Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tư tưởng của john locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.36 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

TRẦN THỊ THU HƢƠNG

TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ
NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH
QUYỀN” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thúy Vân

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng của John Locke về phân chia
quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”
là công trình nghiên cứu của tôi và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
Giảng viên – PGS. TS Nguyễn Thúy Vân
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Sinh viên

Trần Thị Thu Hương




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Nguyễn
Thúy Vân, người trực tiếp tận tình hướng dẫn và động viên tinh thần trong suốt
quá trình giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo
giảng dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic
học và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để
thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự nghiệp
sau này.
Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả
năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận
được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và
nghiên cứu.
Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự giúp
đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và khả năng
lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ
dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020
Sinh viên

Trần Thị Thu Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 3
2.Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 4
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 9

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................ 9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 10
6. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 10
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ
NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH
QUYỀN” ............................................................................................................. 12
1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John
Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc ......................................................... 12
1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà
nƣớc của John Locke ........................................................................................ 18
1.2.1. Tiền đề tư tưởng .................................................................................. 18
1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con người và quyền con người25
1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo
luận thứ hai về chính quyền” ........................................................................... 31
1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke .............................................. 31
1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ................................... 33
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 36
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ
PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO
LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” .......................................................... 38

1


2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực nhà
nƣớc ................................................................................................................................... 38
2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước ................................... 38
2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nước ................................................. 42

2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke ................ 46
2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước ......................................... 47
2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền
lực nhà nước .................................................................................................. 51
2.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nước ..... 60
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 69
CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA JOHN
LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM
“KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 72
3.1. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền nhà
nƣớc ................................................................................................................................... 72
3.1.1. Những giá trị cơ bản trong tư tưởng của John Locke về phân chia
quyền lực nhà nước ....................................................................................... 72
3.1.2.Một số hạn chế chủ yếu trong tư tưởng của John Locke về phân chia
quyền lực nhà nước ....................................................................................... 76
3.2.Ý nghĩa tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc đối
với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .................... 77
3.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay ......................................................................................................... 77
3.2.2. Ý nghĩa tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke đối
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay................... 83
Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................. 93
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97
2


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài

“Mọi quyền lực đều hướng tới tha hóa. Quyền lực tuyệt đối thì tha hóa
tuyệt đối”. Câu nói trên của sử gia người Anh – Baron Acton đã trở thành một
kết luận đanh thép về bản chất quyền lực. Quyền lực luôn có xu hướng mở rộng
và tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực thì ở đó xuất hiện
xu hướng lạm quyền, chuyên quyền, dù quyền lực ấy thuộc về bất cứ ai . Nhà
nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của xã hội, từ khi ra đời đến nay
có rất nhiều nhà tư tưởng đã luôn suy tư, trăn trở tìm hiểu bản chất, quy luật vận
động của nhà nước trong lịch sử phát triển của nhân loại để nhằm mục đích tìm
cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sao cho có hiệu quả nhất và
ngăn ngừa những mặt hạn chế của nó, hướng đến một mô hình nhà nước lí
tưởng, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chính bởi lẽ ấy mà ngay
từ thời cổ đại, các triết gia đã không ngừng trăn trở và suy tư về cách thức xây
dựng một mô hình nhà nước lý tưởng, đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng ấy, John Locke (1632 - 1704) là một
trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây cận đại thế
kỷ XVII. Locke để lại rất nhiều tác phẩm cho hậu thế sau này, trong đó “Khảo
luận thứ hai về chính quyền” được coi là một trong những danh tác chính trị thế
giới, có giá trị lí luận về khoa học chính trị cũng như triết học và nhiều ngành
khoa học xã hội khác, đưa tên tuổi của ông trở thành một nhà tư tưởng chính trị
sắc xuất thời kì cận đại ở Tây Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Trong tác
phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Locke đã đưa ra kiến giải sâu sắc về
nhà nước, trong đó quan niệm của ông về quyền lực nhà nước và sự phân chia
quyền lực nhà nước. Mặc dù, chưa đưa ra được khái niệm nhà nước pháp quyền
nhưng ở trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã trình bày
những tư tưởng tiến bộ và cách mạng về phân chia quyền lực nhà nước là cơ sở
3


nền tảng của nhà nước pháp quyền. Cho tới nay, gần 4 thế kỉ trôi qua, nhưng sức
hấp dẫn và lôi cuốn của tác phẩm không bị phai mờ. Những quan niệm của John

Locke về sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ có giá trị về mặt lý luận
mà còn ở giá trị hiện thời sâu sắc đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam đang đi trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, làn sóng cuộc cách mạng công nghệ 4.0,… có nhiều những vấn đề thực
tiễn đặt ra cần phải giải quyết. Trong những năm qua, Đảng ta lãnh đạo xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân cho dân và vì dân, quyền
lực nhà nước tập trung thống nhất không phân chia, mà chỉ có sự phân công,
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, với mục
đích đảm bảo hiệu quả hoạt động nhà nước và ngăn ngừa sự lạm quyền. Vì vậy,
việc trở lại nghiên cứu những tư tưởng của phương Tây thời kì cận đại với
những quan điểm về nhà nước, quyền lực, xã hội công dân, về con người,
…trong đó có tư tưởng của John Locke có ý nghĩa lý luận quan trọng trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Do vậy, với tất cả những lý do trên, tôi chọn “Tư tưởng của John Locke
về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước là nội dung thu hút nhiều sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau. Liên quan đến đề
tài khóa luận có thể khái quát công trình nghiên cứu thành hai hướng chính như
sau:
4


Hướng nghiên cứu thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến
tư tưởng triết học của John Locke nói chung và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền” nói riêng
Đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng triết học của John
Locke nói chung gồm có nhiều công trình như:
+ Cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên. Trong cuốn sách,
tác giả đã trình bày các quan niệm triết học của John Locke nhưng chủ yếu tập
trung vào phương diện nhận thức luận, chưa đề cập đến triết học chính trị của
Locke.
+ Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị do Nguyễn Đăng Dung chủ
biên đã trình bày một cách khái quát triết học chính trị của John Locke với
những nội dung chủ yếu được khảo sát từ tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền”. Các quan niệm của John Locke về pháp quyền tự nhiên, và nhà
nước đã được trình bày còn sơ lược và chưa mang tính hệ thống.
+ Cuốn Đại cương lịch sử triết học phương Tây của TS. Đỗ Minh Hợp,
TS. Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn phân tích khá toàn diện về các quan
niệm triết học của John Locke. Tuy nhiên, những quan niệm chính trị - xã hội
của J. Locke cũng được các tác giả trình bày và phân tích mang tính hệ thống.
Ngoài ra, tư tưởng triết học của Locke nói chung và tư tưởng về nhà nước
nói riêng còn được đề cập đến trong các giáo trình như: cuốn Lịch sử triết học
phương Tây từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức của Nguyễn
Tấn Hùng, Đại cương các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới do
Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Nguyễn
Tiến Dũng, cuốn Lịch sử các học thuyết chính trị của Lưu Kiểm Thanh và Phạm
Hồng Thái, cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị của Học viện hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Trần Văn Phòng và
5


Dương Minh Đức...Nhìn chung các công trình trên chủ yếu bàn về quan điểm
chính trị, xã hội của John Locke như một phần không thể thiếu trong tư tưởng
chính trị cận đại ở phương Tây.

Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình nước ngoài viết về John Locke đã
được dịch và xuất bản. Trước hết phải kể đến cuốn sách 106 nhà thông thái của
P.S.Taranop biên soạn, do TS. Đỗ Minh Hợp dịch, hiệu đính và cho xuất bản
năm 2000. Tiếp đến, tác phẩm 100 cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới do Đặng
Thục Sinh (chủ biên) xuất bản năm 2002. Trong đó, tác giả đã trình bày khái
quát những nội dung chủ yếu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính
quyền” của John Locke và cũng đã khẳng định giá trị to lớn của những tư tưởng
về quyền con người và nhà nước trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tác
phẩm Các triết thuyết lớn, của tác giả Folscheid Dominique do Huyền Giang
dịch và được xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu cho
bạn đọc sơ lược về tiểu sử cùng học thuyết chính trị của John Locke với hai nội
dung chính là trạng thái tự nhiên và khế ước xã hội. Hay như công trình Lịch sử
triết học và các luận đề của Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn
Huy biên dịch xuất bản năm 2004, đã giới thiệu khái quát về cuộc đời, các tác
phẩm tiêu biểu và các quan niệm triết học cơ bản là học thuyết về nhận thức và
lý thuyết về đạo đức và chính trị của John Locke nhưng mới chỉ dừng ở mức
giới thiệu sơ lược, các vấn đề đưa ra còn thiếu sự phân tích.
Đối với hướng nghiên cứu tập trung về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền” và tư tưởng của John Locke được thể hiện trong tác phẩm. Ở
hướng nghiên cứu này tập trung ở các luận văn, tạp chí, bài báo nghiên cứu gồm
có:
+ Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Dịu (2009) với đề tài “Quan niệm
chính trị xã hội của John Locke” với hai nội dung chính quan niệm chính trị và
xã hội. Tác giả nghiên cứu làm rõ quan niệm của ông về con người và quyền con
6


người, cũng như về quyền lực nhà nước và quan niệm của ông về sự giải thể của
chính quyền. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những kiến giải cụ thể về nguồn
gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, cũng chưa chỉ ra được cơ sở hình thành

quan niệm về nhà nước.
+ Luận văn Thạc sỹ của Đinh Thị Hồng Vững (2013) với đề tài, “Quan
niệm của John Locke về nhà nước trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính
quyền”. Trong tác phẩm tác giả đã trình bày chi tiết cụ thể quan niệm về nhà
nước từ nguồn gốc hình thành, mục đích, giới hạn, cũng như sự phân chia quyền
lực và giải thể chính quyền.
+ Luận văn Thạc sỹ của Đặng Thị Loan (2017) với đề tài “Quan niệm của
John Locke về sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”” và
giá trị hiện thời của nó”. Trong luận văn, tác giả đưa ra kiến giải về quan niệm
nguồn gốc, bản chất của sở hữu và phương thức bảo đảm quyền tư hữu.
Khi nghiên cứu về John Locke chúng ta không thể không nhắc đến nỗ lực
của dịch giả Lê Tuấn Huy, đã dịch một cách thành công tác phẩm “Khảo luận
thứ hai về chính quyền” và được xuất bản vào năm 2007 và tái bản năm 2013.
Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết về John
Locke, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn bộ tác phẩm này sang tiếng
Việt.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều tạp chí, bài báo khoa học có liên quan như:
Quan niệm của John Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai
về chính quyền” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Một số tư tưởng
triết học chính trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của Đinh Ngọc
Thạch (2007), John Locke -Nhà tư tưởng lớn của phong trào khai sáng của
Phạm Văn Đức (2008), Quan niệm của John Locke về sự hình thành và bản chất
quyền lực nhà nước trên Tạp chí Thông tin chính trị và Locke và Triết lí về con
người của Lê Công Sự trên tạp chí con người….
7


Hướng nghiên cứu thứ hai là những công trình nghiên cứu sâu về tư tưởng
phân chia quyền lực của John Locke, bao gồm:
+ Cuốn Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy

nhà nước ở một số nước của tác giả Nguyễn Thị Hồi được Nxb Tư pháp Hà Nội
xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách này tác giả đã nghiên cứu tư tưởng phân
chia quyền lực trong lịch sử triết học từ Aristotle, Locke, Montesqieu,
Rousseau…và việc áp dụng tư tưởng phân quyền ở một số nước tiêu biểu trên
thế giới.
+ Cuốn Nhà nước pháp quyền của tác giả Đào Trí Úc được Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2015. Cuốn giáo trình này có đi sâu nghiên cứu
hệ thống về Nhà nước pháp quyền, phân tích, lý giải khoa học về tính phổ quát
và tính quốc gia, dân tộc đặc thù của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà
nước pháp quyền là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước phù hợp
với điều kiện và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, khái quát những đặc trưng cơ bản của
Nhà nước pháp quyền, coi đó là yếu tố hợp thành Nhà nước pháp quyền với tính
cách là những yêu cầu, đòi hỏi, là hệ thống các nguyên tắc tổ chức thực hiện
quyền lực Nhà nước; phân tích và khái quát quá trình phát triển của các yếu tố
cần và đủ cho việc xác lập và củng cố Nhà nước pháp quyền, từ đó chỉ ra nhu
cầu bổ sung, hoàn thiện trong việc đổi mới tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt
động, cơ sở pháp lý,… cho các thiết chế quyền lực Nhà nước và các thiết chế xã
hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Trong cuốn sách tác giả cũng phân tích hệ thống quá
hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền từ cổ đại đến hiện
đại cơ bản và hệ thống, trong đó phân tích hệ thống tư tưởng phân quyền của
John Locke.

8


Các tài liệu đã đưa ra những luận giải rất logic và rõ ràng khái quát về
toàn bộ tư tưởng của John Locke nói chung, cũng như quan điểm chính trị nói
riêng, trong đó có quan niệm sự hình thành xã hội công dân, về quyền lực nhà

nước, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Tuy vậy, có thể nói, việc đi sâu
nghiên cứu quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền quyền lực nhà
nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” vẫn cần phải nghiên
cứu sâu hơn để làm rõ những nội dung tư tưởng căn bản cũng như ý nghĩa của tư
tưởng đó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ một số tư tưởng cơ bản về phân chia
quyền lực nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền”, từ đó làm rõ ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận tập
trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những điều kiện, tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng
về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và giới thiệu khái quát về tác
phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.
+ Phân tích một số quan điểm cơ bản của John Locke về phân chia quyền
lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.
+ Đánh giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm của ông về phân
chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và
chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
9


- Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin trong nghiên
cứu lịch sử triết học; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các công trình
của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp của phép biện

chứng duy vật trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Cụ thể là, phương pháp
lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và
so sánh…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của J. Locke về phân chia quyền lực
nhà nước và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu: Với những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên,
nên khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quan niệm về sự
phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền” và những nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ đổi
mới đến nay.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần vào việc làm sáng tỏ quan niệm về sự phân quyền nhà
nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, trên
cơ sở đó giúp người nghiên cứu và học tập có những đánh giá khách quan hơn
về công lao của John Locke đối với lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài

10


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương, 7 tiết.

11


CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG

CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN”
1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John
Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc
Tây Âu từ thế kỉ XV – XVII có những chuyển biến phức tạp và sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện một loạt các công
trường thủ công, các thành thị và trung tâm thương mại lớn ở khắp các nước ven
Địa Trung Hải, nhất là Ý, sau đó là Anh, Pháp. Bằng việc một loạt các phát
minh kỹ thuật mới như máy kéo sợi, máy in, công nghiệp dệt, luyện kim, thuốc
súng,… đã thay thế nền kinh tế tự nhiên kém phát triển bằng một nền sản xuất
công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn gắn với việc nhiều
công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện.
Các cuộc phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ và các con đường đến vùng
đất mới cùng với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp đã tạo nên những
tiền đề trực tiếp cho một thời kỳ mới… tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất
theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó thị trường trao đổi hàng hóa giữa các
nước ngày càng mở rộng, các cuộc giao lưu Đông – Tây được tăng cường.
Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện và phát triển trong
lòng xã hội phong kiến. Đồng thời, sự phân hóa giai cấp ở Tây Âu thời kì này
càng rõ rệt, đó sự nảy sinh hai giai cấp mới: tư sản và vô sản. Tầng lớp tư sản
xuất hiện gồm chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn…có vai trò
và vị trí trong nền kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân di cư từ
nông thôn ra thành phố, trở thành người làm thuê cho các công xưởng, họ là giai
cấp vô sản phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Các tầng lớp xã hội trên đại
diện cho nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong
kiến.
12


Nền kinh tế tư bản thay thế cho sản xuất phong kiến, nhưng kiến trúc

thượng tầng của xã hội châu Âu lúc này vẫn là chế độ phong kiến lạc hậu kìm
hãm sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nắm trong tay tiềm lực
kinh tế nhưng giai cấp tư sản không có chút địa vị chính trị nào, không có điều
kiện tự do phát triển sản xuất, vẫn phải phụ thuộc vào chế độ phong kiến, vào
giai cấp quý tộc, địa chủ lúc này đã trở nên lạc hậu. Do đó, để có thể tự do phát
triển sản xuất, tự do buôn bán giai cấp tư sản cần phải lật đổ chế độ phong kiến,
giành quyền lực chính trị. Chính vì thế, Tây Âu thời kì này đánh dấu hàng loạt
những cuộc cách mạng tư sản nổ ra, tiêu biểu như cách mạng tư sản năm 1566 ở
Hà Lan, cách mạng tư sản Anh năm 1642, cách mạng tư sản Pháp năm 1789…
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị
trở thành một xu thế của lịch sử mà không gì có thể ngăn cản nổi.
Đồng thời, giai đoạn này là giai đoạn phong trào văn hoá Phục hưng và
cận đại phát triển lên đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI và lan mạnh ra khắp các nước
tạo thành một cao trào rộng lớn làm biến đổi sâu sắc xã hội, tư tưởng khôi phục
lại những giá trị văn hóa tinh hoa của thời kỳ cổ đại ở Tây Âu, vừa đã thổi bùng
lên những khát vọng giải phóng con người và quyền con người, cụ thể là thoát
khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe.
Những biến đổi sâu sắc và phức tạp ở Tây Âu trên tất cả các lĩnh vực của
toàn bộ đời sống xã hội thời kì này đã tác động mạnh mẽ đến điều kiện kinh tế,
xã hội và chính trị nước Anh thế kỉ XVII. Chính những biến chuyển mạnh mẽ
của nước Anh nói riêng và cả Tây Âu nói chung trong cuộc đấu tranh gay gắt
giữa tư bản và phong kiến đã làm xuất hiện những tiền đề trực tiếp cho sự ra đời
của quan niệm triết học chính trị của John Locke.
Về kinh tế, nước Anh thế kỉ XVII là một trong những cường quốc ở châu
Âu với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và thương nghiệp. Từ cuối thế kỷ
XVI, các ngành công nghiệp ở Anh đã phát triển rất mạnh. Những phát minh
13


mới về kỹ thuật, nhất là những hình thức mới trong lao động đã tạo ra năng suất

lao động ngày một cao, thay đổi căn bản cách thức sản xuất chủ yếu bằng lao
động thủ công sang sử dụng máy móc và từng bước hình thành cơ cấu công
nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy mô nhỏ lên quy mô lớn với sự xuất hiện các
khu công nghiệp. Đặc biệt là ngành nghiệp sản xuất len dạ cung cấp một lương
hàng xuất khẩu chiếm 80% toàn bộ hàng xuất khẩu ở Anh. Đây là thời kỳ các
phường hội trung cổ ở Anh đến thế kỷ XVII đã đi đến chỗ tan rã. Công trường
thủ công với nền sản xuất quy mô lớn xuất hiện thay thế cho các phường hội
trung cổ. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư
sản, thợ thủ công trở thành lao động làm thuê trong các công trường thủ công,
phải lệ thuộc vào nhà tư sản. Thương nghiệp của Anh trong thời kỳ này cũng có
bước phát triển vượt bậc trên thị trường thế giới. Thương nhân mở rộng buôn
bán trên khắp châu Âu, thông qua những con đường hàng hải mới tìm được
trong các cuộc phát kiến địa lý mở rộng thị trường buôn bán từ biển Ban Tích
sang tận châu Phi, châu Á và cả châu Mỹ. Các công ty buôn bán lớn lần lượt
xuất hiện như công ty Đông Ấn của Anh thành lập năm 1600…
Đầu thế kỉ XVII, nước Anh mặc dù đạt được một số thành tựu về công
thương nghiêp nhưng vẫn là một nước nông nghiệp. Để có được lợi nhuận, giai
cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông dân . Do
sự phát triển của ngành công nghiệp len dạ ngày càng lớn mạnh nên nghề nuôi
cừu càng phát triển. Địa chủ lúc này không thỏa mãn với thu nhập từ địa tô nông
dân nộp cho, muốn chuyển hướng kinh doanh sang trồng cỏ nuôi cừu. Do đó,
giới địa chủ Anh đã tước đoạt ruộng đất của nông dân đang cày cấy và đất đai
công xã thành của mình. Biến ruộng đất thành những cánh đồng trồng cỏ hoặc
tự mình kinh doanh nuôi cừu hoặc nuôi cừu thuê. Nông dân mất ruộng đất, nhà
cửa. Họ trở thành những người không có bất cứ cái gì cả, không có một tài sản
nào khác ngoài chính thân thể của mình và đem bán chính sức lao động của
14



mình để kiếm sống, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người nông dân ra khỏi
tư liệu sản xuất từ đây trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp vô
sản. Đó là thảm cảnh cừu ăn thịt người mà Thomas More đã đặc tả trong tác
phẩm Utopia. Tất cả đó nói lên sự xâm nhập mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản vào
nông thôn và làm chuyển biến kinh tế nông nghiệp phong kiến ở Anh thành kinh
tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Những chuyển biến về kinh tế tất yếu kéo theo những biến đổi sâu sắc
trong lòng xã hội nước Anh. Các tầng lớp trong xã hội nước Anh có sự phân hóa
và mâu thuẫn sâu sắc. Bên cạnh mâu thuẫn cũ tồn tại lâu đời giữa nông dân với
giai cấp phong kiến, trong lòng xã hội nước Anh còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn
mới.
Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp cũ tộc
cũ. Tầng lớp quý tộc cũ là tầng lớp có địa vị cao trong xã hội, có nhiều đặc
quyền đặc lợi hơn, ra sức bảo vệ và ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế. Trong
khi đó, tầng lớp quý tộc mới, tức quý tộc đã tư sản hóa, có quyền lợi gắn chặt
giai cấp tư sản không chỉ thu địa tô mà phần lớn lợi nhuận là từ sản xuất công
thương nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã vươn lên trở thành một lực lượng có tiềm lực
kinh tế mạnh trong xã hội ở Anh, nhưng họ lại không có chút quyền lực và địa
vị chính trị nào. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ, can thiệp
quan liêu vào toàn bộ đời sống, trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của
của lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai cấp tư sản. Chính bởi vậy, một tất
yếu là dẫn đến những xung đột về mặt chính trị, giai cấp tư sản luôn không
khoan nhượng, luôn muốn đấu tranh để giành lấy địa vị chính trị từ tay giai cấp
phong kiến.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với nhân dân lao động. Họ là
những người lao động nghèo bị cướp hết ruộng đất, biến họ trở thành người vô
15



sản. Họ buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và các nhà quý tộc
mới để nhận lấy tiền công rẻ mạt. Bị bóc lột nặng nề với 2 tầng xiềng xích nên
họ luôn mang trong mình mâu thuẫn với giai cấp tư sản và phong kiến.
Ở thế kỉ XVII, tình hình chính trị nước Anh có nhiều biến động. Đến giữa
thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế.
Vua nắm trong tay mọi cơ quan quyền lực của đất nước.
Giữa thế kỷ XVII, chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu nghị viện, khi các
quý tộc mới dần chiếm vị trí của các quý tộc cũ trong Viện thứ dân, dẫn đến
xung đột ngày một trầm trọng giữa nhà vua và nghị viện trong việc tranh giành
quyền lực.
Trong lúc đó, Charles I âm mưu phục hồi chế độ phong kiến và lợi dụng
những tranh chấp trong Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn đến cuộc nội
chiến lần thứ hai bùng nổ năm 1648. Cromwell tập hợp quần chúng nhân dân và
giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ phong kiến nhằm thủ tiêu vương
quyền, xóa bỏ hình thức cha truyền con nối những năm 50 của thế kỷ XVII.
Cuộc cách mạng thành công, phe cách mạng thắng lợi và việc xử tử Charles I
đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng và thiết lập nền bảo hộ của Oliver
Cromwell.
Sau khi Cromwell mất, chế độ bảo hộ cũng bị sụp đổ theo và được thay
thế bằng sự phục hồi của vương triều Charles II với việc quay trở về với nền
quân chủ, viện quý tộc và giáo hội. Điều này đe dọa số phận của tầng lớp tư sản
và quý tộc mới. Nước Anh lúc này lại tiếp tục có những xung đột gay gắt giữa
nhà vua và nghị viện, những tranh cãi kéo dài về vấn đề tôn giáo và chính trị,
khiến nghị viện cứ được triệu tập lại giải tán rất nhiều lần trong những năm 1660
- 1688.
Sau khi Charles II mất, James II lên nắm quyền từ 1685 - 1688 với ý đồ
xác lậpvương quyền phong kiến, thi hành nhiều chính sách như cho các quý tộc
16



lớn theo Thiên Chúa giáo quay trở lại tham gia chính quyền để củng cố thế lực
phong kiến, ra lệnh thu thuế mà không đợi triệu tập nghị viện, bãi bỏ luật “Bảo
đảm thân thể”… Do đó giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới tìm cách lật đổ
bằng việc dựa vào William III là quốc trưởng Hà Lan và là chồng của công
nương Marry II. Vua James II bị trục xuất khỏi nước Anh và ngôi vị được trao
cho William III và vợ, cùng với đó là việc chuyển từ chế độ quân chủ chuyên
chế sang chế độ quân chủ lập hiến. Quyền lực tối cao được chuyển từ tay nhà
vua sang quý tộc mới và tư sản, làm thay đổi căn bản thể chế chính trị nước
Anh. Lịch sử gọi cuộc chính biến 1688 - 1689 là cuộc “Cách mạng vinh quang”.
Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, những cuộc xung đột tôn
giáo giữa người Anh giáo, người Tin lành và người Công giáo đã đẩy nước Anh
vào những cuộc nội chiến kéo dài. Những điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh đã
ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của John Locke và đó là lí do trong tác phẩm
Khảo luận thứ hai về chính quyền ông sử dụng nhiều điển tích tôn giáo trong
quan niệm của mình.
Cuộc cách mạng tư sản Anh là một sự kiện lịch sử quan trọng không chỉ
trong lịch sử nước Anh mà cả lịch sử thế giới. Nó đã đập tan nền quân chủ
phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa mở đường cho sức sản xuất phát
triển. Cuộc Cách mạng vinh quang đã thay đổi chính thể nước Anh một cách hòa
bình, đem lại tự do cho giai cấp tư sản, quý tộc và toàn thể nhân dân Anh. Tuy
nhiên, cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng không triệt để, bởi thực
chất của cuộc cách mạng này là sự thỏa hiệp giai cấp giữa tư sản, quý tộc mới
với giai cấp phong kiến để bảo vệ quyền lợi và địa vị của mình. Sau khi cách
mạng giành thắng lợi, vấn đề ruộng đất cho nông dân vẫn không được giải
quyết. Liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới vừa chống lại chế độ
phong kiến vừa chống lại quần chúng nhân dân. Sở dĩ có sự thỏa hiệp như vậy là
vì giai cấp tư sản trong thời kỳ này chưa đủ lớn mạnh để lấn át hoàn toàn giai
17



cấp phong kiến dẫn đến tư tưởng đấu tranh không triệt để. Thực tiễn này ảnh
hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Locke khi đề cao nhà nước dân chủ nhưng ông
lại cho rằng nhà nước lý tưởng nhất phải là nhà nước quân chủ lập hiến.
Trước bối cảnh nước Anh nói trên, không chỉ là một nhân chứng lịch sử,
hơn nữa còn tham dự vào các sự kiện chính trị đó, đặc biệt là cuộc cách mạng
vinh quang 1689, lịch sử nước Anh thế kỉ XVII đã ảnh hưởng trực tiếp tới quan
niệm chính trị của John Locke. Quan niệm đó được phản ánh đậm nét trong tác
phẩm tiêu biểu của ông, đó là tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.
1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà
nƣớc của John Locke
Tư tưởng của Locke về phân chia quyền lực nhà nước không chỉ xuất phát
trực tiếp từ bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỉ XVII, mà còn ra đời dựa trên sự kế
thừa tư tưởng phương Tây từ thời cổ đại, tư tưởng về bản tính con người và
quyền tự nhiên cơ bản của con người của chính bản thân Locke.
1.2.1. Tiền đề tƣ tƣởng
Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước ra đời không
chỉ xuất phát trực tiếp từ bối cảnh xã hội mà còn ra đời dựa trên kế thừa những
tư tưởng của các nhà triết học Tây Âu trước đó. Đó là lí tưởng về mô hình nhà
nước lí tưởng, trong đó đề cao vai trò tối thượng của luật pháp. Luật pháp chính
là quyền lực nhà nước cao nhất mà bất kì nhà nước lí tưởng nào muốn hướng
đến, bởi pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Luật
pháp thể hiện quyền lực hợp pháp buộc mọi người phải tuân theo. Đó là ý tưởng
về việc phải phân chia quyền lực nhà nước thành các bộ phận để thực thi nhiệm
vụ và hoạt động có hiệu quả.
Ở phương Tây cổ đại, tư tưởng phân chia quyền lực lần đầu tiên được
xuất hiện trong tác phẩm “Chính trị luận” của Aristotle (384 – 322 TCN) .
Aristotle cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, và có được những
18



đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, để có sự quy củ
này thì mọi nhà nước đều phải có 3 bộ phận. Trong tác phẩm “ Chính trị luận”,
ông viết “Phần thứ nhất, chịu trách nhiệm nghiên cứu, thảo luận và quyết nghị
về những vấn đề công cộng. Phần thứ hai, là phần tử chịu trách nhiệm về hệ
thống viên chức chính quyền - những ai đủ tiêu chuẩn, những giới hạn của thẩm
quyền chính trị, và cách thức bổ nhiệm viên chức chính quyền, cuối cùng là bộ
phận chịu trách nhiệm về quyền tư pháp” [1, 240]
Về bộ phận thứ nhất, cơ quan nghị quyết hay còn gọi là Hội đồng nhân
dân được ông chỉ rõ các chức năng là: “phần tử hay cơ quan bình nghị có thẩm
quyền trên những vấn đề chiến tranh hay hòa bình, liên kết đồng minh, thông
qua luật pháp, ấn định tội tử hình hay lưu đày biệt xứ, tịch thu tài sản, bầu cử
quan chức, và kiểm soát của quan lại” [1, 247]. Nói như ngôn ngữ hiện nay thì
cơ quan nghị quyết nắm quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng
của một quốc gia. Số lượng, cách thức lựa chọn các thành viên và quyền hạn của
Hội nghị công dân có liên quan tới hình thức nhà nước: ở chế độ dân chủ mọi
công dân đều được tham gia Hội nghị nhân dân và có quyền quyết định mọi vấn
đề trọng yếu của đất nước; chế độ đầu sỏ chính trị thì chỉ một số công dân đặc
biệt mới được tham gia quyết định các vấn đề nhà nước; còn trong chế độ quý
tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong khi một bộ phận khác quyết
định những vấn đề khác
Về bộ phận thứ hai, ông gọi là cơ quan chính quyền để chỉ những bộ phận
thực thi pháp luật trong nhà nước, ngày nay chúng ta gọi đó là cơ quan hành
pháp. Aristotle cho rằng cần có cơ quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong
nhà nước: quản lý kinh tế, lao động, quản lý đường xá, nhà cửa, quản lý đất đai,
quân đội ... Nhưng cần có một cơ quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân
dân với tư cách như là người đứng đầu nhà nước. Theo ông, trong chế độ dân
chủ, các pháp quan được chọn ra từ trong toàn thể nhân dân, trong chế độ đầu sỏ
19



chính trị thì được chọn ra từ một đẳng cấp đặc biệt, còn trong chế độ quý tộc thì
một số pháp quan được chọn ra từ nhân dân, và một số khác được chọn ra từ
những đẳng cấp trên trong xã hội.
Về cơ quan tư pháp, Aristotle chia ra rất nhiều loại, có 8 loại tòa án khác
nhau, tuỳ theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết.
Về cách thức lựa chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo hình
thức nhà nước. Việc mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là đặc điểm
của nhà nước dân chủ. Còn nếu chỉ có một số công dân thuộc những đẳng cấp
nhất định mới có thể trở thành thẩm phán thì đó là cách thức của chế độ đầu sỏ
chính trị. Còn nếu tuỳ theo từng vụ việc cụ thể mà chọn thẩm phán trong nhân
dân hay trong những người đặc biệt là biểu hiện của chế độ quý tộc. Aristotle
nhấn mạnh đến tính tối cao của pháp luật trong một nhà nước được tổ chức theo
đúng nghĩa của nó. Ông cho rằng nhà nước có công bằng hay không đều phải
gắn với pháp luật, chỉ có pháp luật mới là tiêu chuẩn để điều chỉnh cho mọi hoạt
động trong xã hội.
Dù là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia
quyền lực, nhưng tư tưởng này của Aristotle vẫn chưa chứa đựng quan điểm
phân chia quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực hiện đại, tuy
nhiên ông mới chỉ dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối
liên hệ giữa các cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải
chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực như vậy. Tuy nhiên, đây là
những tiền đề tư tưởng rất quan trọng để John Locke kế thừa và phát triển cho
cho tư tưởng về phân chia quyền lực trong nhà nước của mình sau này.
Sau Aristotle, Polybe và Ciceron cũng thể hiện tư tưởng về phân chia
quyền lực. Theo Polybe (200 -120 TCN), một nhà nước được tổ chức một cách
hợp lí là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền – ba thế lực chính trị: chính
quyền của nhà vua, chính quyền của quý tộc và chính quyền nhân dân. Theo đó,
20



tương ứng với ba quyền: quyền hành pháp thuộc về tay nhà vua, quyền lập pháp
thuộc về viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán
xét của nhân dân. Ông cũng chỉ ra cách thức thực hiện quyền lực, mối quan hệ,
sự tác động giữa các chính quyền với nhau.
Còn đối với Cicero (106 – 43TCN), trong tác phẩm “Đối thoại” ông cho
rằng một phần quyền lực nhà nước phải được phân chia và trao cho quyền uy
của những người chiếm hàng đầu, còn một số công việc khác phải dành cho
nhân dân giải quyết và phán xét.
Như vậy, tư tưởng phân chia quyền lực của các nhà triết học Hy Lạp và
La Mã cổ đại chủ yếu tập trung thể hiện: Một là mô tả các cơ quan của bộ máy
nhà nước mà chưa đi sâu vào mối liên hệ giữa chúng và chưa chỉ được ra
nguyên nhân phải chia quyền lực nhà nước thành các cơ quan như vây. Hai là sự
phân biệt hay kết hợp giữa các phương thức cai trị mà chưa phải là sự phân chia
các nhánh quyền lực nhà nước.
Tiếp theo thời kì Hy Lạp – Lã Mã cổ đại, thời kì Trung cổ kéo dài hằng
trăm năm dưới sự thống trị của vương quyền và thần quyền. Trong đó, chế độ
thần quyền luôn chiếm ưu thế, tòa án giáo hội là cơ quan xét xử cao nhất và giáo
lý tôn giáo luôn ngự trị trong đời sống người dân. Đây là thời kì nổi bật sự thống
trị của nhà thờ và tôn giáo. Nhà thờ vừa chiếm hữu tài sản, vừa nắm toàn bộ
quyền lực chính trị và pháp luật. Nhà nước đồng nhất với nhà thờ, bởi nhà thờ là
một tổ chứ tập quyền hùng mạnh, thống trị về tinh thần và chính trị. Vì vậy, tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước thời kì này bị hạn chế và không được đề
cao.
Sang đến thời kì Phục hưng, châu Âu tràn ngập những biến cố lịch sử.
Trong thời kỳ này, không chỉ phục hồi giá trị văn hóa của thời kỳ cổ đại mà còn
gạt bỏ những giáo lý của nhà thờ ra khỏi đời sống của con người, đề cập quyền
cơ bản của con người, quyền tự do, quyền công dân, đòi tách nhà nước ra khỏi
21



nhà thờ. Tư tưởng chống lại tư tưởng chuyên chế và thần quyền, xã hội xuất
hiện nhu cầu cần phải tăng cường quyền lực nhà nước đảm bảo quyền tự nhiên
của con người. Vì thế, đây là thời kì mà thuyết pháp quyền tự nhiên trở nên rộng
rãi. Lý thuyết pháp quyền tự nhiên thời kì Phục hưng và cận đại có ảnh hưởng
sâu sắc đến tư tưởng về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke.
Những người theo thuyết pháp quyền tự nhiên, một mặt cho rằng sự điều hành
xã hội phải dựa trên tự nhiên và pháp luật, phải tôn trọng quyền tự do, bình đẳng
của con người. Mặt khác, họ đưa ra nguyên tắc tất cả mọi người kể cả vua chúa
cho đến thần dân đều phải tuân theo pháp luật. Nói chung, đó là tư tưởng về
quyền tư nhiên của con người cần được pháp luật bảo vệ. Đó là ý tưởng đề cao
một nhánh quyền lực quan trọng của nhà nước, và các cơ quan trong nhà nước
trong việc đề ra và thực thi pháp luật.
Lý thuyết pháp quyền tự nhiên ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Locke về
tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Bởi trên cơ sở kế thừa và tiếp thu và
phát triển quan điểm những nhà triết học đó quyền tự nhiên của con người là
quyền chính đáng, vốn có, không ai có thể xâm phạm đến đã đưa Locke đến với
suy tư và trăn trở về mô hình tổ chức nhà nước với luật pháp như thế nào để bảo
vệ cho quyền tự nhiên của con người không bị xâm phạm.
Đầu tiên, phải kể đến Hugo Grotius (1583 - 1645), nhà luật học nổi tiếng
người Hà Lan có vai trò to lớn trong việc giải thoát lý luận nhà nước và pháp
luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung đại, trong tác
phẩm xuất sắc nhất của mình, được viết khi ông đang phải sống lưu vong ở Pháp
- “Bàn về pháp luật của chiến tranh và hoà bình” (1625), đã đưa ra các luận
điểm nổi tiếng của pháp luật tự nhiên. Theo Grotius, pháp luật cũng như nhà
nước, bắt nguồn từ trần gian chứ không phải bắt nguồn từ Thượng Đế, pháp luật
tự nhiên và pháp luật thực định cùng tồn tại song song. Pháp luật tự nhiên là thứ
pháp luật ra đời trước, có nguồn gốc từ bản chất của con người, là kết tinh trí tuệ
22



×