Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những vấn đề pháp lý về phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.54 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
===============

TIỂU LUẬN MÔN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ,
THƯƠNG MẠI: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
ĐỀ BÀI SỐ 4
Những vấn đề pháp lý về phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: Thạch Thị Liên
Ngày sinh: 29/6/1991
Số CMT: 012840332
Khoa: Luật kinh tế
Niên khóa: 2017-2019

Hà Nội, 04/2019

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải
cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, công cuộc cải cách tư pháp
cũng đang được Đảng và Nhà nước tích cực triển khai, coi đây như là khâu đột
phá quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đã và đang đặt
ra một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được giải quyết một cách hợp lý và
thoả đáng, trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nói
chung cũng như tạo lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh pháp luật bảo vệ quyền và


lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể kinh doanh, kể cả việc giải quyết
vấn đề đặt ra về tố tụng kinh tế, dân sự nói riêng sao cho thích hợp hiện cũng cần
được quan tâm thích đáng nhằm tìm ra phương hướng giải quyết đúng đắn, nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong giai
đoạn hiện nay. Nói một cách khác, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của hoạt động xét xử của Toà án đối với việc giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại. Đây là một trong số những nội dung cơ bản, quan
trọng trong việc cải cách và trên nền tảng đó, hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế, giữ vững an ninh chính trị và hội nhập quốc tế. Trước những yêu cầu của thực
tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh
chấp thương mại bằng Tòa án nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng
như thực tiễn, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực
tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết các vụ án kinh tế theo tinh thần cải cách tư pháp là
hết sức cần thiết và rất được quan tâm trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện
2


nay. Với khuôn khổ bài viết dưới đây, tôi xin trình bày đề tài: “Những vấn đề
pháp lý về phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án ở Việt
Nam hiện nay”.
B. NỘI DUNG CHÍNH.
I. Khái quát tranh chấp kinh doanh thương mại
1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Kinh tế là một trong những lĩnh vực mà nhà nước đặc biệt quan tâm bởi
xuất phát từ tầm quan trọng ý nghĩa và giá trị của nó, nhà nước luôn tiến hành
định hướng sự phát triển của kinh tế theo một khuôn khổ nhất định, tuy nhiên
quan hệ xã hội luôn biến động và ở trạng thái biến đổi do đó đã làm xuất hiện
các quan hệ xã hội mới, thay thế hoặc chấm dứt vì vậy pháp luật kinh tế phải

thay đổi, bổ sung và thay thế để thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế.
Theo góc độ xã hội học, tranh chấp được hiểu là xung đột về quyền lợi giữa
các nhóm xã hội khác nhau trong việc tham gia vào thị trường. Nhóm này muốn
tước đoạt lợi thế của nhóm khác, dẫn đến sự đấu tranh giữa các nhóm để phân
phối lại lợi thế về thị trường kinh doanh.
Trong khoa học pháp lý, tranh chấp kinh doanh thương mại là thuật ngữ có
nguồn gốc từ thông lệ quốc tế được hình thành qua thực tiễn xét xử các vụ khiếu
kiện quốc tế về. trong các văn bản pháp lý quốc tế mà thay vào đó là thuật ngữ
“tranh chấp thương mại” (commercial dispute) hay thuật ngữ “tranh chấp kinh
doanh” (business dispute). Trong luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương
mại quốc tế cũng sử dụng thuật ngữ “Thương mại”.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại cũng được định
nghĩa khá rõ ràng. Cụ thể, khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại lần đầu
tiên được đề cập trong luật thương mại ngày 10/5/1997. Tại điều 238 Luật

3


thương mại 1997 quy định “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại”. Quan niệm về tranh chấp thương mại theo Luật thương mại 1997
đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét
về bản chất đó vẫn có thể coi là các tranh chấp thương mại như đầu tư, xây dựng,
hoạt động trung gian thương mại…
Đến Luật thương mại 2005 thì khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
lại không được định nghĩa, nhưng Luật thương mại 2005 có đưa ra khái niệm như
thế nào là hoạt động thương mại:“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đich sinh lợi khác”.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu: “Tranh chấp kinh doanh

thương mại là những mâu thuẩn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại”.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy
giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh
tế. Theo hiểu biết chung: giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa
chọn các hình thức biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng,
xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên
có thể chấp nhận được. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các nước trên
thế giới, nhìn chung đối với phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bao gồm các phương thức sau: Thương lượng; Hòa giải; Trọng tài
thương mại; Tòa án.
Thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là các giải quyết tranh chấp
thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân dân quyền lực
4


nhà nước cũng như phán quyết của tòa án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên
nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ
ba độc lập (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo. Trong khi
đó tòa án lại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang ý chí quyền
lực nhà nước được tòa án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt chặt chẽ.
Nội dung cụ thể của các phương thức giải quyết tranh chấp này sẽ được đề
cập cụ thể ở phần sau nhưng tổng thể có thể thấy ưu điểm nổi bật của các
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, hòa giải và
trọng tài thương mại so với tòa án, đó là tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục,
đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp mà không bị ràng buộc
nghiêm ngặt, chặt chẽ bởi thủ tục tố tụng như giải quyết tranh chấp tại tòa án.
Ngoài ra, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối
đa uy tính cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần cũng cố và quy trì

mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
Tuy nhiên, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương
lượng, hòa giải và trọng tài thương mại cũng có những trở ngại khó tránh khỏi,
như: sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp chủ yếu phụ thuộc vào
thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp; việc thực thi các kết quả đạt
được trong trong quá trình giải quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc sự tự
nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ phải thi hành mà không có cơ chế pháp lí
bảm đảm thi hành và nếu có (như phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tại ) thì việc thực thi thường phức tạp và tốn kém. Nhược điểm này lại có thể bù
đắp được trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân dân
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ

5


và bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện
tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
II. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
con đường Tòa án.
1. Thẩm quyền của Tòa an trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại.
Thứ nhất, thẩm quyền theo cấp tòa án
Căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì tòa án nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền đối với những tranh chấp kinh doanh thương mại
như sau: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký
gửi; thuê, cho thuê, cho thuê lại; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng
hóa, hành khách, đường sắt, đường bộ, đường thủy lợi, nội địa; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái
phiếu và các giấy tờ có giá trị khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm

dò khai thác.
Còn đối với tòa án nhân dân cấp tỉnh thì có thẩm quyền giải quyết các vụ
việc sau: một là, những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại mà
gắn liền với lợi nhuận; hai là, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; ba là,
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; bốn là, các tranh chấp
khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng có thẩm
quyền lấy những vụ việc của tòa án nhân dân cấp huyện để giải quyết.
Thứ hai, thẩm quyền theo lãnh thổ
6


Theo điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tòa án có thẩm quyền sơ
thẩm tranh chấp về kinh doanh, thương mại là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (
Nếu bị đơn là cá nhân ) hoặc nơi bị đơn có trụ sở ( nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức
). Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất
động sản.
Ngoài ra, Bộ luật tố tụng dân sự còn cho phép đương sự có quyền thỏa
thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn
(nếu nguyên đơn là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn (nếu nguyên đơn
là cơ quan, tổ chức) giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Nội
dung pháp lí này là một điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự mà trước đó, các
văn bản pháp luật của Việt Nam chưa có quy định. Trước khi Bộ luật tố tụng dân
sự có hiệu lực pháp luật, pháp luật của Việt Nam không cho phép các đương sự
có quyền thỏa thuận chọn tòa án nơi nư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn giải quyết vụ tranh chấp. Thẩm quyền của tòa án đã được pháp luật
phân định theo những tiêu chí nhất định mà các đương sự không được quyền

thỏa thuận chọn tòa án, chỉ có nguyên đơn mới có quyền chọn tòa án trong
những trường hợp được pháp luật quy định. Việc cho phép các đương sự thỏa
thuận chọn tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn giải
quyết vụ tranh chấp là xuất phát từ quan điểm tôn trọng quyền định đoạt của các
đương sự và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
Thứ ba, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Để thuận lợi nhất cho nguyên đơn trong việc giải quyết vụ tranh chấp cũng
như xác định thẩm quyền của tòa án cụ thể, pháp luật dành cho nguyên đơn được
quyền chọn tòa án để giải quyết vụ tranh chấp. Theo Bộ luật dân sự như sau:

7


Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau
đây:
Một là,nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị
đơn có tài sản giải quyết;
Hai là, nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi
nhánh giải quyết;
Ba là, nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ
án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình
cư trú, làm việc giải quyết;
Bốn là, nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra
việc gây thiệt hại giải quyết;
Năm là, nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp

đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền
lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì
nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc
giải quyết;
Sáu là, nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu
hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người
sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu,
người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
Bảy là, nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
8


Tám là, nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có
trụ sở giải quyết;
Chín là, nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa
phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các
bất động sản giải quyết.
2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Tôn trọng quyền tự do định đoạt của các đương sự bắt nguồn từ nguyên tắc
bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Nguyên tắc này được ghi nhận tại điều 5 Bộ
luật Tố tụng Dân sự: “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu
Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơnkhởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết
trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. 2. Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình
hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức
xã hội”.

Quyền tự định đoạt trong quy định trong Tố tụng dân sự là sự phản ánh của
quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự”. Quyền tự định
đoạt của đương sự trong dân sự bao gồm các nguyên tắc: Nguyên tắc tự do, tự
cam kết, thỏa thuận (Điều 4 Bộ luật dân sự) Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
quyền dân sự (Điều 9 Bộ luật dân sự) Nguyên tắc hòa giải (Điều 12 Bộ luật dân
sự). Trong Tố tụng dân sự nguyên tắc quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng
tham gia tố tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về
phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích
trên có thể thấy rằng nguyên tắc quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là cac
9


quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh
dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận trong Hiến Pháp. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp
luật, trong đó có Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS): “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ
chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và
những vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình”. Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố
tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế.
Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập
chứng cứ
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh
chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với giải quyết các vụ án hình sự, giải

quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì Tòa án không tiến hành điều
tra mà đương sự phải cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ xác minh, thu thập chứng
cứ trong những trường hợp nhất định.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được
chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc
trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

10


Để đảm bảo cho các đương sự khả năng chủ động trong việc tự bảo vệ
quyền lợi của mình, kể cả Luật Tố tụng dân sự mới cũng duy trì và mở rộng
quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Theo đó đương sự được phép yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án
Viện kiểm sát là cơ quan tham gia nguồn tài liệu, chứng cứ được cung cấp
để tăng tính khách quan của vụ việc:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn
cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ,
quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp
không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án,
Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ”.
Nguyên tắc hòa giải
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng kinh tế được quy định tại Điều 10
BLTTDS, theo nguyên tắc này: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền
tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ này đượcthực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là
một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hòa
giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy
truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao
kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đồng thời làm
11


tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công
sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế những khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ thể việc hòa giải được
thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến
khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải như yêu
cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc những vụ án kinh tế
phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những
bảo đảm đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, kịp thời, dứt điểm, tránh dây
dưa, kéo dài, đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong BLTTDS
quy định cụ thể thời hạn ở các giai đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu
thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn phát hành quyết định, bản án,
thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm... Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ việc trong thời hạn luật định.
III. Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng tòa án và kiến nghị.
Những năm trở lại đây, do những diễn biến phức tạp của đời sống xã hội
nên các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng ngày càng nhiều và phức tạp
hơn. Theo đánh giá của Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian qua, toàn ngành

đã thụ lý, giải quyết gần 200.000 các việc dân sự. Một trong số những việc đó là
những tranh chấp liên quan đến kinh doanh, thương mại. Có thể nói, đó là một
con số không nhỏ, phản ánh một thực tế về sự gia tăng của các tranh chấp kinh tế
cũng như những loại án đặc thù, mới phát sinh mà để giải quyết ổn thỏa, đảm
bảo quyền lợi cho các bên là một công việc không phải đơn giản.
1. Vướng mắc khi áp dụng khoản 3 Điều 306 Luật thương mại:
12


Luật thương mại năm 2005 ra đời có khá nhiều điểm mới, tiến bộ so với
Luật thương mại năm 1997. Song bên cạnh đó cũng còn một số điểm bất cập cần
đặt ra xem xét. Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại quy định “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”. Tuy nhiên, các hoạt động nhằm nhằm mục đích sinh lợi khác là
những hoạt động cụ thể nào cho đến nay chưa có văn bản giải thích. Như vậy,
các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, tín dụng, bảo hiểm có được xem là
những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác và có phải là đối tượng điều chỉnh
của Luật thương mại không? Cũng tại khoản 3 Điều 3 quy định “Thói quen trong
hoạt động thương mại” cũng gây những vấn đề tranh cãi trong công tác xét xử.
Xác định “quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều
lần trong một thời gian dài giữa các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại”. Để xác định sự việc có
phải là thói quen nhiều lần thì căn cứ bao nhiêu lần là nhiều lần và trong thời
gian bao lâu để xác định là trong một thời gian dài, cũng như việc đã mặc nhiên
thừa nhận của các bên rất khó để được công nhận là thói quen trong hoạt động
thương mại.
Ngoài ra, tại Điều 306 Luật thương mại quy định về quyền yêu cầu tiền lãi
do chậm thanh toán quy định “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh
toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì

bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó
theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác”. Việc xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường cần phải căn cứ trên cơ sở nào thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng
13


dẫn cụ thể. Có quan điểm cho rằng lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
tính theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm
thanh toán. Nhưng quan điểm thứ 2 lại cho rằng phải tính theo mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình của ba ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Agribank đang
hoạt động trên địa bàn xảy ra tranh chấp (ít nhất là trong phạm vi một quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
Từ những vấn đề vướng mắc về quy định tại khoản 1 và 3 Điều 3, Điều 306
Luật thương mại chúng tôi kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn
bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề vướng mắc trên.
2.Vướng mắc trong các quy định về xác định thời hiệu khởi kiện vụ án
Về thời hiệu khởi kiện, từ vướng mắc về thời hạn khiếu nại như đã nêu
trong một số trường hợp, pháp luật quy định thời hạn khiếu nại về mặt nào đó có
ý nghĩa như thời hiệu khởi kiện mà khi vi phạm, chủ thể sẽ mất các quyền theo
quy định của luật. Do đó, đối với các quy định về thời hiệu cần phải quy định rõ
ràng trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể phải thực hiện nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho mình khi bị xâm phạm. Thời hiệu khởi kiện đối với các
tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại được xác định theo thứ tự: Luật
chuyên ngành; Luật thương mại. Như vậy, trước hết phải xác định theo luật
chuyên ngành của từng lĩnh vực. Trường hợp không có luật chuyên ngành thì áp
dụng thời hiệu theo quy định của Luật thương mại 2005. Theo đó “Thời hiệu
khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Riêng những tranh chấp thương mại phát sinh từ

dịch vụ Logictics thì thời hiệu khởi kiện là 09 tháng kể từ ngày giao hàng”. Theo
quy định của Luật thương mại thì cách xác định thời hiệu khởi kiện đối với các
loại tranh chấp thương mại có nguyên tắc cơ bản giống với BLDS 2005. Tuy
nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy hầu như thời hiệu khởi kiện quy định trên
14


không được áp dụng mà chủ yếu áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định trong các
luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động thương mại trong các lĩnh vực cụ thể,
như trường hợp yêu cầu hủy quyết định của Đại hội cổ đông được xác định tại
Điều 107 của Luật doanh nghiệp; về Hợp đồng bảo hiểm thì tùy từng loại hợp
đồng, thời hiệu được xác định theo Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật thương mại,
Luật dân sự 2005 và một số trường hợp khác như trong lĩnh vực hoạt động hàng
hải, về hợp đồng vận chuyển hàng không ...dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong
việc xác định thời hiệu giữa các tòa án, giữa các Thẩm phán chưa mang tính
thống nhất.
3. Về thời hạn giải quyết vụ án:
Theo Điều 179 BLTTDS quy định:
“1.Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời
hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời
hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh
án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá
hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối
với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
….
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này

là hai tháng”.
Với quy định trên của BLTTDS thì thời hạn giải quyết vụ án kinh doanh
thương mại quá ngắn. Nếu trong một vụ án kinh doanh thương mại đương sự
15


không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập... Ngoài lý
do không nhận được văn bản triệu tập, rất nhiều trường hợp đương sự không còn
ở địa phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; đương sự ở nước
ngoài thì cần phải làm thủ tục ủy thác tư pháp, thu thập thêm chứng cứ; hiểu biết
nhiều về pháp luật hạn chế khi tham gia ký kết các hợp đồng nên khi xảy ra tranh
chấp không tự cung cấp được chứng cứ, phải yêu cầu Tòa án thu thập từ các cơ
quan, tổ chức khác. Tính phức tạp trong mội dung tranh chấp kinh doanh, thương
mại cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết án bị kéo dài,
quá hạn luật định, gây không ít khó khăn cho Thẩm phán trong việc giải quyết vụ
án.
4. Vướng mắc trong các quy định về tranh chấp trong nội bộ công ty theo
khoản 3 Điều 29 BLTTDS
Trong thời gian qua, thực tiễn xét xử các loại án về tranh chấp trong nội bộ
công ty ngày càng nhiều và phức tạp. Nhưng quá trình giải quyết án đã gặp phải
vướng mắc các tranh chấp kinh doanh thương mại được quy định tại khoản 3
Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất,chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”.
Với quy định tại khoản 3 Điều 29 thì việc xác định tranh chấp công ty phải
thỏa mãn 2 điều kiện: thứ 1 các tranh chấp phải là công ty hoặc thành viên công
ty; thứ 2 các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ chức công ty.
Do đó, trước hết cần tìm hiểu khái niệm thế nào là công ty và thành viên

công ty. Theo từ điển luật học khái niệm công ty được hiểu là “sự liên kết của hai
hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các
16


hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó”. Còn đối với khái niệm thành
viên công ty thì nếu căn cứ theo quy định của Luật doanh nghiệp về thành viên
công ty thì không có một khái niệm cụ thể. Tại điều 4 Luật doanh nghiệp có nêu
ra một số khái niệm về cổ đông, thành viên hợp danh v. v. Trong thực tiễn giải
quyết các vụ án có những trường hợp tuy có liên quan đến hoạt động của công ty,
mang bản chất của nội bộ công ty nhưng không phải là tranh chấp thuộc khoản 3
Điều 29 Bộ luật TTDS do không phải là thành viên công ty. Ví dụ như tranh
chấp giữa thành viên công ty với người quản lý công ty được thuê làm Tổng
giám đốc.
Ngoài ra, với quy định những tranh chấp này phải phát sinh từ việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ
chức công ty. Nhưng hiểu như thế nào là hoạt động của công ty thì chưa có sự
hướng dẫn cụ thể.
Với quy định cụm từ “liên quan đến việc thành lập, hoạt động…” nội hàm
nghĩa rất rộng, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giữa án kinh doanh
thương mại với các loại án khác. Cụ thể, tranh chấp trong việc chi trả lương cho
giám đốc có phải là hoạt động của công ty. Có quan điểm cho rằng đây là tranh
chấp trong quá trình hoạt động của công ty. Vì chi trả lương thuộc hoạt động của
công ty, giám đốc là thành viên công ty nên thỏa mãn điều kiện được quy định
tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Tuy nhiên, quan điểm thứ 2 cho rằng mặc dù việc
chi trả lương thuộc hoạt động của công ty nhưng hoạt động này chịu sự điều
chỉnh của Luật lao động. Khi tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chuyên ngành
nào thì nên để sự điểu chỉnh của luật chuyên ngành đó. Do đó, yêu cầu không
thuộc thẩm quyền giải quyết của khoản 3 Điều 29.
Như vậy, xuất phát từ việc không có văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động

của công ty trong khi thẩm quyền giải quyết theo phương pháp liệt kê của tiểu
17


mục 3.5 Mục 3 Phần I nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã không bao quát hết
những hoạt động rộng lớn của công ty gây khó khăn trong công tác thực tiễn áp
dụng pháp luật.
5. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng giải quyết án:
a/ Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh kịp thời Luật và các văn bản quy phạm
pháp luật không còn phù hợp; sớm ban hành quy định và các hướng dẫn thực
hiện pháp luật để những người làm công tác pháp luật không bị lúng túng, vướng
mắc làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng giải quyết án.
b/ Tăng cường công tác đào tạo cán bộ giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại:
Trong quá trình giải quyết án, Thẩm phán cũng còn một số tồn tại như chưa
nghiên cứu kỹ hồ sơ nên không thu thập đầy đủ chứng cứ; kiến thức pháp luật
chưa vững, áp dụng pháp luật không chính xác dẫn đến đường lối xử lý không
đúng; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng. Ngoài ra, nhiều trường hợp
xem xét vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự; xác định lỗi và áp dụng chế
tài phạt vi phạm hợp đồng không đúng quy định.
Với số lượng vụ án kinh doanh, thương mại ngày càng gia tăng và tính chất
vụ án ngày càng phức tạp như hiện nay, ngoài việc mỗi cán bộ cần phải tự học
trao dồi kiến thức thì việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại là nhiệm vụ cấp bách và cần thiết; bên cạnh đó cần tổ chức
nhiều hội nghị cũng như mở rộng đối tượng tập huấn; tổ chức hội thảo chuyên
đề pháp luật hàng quý hoặc năm, qua đó rút kinh nghiệm thực tiễn để tổng kết lý
luận đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh hoặc hướng dẫn áp
dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu giải quyết án.
c/ Nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử án của Toà án, trong đó chú trọng
nâng cao năng lực và trình độ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:

18


Thời gian qua, số lượng các vụ án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa hàng năm
ngày càng gia tăng. Trong đó có nguyên nhân chủ quan là do một số Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa nỗ lực nghiên cứu,
học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Do đó, cần chú trọng nâng
cao năng lực và trình độ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
d/ Chú trọng và tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong
nhân dân:
- Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng
nhiều hình thức phong phú, đa đạng;
- Cung cấp những văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cho tất cả cán
bộ trong ngành, giới thiệu văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật
có liên quan.
- Phát hành các tạp chí tìm hiểu, hỏi đáp pháp luật miễn phí cho người dân
khi đến Tòa án.
- Tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua chi đoàn thanh niên, đội ngũ
cán bộ cũng đã góp phần chuyển tải một số quy định của pháp luật đến với người
dân một cách nhanh nhất. Đặc biệt là cần có sự kết hợp tuyên truyền pháp luật
gắn liền với sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng sẽ đem lại hiệu quả thiết
thực, thu hút được nhiều đối tượng tham gia.
Trong tình hình hiện nay, số lượng án các loại trong đó có án kinh doanh
thương mại có chiều hướng gia tăng. Để Toà án các cấp giải quyết, xét xử nhanh
và đúng quy định của pháp luật thì cần thực hiện tốt các giải pháp trên. Qua bài
viết này, rất mong được các độc giả quan tâm, đóng góp thêm về những vướng
mắc trong quá trình giải quyết án kinh doanh thương mại, những giải pháp nhằm
góp phần nâng cao hơn nữa công tác giải quyết, xét xử án kinh doanh thương
mại của ngành Toà án nhân dân
19



Theo quy định tại điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, phức
tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, trong đó có tranh chấp vừa được điều
chỉnh bởi quy định của Bộ luật Dân sự, vừa được điều chỉnh bởi Luật chuyên
ngành.
Chính vì lý do này mà việc xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại một số Tòa án còn lúng túng, vướng mắc hoặc sai lầm khi áp dụng quy định
của Bộ luật dân sự và quy định của Luật chuyên ngành như Luật Thương mại
(thường xảy ra khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản đã
được quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng mua bán hàng hóa (được quy
định trong Luật Thương mại), về hợp đồng dịch vụ (quy định trong Bộ luật Dân
sự), hợp đồng cung ứng dịch vụ (được quy định trong Luật Thương mại), hợp
đồng liên kết, liên doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh… theo quy định của Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, hợp đồng bảo hiểm (được quy định trong Bộ luật
Dân sự), hợp đồng bảo hiểm (quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm)…
Vướng mắc ở đây là trường hợp nào thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân
sự, trường hợp nào thì áp dụng quy định của Luật chuyên ngành? Vì vậy, trong
thực tiễn xét xử, việc áp dụng quy định của Luật chuyên ngành, của Bộ luật Dân
sự để giải quyết vụ án của một số Tòa án chưa thống nhất như: Có Tòa án áp
dụng quy định của Bộ luật Dân sự; có Tòa án áp dụng quy định của Luật chuyên
ngành; có Tòa án áp dụng đồng thời quy định của Bộ luật Dân sự và quy định
của Luật chuyên ngành…
Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán đó ắt phải dẫn đến một hậu quả, đó
là đưa ra những phán quyết thiếu khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của
những người tham gia tố tụng. Để việc áp dụng pháp luật được đúng và thống
20



nhất, Tòa Kinh tế – TANDTC đã đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần
có văn bản hướng dẫn theo hướng: Khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại
mà tranh chấp đó vừa được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật dân sự, vừa
được điều chỉnh bởi quy định của Luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định
của Luật chuyên ngành để giải quyết.
Nếu Luật chuyên ngành không có quy định thì mới áp dụng quy định của
Bộ luật dân sự. Chỉ có như thế, việc giải quyết mới trở nên đơn giản, dễ dàng áp
dụng thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng
suốt, công bằng.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo công bằng cho các thành phần kinh tế được tự do cạnh tranh
trên cơ sở luật pháp, tạo niềm tin, yên tâm cho người nước ngoài đầu tư kinh
doanh vào Việt Nam, khi có tranh chấp đã có pháp luật giải quyết theo luật pháp,
giải quyết đúng, giải quyết tốt các tranh chấp kinh tế là góp phần tạo ra kỷ cương
trật tự trong kinh doanh, hạn chế một phần tiêu cực, cạnh tranh trái phép, thúc
đẩy quan hệ sản xuất phát triển. Vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là vấn đề mang tính chất thời sự. Việc
nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện vấn đề này giúp chúng ta hiều đầy đủ
hơn về lý luận cũng như thực tiễn pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Việc hoàn thiện khung pháp luật
về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và là mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Đảng và
nhà nước ta. Có thể khẳng định rằng, Nhà nước ta có sự quan tâm nhất định
trong vấn đề này, tạo môi trường thuận 25 lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên
21


như thế vẫn là chưa đủ. Mong rằng vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều hơn. Nó

phải trở thành ý chí của các bên liên quan. Ý chí của các nhà nghiên cứu là
nghiên cứu và kiến nghị thành quả đó đi vào thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở
hội thảo. Và ý chí của các thương nhân, doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp tham
gia vào các tranh chấp phải nỗ lực tìm tòi và có những đóng góp quan trọng
trong việc nghiên cứu và áp dụng thực tiễn các quy định pháp luật giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại. Và quan trong là ý chí của các chủ thể Nhà
nước, Nhà nước cần chú trọng hơn nữa vấn đề này, cần lắng nghe và không
ngừng hoàn thiện xây dựng pháp luật phù hợp với thực tiễn áp dụng. Vì vậy,
chúng ta có thể tin rằng trong tương lao những khiếm khuyết, bất cập về thẩm
quyển của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại hôm
nay sẽ được khắc phục, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất
nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

22



×