Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.02 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
===============

TIỂU LUẬN MÔN
CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỐ 1
Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam hiện nay.

Hà Nội, 12/2018

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong bối cảnh phát triển của nền thương mại, các chủ thể tìm kiếm cơ hội
hợp tác, đầu tư thông qua việc giao kết hợp đồng. Có thể nói, giao kết hợp đồng
đang trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động thương mại nhằm thỏa
mãn các nhu cầu của con người. Trong thời gian qua, việc giao kết hợp đồng
thương mại tăng nhanh về số lượng, đa dạng về chủ thể và phong phú trong các
lĩnh vực tham gia. Hiện nay, tại Việt Nam giao kết hợp đồng được điểu chỉnh bởi
Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp và các ngành luật khác liên
quan. Việt Nam đã xây dựng và hình thành một hệ thống pháp lý vững chắc về
giao kết hợp đồng thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong
việc giao kết. Song trước tình hình phát triển của thương mại thế giới và tốc độ
toàn cầu hóa nảy sinh vấn đề các quốc gia trên thế giới cần đẩy mạnh quá trình
hội nhập quốc tế kể cả về mặt pháp luật. Đây là một yêu cầu cấp thiết đòi hỏi
một quá trình nghiên cứu công phu, kịp thời để có thể bắt kịp xu hướng chung
của thế giới. mặc dù giao kết hợp đồng không phải là một vấn đề mới, song với
sự biến đổi của thị trường thì việc nghiên cứu về giao kết hợp đồng luôn là vấn


đề có tính thời sự và cấp thiết. Xuất phát từ những yêu cầu đó nên tôi chọn đề tài
tiểu luận: “Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
hiện nay”.

1


B. NỘI DUNG CHÍNH.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG.
1. Khái niệm hợp đồng, giao kết hợp đồng.
1.1. Khái niệm hợp đồng.
Dưới góc độ pháp lý thì tại Điều 385 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy
định như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, điểm mới ở đây là trong Bộ
Luật dân sự hiện hành đã chọn cụm từ “hợp đồng” thay vì “hợp đồng dân sự”
như trong Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Việc sửa đổi này có ý nghĩa rất quan trọng, đây không chỉ là sự sửa đổi về
mặt kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện sự minh bạch trong thực tiễn áp dụng
pháp luật. Việc quy định như pháp luật hiện hành dẫn đến thực tiễn thi hành pháp
luật có nhiều cách hiểu khác nhau, như có trường hợp cho rằng những quy định
của Bộ luật Dân sự hiện hành chỉ liên quan đến hợp đồng dân sự và do đó toàn
bộ những quy định tại Mục 7 chương XVII của Bộ luật Dân sự hiện hành cũng
như những quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng ở Mục này chỉ áp dụng
đối với hợp đồng dân sự, còn việc giao kết và thực hiện các loại hợp đồng khác
như hợp đồng thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm…
không phải là hợp đồng dân sự nên chúng sẽ không chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật dân sự hiện hànhh.
1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng.
Theo từ điển Tiếng Việt, giao kết được hiểu là cam kết, giao hẹn thực hiện
làm đúng những gì đã thỏa thuận; trong khoa học pháp lý, giao kết có nghĩa là sự

thống nhất ý chí giữa các chủ thể về quyền và nghĩa vụ. Từ đó có thể rút ra kết

2


luận: Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên
tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ liên
quan đến hoạt động trong nội dung của hợp đồng. Bản chất của giao kết hợp
đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích chung
nhất định.
2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng.
Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực vào ngày 01/01/2017, không có quy định
về nguyên tắc giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, tại Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 lại
có quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự như sau:
- Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào
để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và
tài sản.
- Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa
thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực
thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
- Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
- Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm
phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác.
- Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

3



Theo đó có thể hiểu các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng theo Luật dân sự
năm 2015 như sau:
* Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp luật,
đạo đức xã hội: Quyền tự do hợp đồng luôn thể hiện một phần quan trọng trong
quyền tự chủ để tạo ra một phạm vi tự do hoạt động của mỗi người. Trong phạm
vi này mỗi người đều có thể xác lập, thực hiện các quan hệ theo ý muốn và mục
đích của mình. Trong phạm vi quyền tự do hợp đồng thì chỉ quyết định của cá
nhân mới có hiệu lực. Cơ sở khách quan đảm bảo cho quyền tự do giao kết hợp
đồng là tiền đề pháp lý, tiền đề vật chất mà pháp luật thừa nhận dựa trên điều
kiện kinh tế xã hội hiện tại. Tự do giao kết hợp đồng thể hiện ở sự tự do ý chí
của các chủ thể khi đàm phán, ký kết hợp đồng. Theo đó, việc giao kết hợp đồng
giữa các chủ thể với nhau phải do chính các chủ thể đó quyết định, bất kỳ một cá
nhân, tổ chức nào hay Nhà nước cũng không được can thiệp một cách trái pháp
luật vào quá trình đó. Các bên có quyền quyết định tham gia hay không tham gia,
có quyền thay đổi, tạm thời hoãn, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng xuất phát từ lợi ích
của xã hội hay của chính mình.
Ai cũng có thể hiểu rằng để có thể tự do khi giao kết hợp đồng, người tham
gia giao kết hợp đồng phải có quyền sở hữu với đối tượng trao đổi. Không có tài
sản thì không thể tự do giao kết hợp đồng và quyền tự do giao kết hợp đồng kia
chỉ là sự ghi nhận về hình thức, mà trong đó nội dung vật chất quyết định cho sự
tồn tại của hình thức chưa được bảo đảm.
Bởi việc ký kết và thực hiện hợp đồng không phải chỉ liên quan đến lợi ích
của những chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, mà nó còn ảnh hưởng đến lợi ích
chung của xã hội, của cộng đồng và thuần phong mỹ tục của xã hội. Vì vậy, mặc
dù các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng, nhưng pháp luật cũng yêu cầu

4



những hành vi của họ không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Nghĩa là
các bên không được giao kết hợp đồng mà đối tượng của nó là tài sản bị pháp
luật cấm giao dịch. Đối với những tài sản pháp luật cho phép giao dịch nhưng
phải có điều kiện nhất định, thì khi giao kết hợp đồng các bên phải tuân thủ
những điều kiện đó.
Có thể nói, nguyên tắc này đã phản ánh được quyền lợi tuyệt đối của chủ
thể khi giao kết hợp đồng, nhưng quyền lợi đó bị ràng buộc bởi quy định của
pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng giao kết phải có mục đích, nội dung
không được trái với đạo đức xã hội. Đối với những hợp đồng có mục đích trái
với những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng; đi ngược lại với lợi ích chung của xã
hội, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của người khác,… đều bị coi là trái đạo
đức xã hội. Những hợp đồng có nội dung như vậy đều vô hiệu.
Sự tồn tại đa lợi ích trong xã hội và xu hướng lấn át của chúng đòi hỏi pháp
luật phải tạo ra được một giới hạn phát triển hợp lý cho các lợi ích đó, tạo ra
được sự hài hóa cho các lợi ích đang tồn tại trong một mối liên hệ chung. Sự đấu
tranh và thống nhất giữa các lợi ích chính là động lực cho sự phát triển kinh tế –
xã hội. Điều này đòi hỏi tạo ra phạm vi giới hạn cho quyền tự do giao kết hợp
đồng phù hợp với yêu cầu của xã hội, với đòi hỏi của pháp luật.
* Nguyên tắc tự nguyên, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng: Đây là nguyên tắc được xác định rên cơ sở pháp lý của hợp đồng. Bảo
đảm nguyến tắc khi giao kết hợp đồng cũng là bảo đảm hiệu lực của hợp đồng
trên thực tế. Điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự quy định về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự: “Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự
nguyện”. Như vậy một hợp đồng được hình thành trên cơ sở ý chí của chủ thể và

5



ý chí đó hoàn toàn tự nguyện, về nguyên tắc, bất cứ một vi phạm nào về sự tự
nguyện cũng có thể dẫn đến hậu quả giao dịch sẽ bị vô hiệu.
Tự nguyện là sự thể hiện thống nhất giữa ý chí và hành động của các chủ
thể khi giao kết hợp đồng. Điều này có nghĩa là ý chí được biểu lộ ra bên ngoài
bằng lời nói, cử chỉ, hành động cụ thể, là ý chí thực sự của bên giao kết hợp
đồng. Vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong luật dân sự nước ta xác định có thể do
bị nhầm lẫn, bị lừa dối, đe dọa buộc phải giao kết hợp đồng; hoặc trong trường
hợp người có năng lực hành vi dân sự nhưng lại giao kết hợp đồng đúng vào thời
điểm mất năng lực hành vi.
Tự nguyện ở đây còn biểu hiện ở chỗ các chủ thể hoàn toàn tự quyết định
có tham gia hay không tham gia vào giao dịch dân sự. Họ có quyền lựa chọn nội
dung, hình thức của hợp đồng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, trừ trường hợp
mà nội dung và hình thức do pháp luật quy định bắt buộc phải tuân theo khi giao
kết hợp đồng. Mọi lý do dẫn đến việc biểu lộ ý chí ra bên ngoài cho người khác
nhận biết không đúng với ý chí của họ đều bị coi là không hoàn toàn tự nguyện.
Khi giao kết hợp đồng vi phạm sự tự nguyện có thể dẫn đến việc tòa án xét lại
hợp đồng và tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng phải bình đẳng cũng là nguyên tắc cơ bản
của luật dân sự. Bình đẳng nghĩa là các chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng đều có địa vị pháp lý như nhau mà không bên nào được lấy lý do có sự
khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với bên kia.
Sự bình đẳng pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ trao đổi; không ngoài yếu
tố có tính chất quyết định chi phối; đó là quyền sở hữu với tài sản của mình, qua
các nội dung chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản thì
giữa họ phải bình đẳng “Dùng vật ngang giá đổi lấy vật ngang giá”. Nội dung
6


của nguyên tắc bình đẳng trong giao kết hợp đồng thể hiện: Khi thỏa thuận các

bên được bình đẳng đưa ra các điều kiện, những nội dung phù hợp với lợi ích của
mình để đạt được mục đích đặt ra. Sự hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là
tương ứng trong phạm vi mà các bên thỏa thuận. Điều này rất có ý nghĩa trong
giao kết hợp đồng bởi một khi giữa các bên tham gia hợp đồng không có sự bình
đẳng về địa vị pháp lý thì sự tự nguyện giao kết hợp đồng cũng dễ bị vi phạm.
Thiện chí, hợp tác là việc các bên khi tham gia hợp đồng không chỉ quan
tâm, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan
tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Nguyên tắc này đảm bảo được bản chất pháp lý của hợp đồng là sự “thỏa thuận”
giữa các bên. Sự giao lưu ý chí đi đến thống nhất đòi hỏi thái độ thiện chí, hợp
tác từ cả hai phía. Sự thiện chí, hợp tác có ý nghĩa trong việc nhanh chóng thiết
lập quan hệ hợp đồng với nội dung công bằng, hợp lý hơn và xét đến cùng nó
cũng là hậu quả tất yếu trong việc đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Trung thực, ngay thẳng là không bên nào được lừa dối bên nào, không được
lợi dụng lòng tin của người khác để trục lợi; nếu một bên cho rằng bên kia không
trung thực thì phải có chứng cứ. Việc thực hiện nguyên tắc này nhằm mục đích
bảo đảm hiệu lực của hợp đồng đã giao kết. Hậu quả của sự không trung thực,
ngay thẳng là sự gian dối, lừa lọc khi giao kết hợp đồng làm thiệt hại quyền lợi
một bên.
3. Chủ thể giao kết hợp đồng.
Trong hoạt động giao kết hợp đồng, các chủ thể phải đảm bảo các điều kiện
có hiệu lực của giao dịch theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ
luật dân sự (BLDS) năm 2015.

7


Điều kiện thứ nhất là: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Pháp luật đã khẳng

định quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, trong đó khả năng của cá
nhân được hưởng quyền công dân và phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự là
như nhau. Khả năng có quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự chính là năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân và năng lực pháp luật dân sự là bình đẳng đối với mọi
công dân. Năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng
nhận thức của cá nhân và căn cứ vào khả năng nhận thức để phân biệt mức độ
năng lực hành vi.
Điều kiện thứ hai được ghi nhận đó là “Chủ thể tham gia giao dịch hoàn
toàn tự nguyện”. Điều kiện này cũng không ngoài việc đảm bảo bản chất pháp lý
của hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng, yếu tố tự nguyện của chủ thể là tuyệt
đối, mọi biểu hiện trái với sự tự nguyện do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, hay
ở trạng thái mất năng lực hành vi dân sự đều có thể dẫn đến hậu quả hợp đồng vô
hiệu. Tựu chung lại, sự tự nguyện của chủ thể giao kết hợp đồng là điều kiện
không thể thiếu để đảm bảo cho hợp đồng đã giao kết có hiệu lực pháp luật.
Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Đối
với chủ thể giao kết hợp đồng là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định từ Điều 19 đến Điều 24 của BLDS 2015 thì năng lực hành vi dân
sự được chia thành các mức đó là: người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên
và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ các trường hợp quy định tại các Điều
22, 23, 24 BLDS năm 2015 về Mất năng lực hành vi dân sự; Người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi và Hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể là pháp nhân. Theo quy định tại
Điều 74 BLDS 2015 thì một tổ chức được coi là pháp nhân khi có đủ các điều
kiện sau: ) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
8


Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; Có tài sản độc lập
với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; Nhân
danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Điều 85 BLDS 2015

quy định về đại diện của pháp nhân: đại diện của pháp nhân có thể là đại diện
theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền; người đại diện cho pháp nhân phải
tuân thủ theo quy định về đại diện theo quy định về đại diện tại Chương IX phần
này. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định tại Điều 86 BLDS
2015, theo đó năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp
nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
không bị hạn chế trừ trường hợp bộ luật dân sự có quy định khác. Năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng kí hoạt
động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào
sổ đăng kí. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm
chấm dứt pháp nhân.
4. Trình tự giao kết hợp đồng.
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý
chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau
làm xác lập những quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Thực chất, đó là quá
trình mà hai bên “mặc cả” về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng.
Quá trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn:
4.1. Đề nghị giao kết hợp đồng.
Hoạt động đầu tiên khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn
đó phải thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy,
phía đối tác mới có thể nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến
việc giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên bày tỏ ý chí
9


của mình muốn giao kết hợp đồng với một người cụ thể và chịu sự ràng buộc về
đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau. Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao

đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, internet,… Trong những trường
hợp này, thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do hai bên thỏa thuận ấn định.
Ngoài ra, đề nghị giao kết còn có thể được thực hiện bằng việc chuyển công văn,
giấy tờ qua đường bưu điện. Trong những trường hợp này, thời hạn trả lời là
khoảng thời gian do hai bên ấn định.
Thời điểm mà đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực do bên đề nghị ấn
định. Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng
bắt đầu có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Bên được
đề nghị được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng khi đề nghị được
chuyển đến trụ sở, nếu là pháp nhân. Khi đề nghị được đưa vào hệ thống thông
tin chính thức của bên được đề nghị hoặc khi bên được đề nghị biết được đề nghị
giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác cũng được coi là đã nhận
được đề nghị.
4.2. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng.
Điều 389 Bộ luật Dân sự quy định về thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp
đồng, theo đó bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại giao kết hợp đồng trong
những trường hợp sau đây: Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay
đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; Điều
kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu
rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.

10


Tóm lại, lời đề nghị mặc dù chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều đã
có tính chất ràng buộc đối với người được đề nghị. Tuy nhiên, bên đề nghị vẫn
có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:
- Bên được đề nghị chưa nhận lời đề nghị;
- Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều
kiện đó đã đến.

Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều
kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì cũng coi như bên được đề nghị đưa ra đề nghị mới.
Người được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ
chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc cũng có thể chỉ chấp nhận việc giao
kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đã đưa ra. Nghĩa
là trong những trường hợp này, người được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi
nội dung mà người đề nghị đã đưa ra. Vì vậy, họ sẽ trở thành người đề nghị mới
và người đã đề nghị trước đó lại trở thành người được đề nghị. Người đề nghị
mới cũng chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung đã đề nghị. Sự hoán vị
này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được
với nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết hợp
đồng.
Điều 390 BLDS 2015 quy định về việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
như sau: Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ
quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy
bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng. Theo đó, bên đề nghị cũng có quyền hủy bỏ đề nghị trong đề nghị giao kết
hợp đồng. Tuy nhiện, bên đề nghị đó phải thông báo cho bên được đề nghị.
Thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước
khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
11


Điều 391 BLDS quy định về các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp
đồng: Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng; Bên được đề nghị trả lời
không chấp nhận; Hết thời hạn trả lời chấp nhận; Khi thông báo về việc thay đổi
hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu
lực; Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.
4.3. Chấp nhận giao kết hợp đồng.

Là việc bên được đề nghị nhận toàn bộ lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc
giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải
trả lời ngay về việc có chấp nhận giao kết hợp đồng hay không. Khi bên được đề
nghị giao kết hợp đồng chấp nhận đề nghị thì hợp đồng đó coi như đã được giao
kết. Trong những trường hợp cần phải có thời gian để bên đề nghị cân nhắc, suy
nghĩ mà các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong
thời hạn đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp
nhận giao kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới
của bên chậm trả lời.
Nếu việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu bưu
điện được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề nghị xác
định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định.
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng nếu như thông báo rút lại thông báo chấp nhận đó đến trước hoặc
cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Đối với trường hợp sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng mà bên đề nghị chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
thì đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị đã chết hoặc mất năng lực hành vi

12


dân sự vẫn được coi là có giá trị. Ngược lại, đối với những trường hợp mà sau
khi giao kết hợp đồng, bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng
lực hành vi dân sự thì chấp nhận giao kết hợp đồng của bên được đề nghị đã chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự cũng được coi là có giá trị.
5. Thời điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng đối với
các bên tham gia giao kết hợp đồng. Bởi thông thường, nếu các bên không có sự
thỏa thuận khác thì thời điểm giao kết hợp đồng cũng là thời điểm phát sinh hiệu

lực hợp
đồng. Kể từ thời điểm đó hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Có
nghĩa khi xác định được thời điểm giao kết hợp đồng là xác định được thời điểm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cảu các bên trong hợp đồng, nếu các bên
tham gia giao kết hợp đồng không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có
quy định khác.
Về nguyên tắc hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận đề nghị hoặc khi các bên thỏa thuận xong nội dung chủ
yếu của hợp đồng. Ở đây pháp luật cũng dự liệu trường hợp chấp nhận đề nghị
bằng sự im lặng khi đã hết thời bạn trả lời nếu các bên có thỏa thuận. Điều này
cho tháy trong mọi trường hợp, sự thỏa thuận, sự tự nguyện của các bên luôn
được pháp luật dân sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Trong Bộ luật Dân sự thời
điểm giao kết hợp đồng được xác định theo yếu tố hình thức của hợp đồng: Hợp
đồng miệng hay hợp đồng văn bản đều phải có chứng thực của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, chứng nhận, đăng ký, xin phép. Điều này cũng phản ánh sự đa
dạng, phong phú về hình thức của hợp đồng và sự cần thiết phải xác định thời
điểm giao kết hợp đồng theo hình thức đó. Quy định này trong Bộ luật Dân sự

13


cũng thể hiện nét phong tục tập quán khi kết ước hợp đồng, nó được kết hợp hài
hòa với nguyên tắc pháp lý hiện đại.
Với hợp đồng miệng thời điểm giao kết được xác định là thời điểm các
bên trực tiếp thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng. Quy định này hoàn toàn
phù hợp với tập quán mua bán, trao đổi thông thường diễn ra hàng ngày trong
đời sống. Đối với hợp đồng bằng văn bản, thì thời điểm giao kết là thời điểm bên
sau cùng ký vào văn bản. Quy định này chỉ ra một thời điểm giao kết hợp đồng
một cách đích xác của hình thức này.
Thời điểm giao kết hợp đồng không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà điều quan

trọng là giá trị pháp lý khi xác định thời điểm. Nó là cơ sở để xác định thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng.
6. Địa điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng cũng có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Về nguyên tắc, các bên có quyền thỏa thuận lấy bất cứ nơi nào làm địa điểm giao
kết hợp đồng. Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì địa điểm giao
kết hợp đồng được xác định là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân
đã đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 390 BLDS 2015).
Có thể hiểu nơi đặt trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của
pháp nhân đó, còn nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh
sống. Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ. Nếu cha,
mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người đó là nơi cư trú của cha hoặc
mẹ. Nơi cư trú của người giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Nơi cư trú
cảu quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị đóng quân, trừ trường
hợp họ có nơi thường xuyên cư trú. Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên

14


tàu, thuyền, phương tiện hành nghề lưu động khác là nơi đăng ký tàu, thuyền,
phương tiện đó, nếu họ không có nơi cư trú thường xuyên.
II. THỰC TRẠNG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG. BẤT CẬP VÀ KIẾN
NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
1. Kết quả đạt được.
Việc giao kết hợp đồng là việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể.
Và khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng cho thấy, phần lớn các chủ thể tham gia giao kết
nắm được căn cứ cơ bản của việc giao kết. Những quy định của pháp luật cũng
phù hợp với tập quán, “văn hóa mua bán” của người dân Việt, vì thế, việc giao

kết hợp đồng phần lớn đã đảm bảo được các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
theo quy định của pháp luật.
Tùy vào từng chủ thể tham gia và mục đích ký kết hợp đồng mà việc áp
dụng pháp luật vào giao kết hợp đồng có sự khác nhau. Trong những năm qua,
cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những quy
định về hợp đồng mà cụ thể là việc giao kết hợp đồng đã phát huy vai trò quan
trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích pháp cảu cá nhân,
tổ chức, lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Chế định hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự được coi là một chế định quan trọng bởi nó được coi là nền tảng cho
pháp luật về hợp đồng nói chung, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập
trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm.
Việc đưa ra các quy định về giao kết hợp đồng đã đánh dấu bước phát
triển hoàn thiện của pháp luật dân sự về hợp đồng ở nước ta. Những quy định cụ
thể nêu ra trong Bộ luật Dân sự đã giúp cá nhân, tổ chức,… các chủ thể tham gia

15


giao kết hợp đồng thực hiện việc giao kết một cách tự do, tự nguyện trong khuôn
khổ pháp luật quy định.
2. Các vi phạm trong việc giao kết hợp đồng qua thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân.
Trên thực tế không ít những trường hợp giao kết không bảo đảm được các
điều kiện có hiêu lực của hợp đồng. Việc vi phạm một trong các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng, hoặc thiếu một trong những điều kiện đó dẫn đến hợp
đồng bị vô hiệu.
Đối với loại hợp đồng vô hiệu tương đối trên thực tế xem xét loại hợp
đồng vô hiệu này cho thấy: việc vi phạm ý chí tự nguyện của các bên do bị nhầm
lẫn hoặc bị lừa dối thường xảy ra. Lý do hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa là rất

hiếm, hay nói cách khác rất ít khi xảy ra. Trường hợp hợp đồng được giao kết khi
một trong các bên không bảo đảm điều kiện về năng lực hành vi cũng thường
xảy ra trên thực tế. Nhưng ở những trường hợp này, người đại diện cho người
chưa có năng lực hành vi khi phát hiện có thể khởi kiện để hủy hợp đồng, hoặc
không khởi kiện hủy hợp đồng bởi thực tế hợp đồng tuy không đảm bảo điều
kiện năng lực hành vi có thể nhưng việc thực hiện hợp đồng không có thiệt hại
xảy ra, hợp đồng vẫn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên tham gia.
Phần nhiều hợp đồng vô hiệu tương đối là do nguyên nhân bị lừa dối.
Đối với loại hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là trường hợp giao kết vi phạm điều
cấm của pháp luật, giao kết do giả tạo và giao kết do vi phạm về hình thức. Đây
là trường hợp hợp đồng dương nhiên bị vô hiệu và về nguyên tắc phải hủy hợp
đồng. Trong Bộ luật Dân sự cũng xác định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu xác
định hợp đồng bị vô hiệu là vô thời hạn. Mức độ hợp lý của quy định đã được
bàn đến trong phần hợp đồng vô hiệu. Trên thực tế nếu đối tượng của hợp đồng
là vật không được phép giao dịch (vi phạm điều cấm của pháp luật), thì trong
16


mọi trường hợp đều dẫn đến hậu quả hợp đồng vô hiệu. Ví dụ như các giao dịch
có đối tượng giao dịch là thuốc phiện, vũ khí, là những hàng hóa mà Nhà nước
thống nhất quản lý không được phép lưu thông trong thị trường tự do. Thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân đã có những vụ án vi phạm điều kiện này.
Trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức. Về
nguyên tắc, hình thức của hợp đồng do các bên thỏa thuận. Nhưng đối với một số
loại hợp đồng do tầm quan trọng của nó pháp luật quy định hình thức bắt buộc
của loại hợp đồng đó mà khi giao kết hợp đồng các bên phải tuân thủ. Nổi lên
trong các trường hợp này là hình thức của hợp đồng mua bán nhà ở, luật pháp có
quy định đối với loại hợp đồng vi phạm hình thức, Tòa án dành cho một thời
gian nhất định để hoàn tất hình thức thủ tục theo quy định của pháp luật. Nếu hết
thời hạn quy định mà hình thức của hợp đồng vẫn bị vi phạm thì Tòa án có thể

hủy hợp đồng. Trên thực tế hợp đồng vi phạm hình thức có thể do các bên thiếu
sự hiểu biết cần thiết về pháp luật. Có thể vì trốn tránh nộp thuế mà các bên bỏ
qua việc tuân thủ hình thức này. Do đó nhiều trường hợp một trong các bên đã
lợi dụng sơ hở về hình thức để xin hủy hợp đồng. Vì vậy, trên thực tế, khi xét xử
hợp đồng vi phạm điều kiện hình thức các tòa án luôn tính đến yếu tố tự nguyện
của chủ thể khi giao kết hợp đồng, nhất là khi hợp đồng được hoàn thành trên
thực tế, hoặc gần như đã hoàn thành trên thực tế. Điều này không ngoài mục đích
ổn định giao lưu dân sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng.
Việc giải quyết hợp đồng vô hiệu trong nhiều trường hợp rất phức tạp.
Qua thực tiễn xét xử của các tòa án cho thấy không phải ngay sau khi hợp đồng
được giao kết các bên phát hiện ngay vi phạm và tự nguyện xin hủy hợp đồng.
Không ít các trường hợp hợp đồng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần các
bên mới phát hiện ra vi phạm và xin hủy hợp đồng. Thường là việc các bên xin
hủy hợp đồng không phải hoàn toàn do các bên tự nguyện, mà là bên có lợi xin
17


hủy hợp đồng. Do đó vấn đề giải quyết tranh chấp về hậu quả hợp đồng vô hiệu
gặp nhiều khó khăn. Quy định về xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu được Bộ luật
Dân sự quy định khá cụ thể. Tuy nhiên trên thực tế còn có rất nhiều vấn đề phải
xử lý mà pháp luật không thể giải quyết hết được.
Trường hợp do vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại xảy ra, Tòa án căn cứ
vào mức độ lỗi của các bên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên
thực tế việc đánh giá mức độ lỗi của các bên và trách nhiệm dân sự đối với thiệt
hại là vấn đề khó khăn, không ít vụ kiện kéo dài tranh chấp và qua nhiều lần,
nhiều cấp xét xử về việc quy trách nhiệm chịu thiệt hại đã xảy ra.
Xét về nguyên lý giao kết hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng, các Tòa án nhân dân đều xét xử theo phương hướng hủy hợp đồng.
Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử căn cứ vào tính chất vô hiệu tuyệt đối, vô hiệu
tương đối, căn cứ hợp đồng đã hoàn thành trong thời hạn quá lâu, hậu quả của

hợp đồng đã không thể khắc phục được. Và để ổn định giao lưu dân sự trong
những trường hợp nhất định có thể tòa án vẫn duy trì hiệu lực hợp đồng, hoặc
xem xét chấp nhận một phần hợp đồng như trong trường hợp đối tượng là di sản
thừa kế chưa chia, Tòa án chấp nhận phần hợp đồng tương đương với kỷ phần
thừa kế mà bên tham gia hợp đồng được hưởng. Hoặc trường hợp tài sản chung
của nhiều đồng sở hữu, nhưng hợp đồng đã thực hiện quá lâu, Tòa án có thể chấp
nhận hợp đồng và giải quyết hâu quả thông qua việc bồi thường cho các đồng sở
hữu chủ bị thiệt hại.
Từ đó cho thấy, thực tiễn về giao kết hợp đồng rất phức tạp, những quy
định của pháp luật luôn ở trạng thái tĩnh, trong khi các giao dịch dân sự dẫn đến
việc ký kết lại diễn ra khá đa dạng và phức tạp qua từng ngày.
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về giao kết hợp
đồng.
18


Sau khi nghiên cứu về thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng, nhận
thấy rằng việc giao kết hợp đồng còn có nhiều bất cập. Bởi vậy, cần thiết phải có
những điều chỉnh từ các nhà lập pháp và từ chính các chủ thể tham gia giao kết.
Từ đó, em xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cần nâng cao ý thức pháp luật của mỗi người dân khi tham gia
giao kết hợp đồng. Biểu hiện cụ thể như việc tôn trọng đối tác, trung thực, không
lừa dối, đe dọa người khác để ép buộc họ ký kết hợp đồng. Việc ký kết và thực
hiện hợp đồng không chỉ là quan hệ đến lợi ích của những chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng, mà nó còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng
và thuần phong mỹ tục của xã hội. Vì vậy, các bên được tự giao kết hợp đồng
nhưng mỗi chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng cũng cần phải tự ý thức để
việc ký kết của mình không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Thứ hai, với các nhà lập pháp, cần có những biện pháp nghiêm trị đối với
những hành vi vi phạm quy định về giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, cần có

những quy định chi tiết, cụ thể về trình tự, phương thức giao kết. Mặc dù pháp
luật tôn trọng quyền tự do, tự nguyện ký kết hợp đồng của các chủ thể, nhưng
quyền tự do đó phải luôn trong một khuôn khổ pháp lý cụ thể và cần phải có
hướng dẫn chi tiết để tránh trường hợp hợp đồng vi phạm về nội dung hoặc hình
thức do hiểu không đúng những quy định của pháp luật.
Thứ ba, cần nâng cao hiệu quả của các cơ quan giải quyết tranh chấp, nhất
là Tòa án kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích của chủ thể đều được pháp luật bảo
vệ. Qua đó, tạo niềm tin đối với các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng.
Đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi chủ thể trong quan hệ dân sự được tạo
lập.

19


Trên đây là một số kiến nghị của em với mong muốn góp một phần nhỏ
của mình vào việc hoàn thiện hơn cơ chế pháp lý về giao kết hợp đồng trong hệ
thống pháp luật hiện hành.

20


C. KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường và những bước tiến vượt bậc của
nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua, cho thấy, những quy định về hợp đồng
mà cụ thể là việc giao kết hợp đồng đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo
lập hành lang pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của
Nhà nước và lợi ích công cộng. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được
coi là một chế định quan trọng bởi nó được coi là nền tảng cho pháp luật về hợp
đồng nói chung, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc

bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc giao kết hợp đồng, mỗi chủ thể tham gia và nhà lập pháp cần
có những biện pháp đúng đắn để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia, của Nhà
nước và của toàn xã hội.

21



×