nhiễm mỡ không do rượu.

Các nguyên nhân này cũng là các yếu tố liên quan mật thiết đến hình thành khối u
tại gan.
Lạm dụng rượu bia: Sử dụng rượu là một nguy cơ đã được chứng minh làm
gia tăng nguy cơ gây ung thư gan [25, 5]. Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và
phân tích gộp thực hiện trên 19 nghiên cứu thuần tập chỉ ra rằng những người uống
3 cốc rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư gan cao hơn 16% những người không
uống rượu, còn với những người uống trên 6 cốc rượu mỗi ngày thì tỷ lệ này lên đến
22% [4].
Bên cạnh đó, thuốc lá cũng được chỉ ra là một nguyên nhân trực tiếp dẫn tới
ung thư gan. Trên nhiều nghiên cứu, nguy cơ tương đối giữa hút thuốc lá và ung thư
gan, giữa những người đang hút thuốc lá so với người không hút thuốc vào khoảng
1,2 đến 2 lần. Nguy cơ tương đối này thậm chí còn cao hơn khi so sánh giữa người
nghiện thuốc lá nặng so với người hút ít [11]. Ngoài ra, sử dụng thực phẩm chứa
aflatoxins [38], lạm dụng anabolic steroids [2], có bệnh nhiễm sắc tố sắt mô
(Hemochromatosis) [3], béo phì và tiểu đường [37, 58] là những yếu tố nguy cơ
khác có thể gây ung thư gan; các chất mốc trong lạc, đậu cũng đã được chứng minh
có mối liên quan mật thiết với hình thành ung thư gan.
1.3.

Mối liên quan giữa nhiễm HBV với ung thư gan.

Từ đầu những năm 1970, viêm gan B mãn tính đã được cho là có liên quan
tới sự phát triển của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) [55]. Nhiễm virus viêm gan
B là nguyên nhân gây ung thư gan, có đến 80% bệnh nhân HCC bị nhiễm virus
viêm gan B [16]. Trên thế giới có khoảng 5% dân số nhiễm HBV mãn tính, trong đó
châu Á chiếm 75% [49], ở các nước Tây Âu chiếm tỷ lệ ít hơn.


Cơ chế bệnh sinh của HBV liên quan đến HCC bao gồm rất nhiều các con
đường phức tạp và nhiều các chất sinh ung thư đã được đưa ra. Những quá trình gây

nên những tổn thương gan mãn tính, xơ gan và khi các tế bào gan tái sinh sẽ gây
nên các đột biến gây ung thư.
Viêm gan B mạn tính là yếu tố nguy cơ lớn nhất gây HCC ở châu Phi và
châu Á. 80% ung thư gan được tìm thấy trên nền gan xơ. Những người mang virus
viêm gan B mãn tính có nguy cơ tăng gấp 100 lần so với quần thể khỏe mạnh không
bị nhiễm. Những nghiên cứu từ Đài Loan chỉ ra mối liên kết trực tiếp giữa việc
mang virus viêm gan B (HBV) và nguy cơ phát triển ung thư gan trong vòng 10
năm [9, 27]. Nguy cơ bị HCC tăng lên rõ rệt khi HBV có số lượng vượt quá 10.000
copies/ml bất kể mức độ viêm gan.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự tương tác qua lại giữa gen HBV và gen
người làm thay đổi dòng tín hiệu nội, ngoại bào, từ đó có thể phát sinh ung thư.
Người ta nhận thấy gen HBx của HBV có một đoạn tương đồng với gen P53. Khi
HBx tích hợp vào bộ gen người sẽ gắn kết và làm bất hoạt gen P53, dẫn đến thay
đổi làm chết tế bào theo chương trình và khối u không bị ức chế. Bằng công nghệ
giải trình tự gen thế hệ mới đã phát hiện ra một vài kiểu gắn kết của gen virus với
gen tế bào gan như gắn kết theo trình tự sắp xếp nucleotide lặp lại phân bố rải rác
trong hệ gan.
1.4.

Chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan.

Chẩn đoán ung thư gan hiện nay bao gồm các khám xét lâm sàng, các xét
nghiệm cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và mô bệnh học.
1.4.1.

Khám lâm sàng.


Triệu chứng lâm sàng của ung thư gan thường nghèo nàn và không đặc hiệu.
Các triệu chứng này có thể không phát hiện được khi khối u còn nhỏ. Ung thư gan

thường gặp trên nền xơ gan nên có thể có những triệu chứng của xơ gan như chán
ăn, sợ mỡ, mệt mỏi. Bệnh nhân có thể gầy sút, vàng da, rối loạn tiêu hóa... Khi u đã
to, có thể xuất hiện các dấu hiệu như tức hay đau hạ sườn phải, xuất huyết dưới
da,phù, cổ trướng... Tuy nhiên, khi đã có những triệu chứng lâm sàng thì bệnh đã
vào
giai đoạn muộn.
1.4.2.

Xét nghiệm cận lâm sàng.

Một số các xét nghiệm chức năng đông máu, men gan, bilirubin máu,
protein, albumin máu. là những xét nghiệm không đặc hiệu chỉ có giá trị trong
đánh giá chức năng gan.
AFP (alpha-fetoproteinỴ là một protein trong huyết thanh, xuất hiện ở thời kỳ
bào thai và chỉ tồn tại sau khi trẻ ra đời khoảng 3 đến 4 tuần. Đối với người lớn,
bình thường nồng độ của AFP trong máu thấp dưới 10ng/ml. Khi bệnh nhân bị
HCC, lượng AFP tăng cao. Tuy nhiên, sự tăng nồng độ AFP trong máu phải đạt đến
mức có ý nghĩa là trên 400ng/ml. Ở mức 200 ng/ml độ nhạy của nó giảm đáng kể
(22%). Đối với những khối u nhỏ dưới 3cm đường kính thì AFP có độ nhạy thấp chỉ
đạt 25% [47]. Ngoài ra, AFP có thể tăng lên trong ung thư đường mật trong gan và
một số di căn từ ống tiêu hóa. Với những lý do này, AFP không còn phải là một dấu
hiệu hữu ích cho chẩn đoán HCC đặc biệt là với việc sàng lọc[18] [29].
1.4.3.

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh

> Siêu âm
Là một phương pháp tốt, rẻ tiền dễ thực hiện để xác định vị trí và kích thước
tổn thương. Tuy nhiên, độ đặc hiệu không cao vì tỉ lệ dương tính giả cao. Siêu âm
không phân biệt được các nốt tân tạo của xơ gan với các khối u nhỏ. Đối với khối u

dưới 3cm thì độ nhạy 84%. Siêu âm cho phép đánh giá sự lan tràn của tổn thương
như huyết khối tĩnh mạch cửa, hạch ổ bụng, cổ trướng và phần nhu mô gan lành còn
lại.


> Chụp cắt lớp vi tính (CT scanner)


CT scanner là một phương pháp chẩn đoán tốt, có độ nhạy 97%, độ đặc hiệu
cao và có thể phát hiện được 82% những khối u có đường kính nhỏ hơn 3cm, cho
phép chẩn đoán phân biệt giữa HCC với một số tổn thương u khác ở gan như u máu
(Hemangioma'), tăng sản nốt vùng (FNH: Focal Nodular Hyperpasia), u tuyến gan
(Adenoma) Thăm khám u gan cần thực hiện đầy đủ các thì trước tiêm và sau
tiêmthuốc cản quang với thì động mạch (25-30 giây từ khi bắt đầu tiêm thuốc), thì
tĩnh
mạch cửa (ở giây 60 đến 70) và thì muộn thực hiện sau khoảng 5 phút.
Hình ảnh của HCC được thể hiện như sau:
-

Thì trước tiêm: Thường là khối giảm tỉ trọng so với nhu mô gan, có thể một
khối,
nhiều khối hoặc lan tỏa. Khối có thể có tỉ trọng không đồng đều do hoại tử,
chảy
máu trong khối. Chảy máu trong khối được biểu hiện bằng hình ảnh tăng tỉ
trọng

tự

nhiên. Khối có thể đẩy lồi bao gan làm biến đổi đường bờ của gan. Có thể có
vôi

hóa trong khối 10%.
-

Thì động mạch: Khối ngấm thuốc nhanh, dẫn đến hình ảnh khối tăng tỉ trọng
hơn
nhu mô gan. Có thể khối bắt thuốc không đồng đều do hoại tử và chảy máu
trong
khối như đã nêu trên.

-

Thì tĩnh mạch cửa: Để đánh giá sự xâm lấn vào tĩnh mạch cửa.

-

Thì muộn: Khối thoát thuốc nhanh nên tỉ trọng của khối sẽ thấp hơn tỉ trọng
của
nhu mô gan.

Chụp cắt lớp vi tính tuy có những ưu điểm đáng kể trong chẩn đoán HCC như
độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có khả năng phát hiện những u nhỏ, đánh giá sự lan
tràn của khối u nhưng giá thành cao, độc hại do tia xạ và phải sử dụng thuốc cản


quang nên có thể gây ra tai biến khi sử dụng thuốc, đồng thời phương tiện thiết bị
phải tốt để chụp được đúng các thì.

>

Chụp cộng hưởng từ (MRI)

Phương pháp này cho phép phát hiện được các khối u nhỏ hơn 2cm với độ

nhạy 81%. Sau tiêm đối quang từ (Gadolinium, Ferrit) có thể đánh giá được huyết
động của khối u.
Hình ảnh của HCC trên MRI:
-

Khối u giảm tín hiệu trên T1 và tăng tín hiệu trên T2, có thể thấy đồng tín
hiệu
trên T1 hoặc tăng tín hiệu trên T1 do chảy máu trong khối.

-

Sau tiêm thuốc: tăng tín hiệu trên cả T1 và T2, thải thuốc nhanh.

-

Có giả vỏ và có các vách xơ trong khối.


MRI còn giúp đánh giá được mạch máu của gan, các liên quan giữa tổn thương
với mạch máu trên các mặt phang khác nhau. MRI là một phương pháp tốt để chẩn
đoán, là phương pháp an toàn vì không sử dụng tia X. Tuy nhiên, nhược điểm vẫn là
phương tiện chẩn đoán có giá thành cao nên chưa được áp dụng rộng rãi trong điều
kiện Việt Nam ta hiện nay.

> Chụp động mạch gan
Hiện nay ít dùng để chẩn đoán HCC, thường được tiến hành cùng với nút hóa
chất động mạch gan để điều trị.


> Chụp nhấp nháy phóng xạ (Scintigraphy)
Sử dụng đồng vị phóng xạ có thể đánh giá được huyết động và ghi lại độ tập
trung của nó ở gan. Trong HCC là hình khuyết thuốc (ổ lạnh) nếu dùng
Colloid và hình tăng giữ thuốc nếu dùng

m

99

Tc Sulfur

Se, 67Ga-Citrate. Người ta còn sử dụng

75

kháng thể đơn dòng kháng nguyên của khối u như AFP, CEA gắn với đồng vị
phóng xạ để ghi hình khối u.
1.4.4.

Chọc hút tế bào và sinh thiết khối u

Là phương pháp chẩn đoán rất có giá trị (đây là tiêu chuẩn vàng của chẩn
đoán). Đặc biệt là sinh thiết khối u, cho phép thấy được hình ảnh mô bệnh học của
tế bào và tổ chức ung thư. Phương pháp chọc hút tế bào bằng kim nhỏ và sinh thiết
được tiến hành dưới sự hướng dẫn của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như
siêu âm, chụp cắt lớp vi tính. Mặc dù là tiêu chuẩn vàng nhưng không phải trường
hợp nào cũng cần thiết phải làm. Hạn chế của phương pháp này là gây chảy máu và
khó khăn với những khối u nhỏ, ở sâu.
Phân loại mô học, theo WHO hình ảnh vi thể HCC gồm 5 loại cấu trúc cơ bản:
dạng bè, dạng đặc, dạng giả tuyến, dạng sợi mảnh, dạng xơ hóa [1].

1.5.

Tổng quan về GP73.

1.5.1.

Đặc điểm sinh học của GP73.


GP73 là một protein xuyên màng golgi type II, có trọng lượng phân tử 73 kDa.
Chức năng của nó cho đến nay chưa được xác định rõ ràng. Gen mã hóa cho GP73
nằm trên cánh lớn nhiễm sắc thể số 9, cách tâm động 21.33 cM. Kích thước của
genlà 3042bp, 400 amino acid, khu trú trong phạm vi phức hệ Golgi. GP73 được
biêu
hiện trong các tế bào biêu mô người. mARN của GP73 được phát hiện lần đầu tiên
năm 2000 khi người ta khảo sát mức độ biêu hiện gen trên một bệnh nhân viêm gan
dạng tế bào khổng lồ (hợp bào) [31]. Tiếp theo đó, nhiều nghiên cứu đã chứng minh
GP73 có biêu hiện ở mức độ thấp trên các tế bào gan bình thường, trong khi đó tăng
rất cao trên các bệnh nhân viêm gan cấp tính, mạn tính và xơ gan [45].

Capture

GP73 là một protein được khu trú trong tế bào tuy nhiên nó được biêu hiện
mạnh mẽ trên các mô ngoại bào và gen mã hóa của nó tăng điều hòa trong các bệnh
gan không ác tính. Tuy nhiên, gần đây có rất nhiều nghiên cứu cho thấy GP73 là
một dấu ấn phân tử có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư gan. [45]
Detection

Hình 1.4: Cấu trúc của GP73 và sGP73
GP73 chứa một đầu tận cùng Nitơ ở trong nội bào với một vùng dịch mã cố

định (myristoylation) tiếp theo là vùng xuyên màng và một vùng ngoại bào có
đầu tận cùng Cacbon có kích thước lớn. Đầu tận cùng Nitơ chứa 2 đoạn xoắn


dạng lò xo và được nitơ hóa. Đầu tận cùng Cacbon có tính axit cao và chưa
rõ chức năng [17].


×