HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
SOMKIETHTISACK KINGSADA
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN, NƯỚC CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN
NAY
́
LUÂṆ ÁN TIÊN SI
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
SOMKIETHTISACK KINGSADA
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN, NƯỚC CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN
NAY
́
LUÂṆ ÁN TIÊN SI
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 922 90 40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự dâñ dắt của thầy hướng dâñ và góp ýcủa hôị đồng khoa học. Các sô
liêu,,̣ tài liêu,,̣ kết quả nghiên cứu nêu trong luâṇ án là trung thưc,,̣ có nguồn
gôc rõràng và đươc,̣ trić h dâñ đầy đủtheo quy đinḥ. Tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về lời cam đoan này
Tác giả
Somkiethtisack KINGSADA
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ
SỞ LÝ LUÂṆ VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Chương 2: KHÁI QUÁT HIỆN TRẠNG DI SẢN VĂN HÓA VÂT
̉
THÊỞTHỦĐÔ VIÊNG CHĂN
2.1. Tổng quan về di sản văn hóa vật thể ở thủ đô Viêng Chăn
2.2.
Di tích lịch sử tôn giáo
2.3.
Di tích lịch sử khảo cổ học
2.4.
Di tích lịch sử thời kỳ Pháp thuộc (1893-1954)
2.5.
Di tích lịch sử thời kỳ hiện đại (từ năm 1954 đến nay)
Chương 3: ĐĂCC̣ ĐIÊM VÀ GIÁ TRỊ CỦA DI SẢN VĂN HÓA
̉̉
̉
VẬT THÊỞTHỦĐÔ VIÊNG CHĂN
3.1.
3.2.
Đặc điểm của di sản văn hóa vật thể
Giá trị của di sản văn hóa vật thể
Chương 4: BÀN LUẬN VỀ DI SẢN VĂN HÓA VÂT THÊ
ỞTHỦĐÔ VIÊNG CHĂN HIÊṆ NAY
̉
4.1. Các yếu tố tác động đến di sản văn hóa vật thể ở thủ đô Viêng Chăn
hiện nay
4.2.
Những vấn đề đặt ra đối với bảo tồn, phát huy giá trị di
vật thể ở thủ đô Viêng Chăn
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa
vật thể ở thủ đô Viêng Chăn
KẾT LUẬN
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MUCC̣ CÁC CHỮVIÊT TĂT TRONG LUÂṆ ÁN
ASEAN
BTTVH&DL
CHDCND
CHXHCN
DSVH
DSVHVT
DTLS-VH
EFEO
Nxb
NCS
PVS
Sơ TTVH&DL
̉̉
TP
UBND
UNESCO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng chùa ở các quận, huyện tại thủ đô Viêng Chăn
Bảng 3.2: Địa điểm khách du lịch quan tâm tại thủ đô Viêng Chăn
Bảng 3.3: Thống kê khách thăm quan ở thủ đô Viêng Chăn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử đã để lại cho dân tộc Lào nhiều di sản văn hóa (DSVH)
quý giá, đó là nguồn tư liệu minh chứng sống động cho quá trình lao động
sáng tạo, chinh phục tự nhiên và chống giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài
dựng nước và giữ nước. Vì vậy, di sản văn hoá là tài sản vô giá của dân tộc,
trở thành bộ phận quan trọng hợp thành nền văn hoá Lào ngày nay.
Hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa (DTLS-VH), danh lam thắng
cảnh ở Lào vô cùng phong phú, với hàng ngàn chùa, tháp, tượng, di vật, cảnh
quan thiên nhiên ở khắp nơi trên đất nước. Nhiều di tích, cảnh quan được
nhắc đến như một niềm tự hào dân tộc, đó là tháp Thạt Luổng (thủ đô Viêng
Chăn), chùa Phu Chăm Pạ Sắc (Di sản thế giới năm 2002 tỉnh Chăm Pạ Sắc),
thành phố (TP) cố đô Luổng Pha ̣ Bàng (Di sản văn hóa thế giới năm 1995),
chùa Xiêng Thoỏng (tỉnh Luổng Phạ Bàng), chùa Xỉ Mường (thủ đô Viêng
Chăn), Hỏ Phạ Kẹo (thủ đô Viêng Chăn), tháp Thạt In Hăng (tỉnh Xạ Vặn Nạ
Kệt), chùa Xi Xạ Kệt (thủ đô Viêng Chăn), tháp Phạ Thạt Xi Khốt Tạ Boỏng
(tỉnh Khăm Muộn), Cánh đồng Chum (Di sản thế giới năm 2019 tỉnh Xiêng
Khoảng), Thành cổ Viêng Chăn (thủ đô Viêng Chăn), Khu lịch sử cách mạng
Hang Viêng Xay (tỉnh Hủa Phăn)... Mỗi di tích là một viên ngọc quý được kết
tinh từ khối óc bàn tay tài hoa của cha ông và sự ưu ái mà thiên nhiên ban
tặng, hình thành nên những giá trị văn hóa thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt
bao thế hệ, tạo nên bản sắc văn hoá riêng của dân tộc Lào. Tuy nhiên, trước
tác động của thời gian, thiên tai, chiến tranh, các di sản văn hoá đang đứng
trước nguy cơ bị huỷ hoại, không ít những DTLS-VH đã trở thành phế tích
hay bị xâm chiếm và xuống cấp nghiêm trọng.
1.2. Viêng Chăn là thủ đô của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, là
địa danh có rất nhiều di tích lịch sử với hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Nền văn
2
hóa lâu đời của dân tộc Lào được xác định thông qua những di chỉ còn sót lại
được tìm thấy ở nhiều điểm khảo cổ học trên khắp đất nước, đặc biệt là ở thủ
đô Viêng Chăn. Những hiện vật được tìm thấy đó đã nói lên phần nào về quá
trình lịch sử từ xa xưa của dân tộc. Viêng Chăn được biết đến là thành phố
bên bờ sông Mê Kông và sông Nạm Ngừm, nơi có nhiều dấu ấn lịch sử, địa
danh được thiên nhiên ưu đãi, tạo hoá ban tặng cho những danh thắng, cảnh
quan nổi tiếng như khu danh lam thắng cảnh Thạ Ngon (huyện Xay Tha Ny),
khu núi Phu Kao Khuay (huyện Pác Ngừm),...
1.3. Trong thời kỳ đổi mới, Viêng Chăn được xác định là đô thị lớn nhất
cả nước, là trung tâm công nghiệp, là một trong những thành phố cấu thành nên
vành đai kinh tế quan trọng, là địa phương đi đầu trong công cuộc đổi mới đất
nước và phát triển đô thị hóa với tốc độ nhanh chóng. Trước bối cảnh đó, di sản
văn hóa vâṭthể (DSVHVT) của Viêng Chăn có một vai trò và ý nghĩa hết sức
quan trọng, không chỉ là bảo lưu các giá trị truyền thống mà còn là cơ sở để tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. DSVHVT (DSVHVT) ở thủ đô Viêng Chăn từ
lâu đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước
và đã có những thành tựu đóng góp vào giới thiệu, quảng bá văn hóa Lào.
Tuy nhiên cho tới nay, chưa có công trình nghiên cứu một cách hệ
thống và chuyên biệt về DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn dưới góc nhìn của
chuyên ngành Văn hóa học. Vì vậy, với tư cách là một người hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa, có sự quan tâm đặc biệt và nghiên cứu về vấn đề di sản,
NCS đã lựa chọn đề tài "Di sản văn hoá vật thể ở thủ đô Viêng Chăn, nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay" làm luận án Tiến sĩ, chuyên
ngành Văn hóa học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về DSVHVT ở
thủ đô Viêng Chăn hiện nay, góp phần vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị
của hệ thống di sản này trong phát triển của thủ đô.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan và chỉ rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn mà luận án tiếp tục nghiên cứu.
+
Khảo sát, đánh giá thực trạng giá trị DSVHVT ở thủ đô Viêng
Chăn.
+
Tìm hiểu các yếu tố tác động, các vấn đề đặt ra và khuyến nghị
các
giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của DSVHVT tại thủ đô Viêng Chăn
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống DSVHVT tiêu biểu có tính đại
diện ở thủ đô Viêng Chăn đã được đề cập trong Luật di sản Quốc gia năm
2005, sửa đổi năm 2013 của nước CHDCND Lào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về các đặc điểm và giá trị
của DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn.
Về không gian: Luận án khảo sát di tích tiêu biểu tại thủ đô Viêng
Chăn.
Về thời gian: Luận án tập trung từ thời kỳ đổi mới năm 1986
đến nay.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được chọn để sử dụng trong suốt quá
trình nghiên cứu của luận án gồm:
-
Phương pháp điền dã (quan sát, tham dự ): Khảo sát thực trạng của
DSVHVT tại thủ đô Viêng Chăn, các hoạt động văn hóa xã hội để thu thập
những dữ liệu, thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu bằng nhiều các
phương thức quan sát, chụp ảnh, ghi chép, tra cứu tài liệu...
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp các chuyên
gia,
phỏng vấn những người đã và đang sinh sống trong khu vực tồn tại của di sản
về DSVH. Từ kết quả phỏng vấn sâu sẽ hình thành cơ sở cho các nhận định
4
về thực trạng của di sản trên nhiều phương diện liên quan như: cách thức sử
dụng, các hoạt động, sinh hoạt văn hóa, lĩnh vực quản lý và bảo tồn….
Phương pháp thông kê/sưu tầm: Thu thập, tổng hợp số
lượng
DSVHVT, các loại hình DSVHVT hiện có tại thủ đô Viêng Chăn.
-
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích các tài liệu, thông tin và dữ
liệu có liên quan tới nội dung nghiên cứu của luận án và lấy đó làm cơ sở phân loại
DSVHVT, xây dựng tiêu chí đánh giá, xác định đặc điểm và giá trị DSVHVT.
-
Phương pháp so sánh - đôi chiếu: So sánh các sự vật được nghiên cứu
trong những quan hệ, hệ thống nhất định để chỉ ra những điểm giống và khác
nhau của đối tượng nghiên cứu.
5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
-
Luận án khẳng định những giá trị DSVHVT tại thủ đô Viêng Chăn
trên cơ sở đánh giá giá trị tiềm năng DSVH thích ứng. Từ nội dung nghiên
cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản, luận án không chỉ dừng ở
DSVHVT tiêu biểu trong lịch sử, mà còn mở rộng nghiên cứu một cách hệ
thống về toàn bộ DSVHVT trong thủ đô Viêng Chăn
Luận án hệ thống hóa các tiêu chí đánh giá tiềm năng
DSVHVT
trong cấu trúc tổng thể các DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn.
-
Từ kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất các nhóm giải pháp về bảo
tồn và phát huy giá trị DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn theo hướng phát triển
hiện nay cũng như thích ứng với quá trình hiện đại hóa trong chiến lược phát
triển của thủ đô Viêng Chăn, nước CHDCND Lào.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
khả
Luận án cung cấp các cứ liệu khoa học và kết quả nghiên cứu
tín cho các công trình khoa học liên quan đến các DSVHVT có quy mô nhỏ
và trung bình ở thủ đô Viêng Chăn, nước CHDCND Lào..
5
-
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp căn cứ giúp cho
các nhà quản lý, các chuyên gia có phương hướng hoạch định được chiến lược
tổ chức bảo tồn và phát huy giá trị DSVHVT tại các thành phố của Lào theo
các yếu tố và điều kiện tương đồng.
-
Luận án góp phần bổ sung cơ sở pháp lý về bảo tồn và phát huy giá trị
DSVHVT để nâng cao hiệu quả cho công tác quản lý di sản tại thủ đô Viêng
Chăn theo định hướng phát triển hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp mới về phương diện khoa học
-
Luận án xây dựng cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu mới
(xây dựng hệ thống lý luận và xác định giá trị DSVH) trong nghiên cứu về
bảo tồn và phát huy giá trị DSVHVT theo hướng phát triển hiện nay.
-
Luận án xây dựng các tiêu chí để xác định các giá trị tiềm năng của
DSVHVT trong phát triển thủ đô Viêng Chăn hiện nay
6.2. Đóng góp mới về phương diện thực tiễn
-
Luận án khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa truyền thống và hiện đại
trong bản sắc văn hóa dân tộc Lào qua các đặc trưng cũng như các giá trị văn
hóa của DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn.
-
Luận án tổng hợp số liệu và thông tin quan trọng về DSVHVT để xác
lập quỹ DSVHVT tại thủ đô Viêng Chăn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
luận án được triển khai trong bốn chương :
Chương 1: Tổng quan tinh̀ hiǹ h nghiên cứu vàcơ sở lýluận về di sản văn hóa
vâṭthể
Chương 2: Khái quát hiện trạng di sản văn hóa vâṭthểởthủđô Viêng Chăn
Chương 3: Đăc ̣ điểm vàgiátri c ̣ủa di sản văn hóa vâṭthểởthủđô Viêng Chăn
Chương 4: Bàn luận về di sản văn hóa vâṭthểởthủđô Viêng Chăn hiêṇ nay.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUÂṆ
VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
̉̉
̀
̀
́
1.1. TÔNG QUAN TINH HINH NGHIÊN CƯU
Khi nhận diện về thực trạng nghiên cứu về DSVHVT ở Lào nói chung,
thủ đô Viêng Chăn nói riêng hiện nay, có thể thấy một thực tế là các nguồn tài
liệu mang tính toàn diện hệ thống về DSVHVT, về bảo tồn và phát huy giá trị
các di tích lịch sử - văn hoá vâṭthểkhông có nhiều. Nghiên cứu về DSVHVT
ở thủ đô Viêng Chăn nói riêng, ở Lào nói chung, vẫn đang là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Trong số ít ỏi các tài liệu liên quan tìm thấy được, có thể tổng
hợp khái quát về tình hình nghiên cứu DSVHVT ở thủ đô Viêng Chăn ở
những phương diện sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về di sản văn hóa vật thể ở Lào
Năm 1940, Paul Levy đã so sánh những tượng Phật được tìm thấy ở
chùa Săng Kra Lộc và chùa Thạt Luổng Pha ̣Bàng mang một số đặc trưng của
tượng Phật tìm thấy ởLôḅ Bu Ly vàPi Mai (Thái Lan). Qua đó, Paul Levy đã
so sánh giữa tượng Phật của Lào và Thái Lan về hình dáng , phong cách nghệ
thuật hoạc tiết trang trí gần nhau.
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, xuất hiện công trình nghiên cứu về
nghệ thuật Lào: “Introduction à l'Art Laotien” (Giới thiệu về nghệ thuật Lào),
Paris (1954) của Gendron và Parmentier. Hai học giả này đã đi đến một công
trình nghiên cứu rất công phu về nghệ thuật Lào. Trong công trình nghiên
cứu, Gendron và Parmentier đã tiến hành khảo sát toàn bộ các lĩnh vực của
kiến trúc tôn giáo và nghệ thuật tạo hình Lào như các chùa tháp, tượng Phật
và điêu khắc trang trí kiến trúc. Về trang trí, công trình nói trên đã phân tích
chủ yếu các mô típ trang trí của nghệ thuật Lào như: ở đầu hồi, cánh cửa.
7
Trong các mô típ trang trí, hoa lá là những yếu tố quan trọng nhất làm nổi bật
giá trị thẩm mỹ.
Năm 1952, trên cơ sở những công trình khảo cổ học, Henry Devdier và
G. Condominas đã khẳng định đạo Phật ở Lào xuất hiện từ thế kỷ XII. Còn
George Coedes cho rằng Phật giáo đã có mặt ở Lào từ đầu thế kỷ XIII do
người Mon-Khơme mang từ miền La ̣Vô (hạ lưu sông Mê Kông) đến với tộc
người Lạ va ở vùng thượng lưu sông Mê Kông.
Năm 1981, Nguyễn Văn Vinh có bài viết “Ngôi chùa với người Lào”
[55]. Tác giả đã đề cập những điểm chủ yếu nhất của ngôi chùa Lào, đặc biệt
là vị trí quan trọng của chùa tháp trong đời sống hàng ngày của nhân dân các
bộ tộc Lào. Ngô Huy Quỳnh viết bài “Kiến trúc Lào”đi từ nhận diện kiến trúc
dân gian, kiến trúc tôn giáo đến khái quát về kiến trúc Lào. Cũng năm đó,
Trần Thị Lý có hai bài viết “Tượng Phật Lào” và “Điêu khắc tượng tròn Đông
Nam Á” đăng trên Tạp chí Nghệ thuật Đông Nam Á, trình bày những nét
chung nhất về tượng Phật Lào trong lịch sử.
Năm 1985, Ngô Văn Doanh [19] đã có những nghiên cứu về nghệ thuật
Lào bao gồm kiến trúc, điêu khắc và ca múa nhạc kịch. Ngoài bài viết riêng
về kiến trúc và điêu khắc Lào, Ngô Văn Doanh còn trình bày về các nghệ
thuật trong khu vực trong số bài viết về nghệ thuật Đông Nam Á. Theo đó,
Ngô Văn Doanh trong cuốn “Nghệ thuật Đông Nam Á”, đã mô tả rất rõ ràng
về các ngả đường Phật giáo vào Lào vào thế kỷ XIV, đạo Phật đã được vua
Phạ Ngừm đưa lên địa vị quốc giáo và phát huy ảnh hưởng to lớn tới mọi lĩnh
vực của đời sống chính trị, văn hoá và xã hội Lào. Điều này lý giải vì sao hệ
thống chùa phát triển mạnh trong giai đoạn này với những đặc trưng về kiến
trúc nghệ thuật.
Năm 1995, sách “Lịch sử nghệ thuật và kiến trúc Lào” [77] của
Bounheng Buasisengpaseuth, giới thiệu những di tích Phật giáo chủ yếu là các
ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XIV đến nay, trong đó có các công trình
8
tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn. Đồng thời, Bounheng Buasisengpaseuth còn
giới thiệu một số di tích khảo cổ đã phát hiện và khẳng định được niên đại của
di tích cùng các hiện vật cổ đó. Có thể nói, công trình của Bounheng
Buasisengpaseuth là rất có giá trị khi nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc trong kho tàng DSVHVT Lào.
Trong những bài viết in tại kỷyếu Hội thảo bảo tồn di sản cùng với kỹ
thuật và lịch sử Lào”, do Bộ Thông tin và Văn hóa phối hợp với Viện nghiên
cứu Viễn Đông của Pháp (EFEO) tổ chức tháng 2 năm 1996 tại thủ đô Viêng
Chăn, “ [64], có công trình của Francis Bizot (EFEO) nhan đề “Bảo vê ̣ di
sản”. Công trình này nghiên cứu bảo tồn di sản quốc gia với những tác động
từ khách du lịch. Các DSVH đã tham gia vào quá trình phát triển nhưng cũng
có nhiều vấn đề mới nảy sinh như: doanh nhân nước ngoài quá chú trọng đến
lợi ích cá nhân, không quan tâm tới lợi ích chung; DSVH dễ bị xâm hại…
Ngoài những vấn đề về bảo tồn di sản, Francis Bizot nhấn mạnh vai trò quan
trọng của việc bảo tồn di sản. Để các di sản thực sự phát huy vai trò quan
trọng đó, là ngoài vai trò định hướng của Nhà nước cần phải có sự nhận thức,
suy nghĩ và chung tay hành động của cả cộng đồng. Cũng trong tài liệu này,
Pierre Pichard là kiến trúc sư của (EFEO) từ Ấn Độ viết bài “Trùng tu”. Bài
viết cho chúng ta nhiều kinh nghiềm về việc bảo vệ kiến trúc cổ được làm từ
chất liệu đá, đất nung, gỗ của Châu Á. Trong đó, tác giả cũng trình bày rất kỹ
về DSVH của từng nước ở châu Á trong tâm thức của con người qua cách
nhìn mô phỏng. Đặc biệt, bài viết nhấn mạnh đến các công nghệ xử lý vật liệu
và cách thức sử dụng các công cụ để xây dựng nên các di sản. Đây là những
yếu tố quan trọng của DSVH cần phải bảo tồn, giữ gìn. Trong đó Bounthieng
Silipraphan nêu lên “Ý kiến chung về nghê ̣thuâṭcủa Lào vàtrang trí điểm đặc
biệt” in trong kỷyếu Hội thảo "Bảo tồn di sản cùng với kỹ thuật và lịch sử
Lào" [64]. Bounthieng Silipraphan đa ̃ trinh̀ bày những ýkiến chung vềnghệ
thuật trang trí Lào vànhững đặc trưng của các bộ môn nghệ thuật này. Trong
9
đó, Bounthieng Silipraphan chỉ ra một số nguyên nhân làm mất mát vàbiến
dạng các di tić h. Ngoài ra, Bounthieng Silipraphan còn giới thiệu về đặc trưng
và phong cách nghệ thuật các miền của Lào như: phong cách của nghệ thuật
tỉnh Luổng Phạ Bàng, giơí thiệu các hoa văn, phong cách được thể hiện tại
ngôi chùa và ngọn tháp, đồng thời cách vẽ hoa văn để tạo nên tác phẩm nghệ
thuật có giá trị về văn hóa.
Francis Engelmanh trong công trình “Tổ chức bảo vệ di sản trong khu
vực” đã trình bày những vấn đề chung của việc bảo vệ di sản dựa vào khái
niệm cơ bản về di sản, đưa ra những yếu tố để bảo vệ di sản, trong đó có yếu
tố luật pháp, cơ sở hạ tầng, quy trình quản lý. Để bảo vệ di sản, cần đảm bảo
tính thống nhất trong nghiên cứu, chính sách và truyền thông đại chúng. Qua
đó, người dân hiểu và có thái độ hợp tác, hành động phù hợp trong bảo vệ di
sản. M. Cristoper Pottier, một kiến trúc sư của EFEO Ăng Co (Campuchia) đã
viết bài “Tái thiết và trùng tu” bàn về các thành phần, cách trùng tu và tái thiết
một công trình, một DSVH. Sự khác biệt của tái thiết với trùng tu biểu hiện ở
cách làm việc, quy mô, tần số, cấu trúc, chất lượng và giá trị. Lựa chọn trùng
tu hay tái thiết phải dựa trên hiện trạng của di sản các dấu vết licḥ sử vàcác
nền văn minh khác nhau.
Năm 1997, Patrick Gay với công trình “Lanxang Heritages of Lao
PDR” (Di sản quý giá của nước Lào) [107] đã giới thiệu về các bộ trang phục
cổ truyền, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc Lào. Ngoài ra, tác giả đề cập
đến các DTLS-VH tiêu biểu của Lào.
Năm 1997, Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiệu Hương [49] đã viết bài
nói về phương pháp tạo hình và phong cách mỹ thuật Châu Á, kiến trúc tháp
(Stupa). Ngoài ra, các tác giả cũng mô tả kỹ về nghệ thuật trang trí kiến trúc
Phật giáo và nghệ thuật làm tượng của Lào.
Năm 1998, Phạm Đức Dương với “Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối
10
cảnh Đông Nam Á” [8] đã hình thành một cách nhìn mới về văn hoá Lào. Tác
giả đã đưa văn hóa Lào vào bối cảnh Đông Nam Á, định vị văn hóa Lào là
văn hóa của cư dân làm lúa nước vùng thung lũng trước núi. Công trình đã
làm rõ hơn về các trang trí nghệ thuật trên DSVHVT ở Viêng Chăn, lý giải
sâu sắc hơn các hiện tượng văn hóa được biểu hiện trong hệ thống DSVHVT
ở đây. Đặc biệt công trình cho thấy cơ sở hình thành nên phong cách đặc
trưng của các DSVHVT ở Viêng Chăn.
Năm 2001, Madelàine Giteau trong công trình “Arts et Archeologie du
Laos” (Nghệ thuật và khảo cổ học Lào) [100] viết bằng tiếng Pháp đã nghiên
cứu về tượng Phật ở Lào. Mặc dù công trình chỉ tập trung khảo sát những pho
tượng thuộc bộ sưu tập của Hoàng gia Lào nhưng đã dựng lên một hệ thống
có trật tự niên đại khá chặt chẽ của các pho tượng và phân tích những đặc
điểm thẩm mỹ của chúng.
Năm 2002, ngoài những nhà nghiên cứu phương Tây và nhà nghiên cứu
Việt Nam, các học giả Thái Lan cũng nghiên cứu về di tich ́ licḥ sử văn hóa ở
Lào. Nổi bật là Somkiart Lophetsarat nghiên cứu “Lao Buddha: the image and
its history” (Lịch sử xây dựng hình tượng Phật Lạn xạng) [121], và Sangoan
Lotboun “Mỹ thuật Phật giáo Lào” [120]. Các công trình này đã phác họa
hình tượng phật ở Lào với nhũng đặc trưng rất riêng, khẳng định những giá trị
quý báu mà nhân dân Lào cần phải giữ gìn, phát huy.
Năm 2006, cơ quan Du lịch Quốc gia, Cục Tư vấn văn hóa châu Á Thái Bình Dương phối hợp với UNESCO Bangkok xuất bản tác phẩm “Du
lịch và Quản lý di sản ở Luổng Phạ Bàng, di sản thế giới CHDCND Lào” Đây
là công trình nghiên cứu tác động của du lịch đến DSVH và môi trường ở
Luổng Phạ Bàng, giới thiệu về DSVH, tự nhiên của Luổng Phạ Bàng trong
lịch sử bao gồm: các lễ hội truyền thống, nghệ thuật thủ công truyền thống,
nghệ thuật ẩm thực, qua đó chứng minh rằng:
11
Di sản văn hóa sẽ được bảo vệ tốt khi cộng đồng hiểu và nhận ra giá
trị của những di sản đó, nếu các công trình sinh thái không có giá trị
liên quan đến sinh kế của người dân thì rất khó để thúc đẩy họ nghĩ
về chúng như những biện pháp bảo vệ [93, tr.18].
Năm 2007, công trình “Những giá tri ̣văn hoá nghệ thuật của chùa Xiêng
Thoỏng ở Cố đô Luổng Pha ̣Bàng” của Champhon Vongsa [5], đã nghiên cứu
về một ngôi chùa ở cố đô Luổng Phạ Bàng. Champhon Vongsa đã phân tích
khá kỹ và toàn diện các giá trị văn hoá (vật thể và phi vật thể) của ngôi chùa.
Ngoại ra, công trình cũng giới thiệu khái quát về sự du nhập Phật giáo đến
Luổng Pha ̣Bàng, xác định những yếu tố cơ bản nhất để thấy được vai trò của
ngôi chùa trong đời sống xã hội Lào, đi sâu nghiên cứu đặc trưng nghệ thuật
kiến trúc chùa Xiêng Thoỏng, so sánh bô ̣mái của ngôi chùa này với các chùa
khác ở Luổng Pha ̣Bàng để thấy sự khác biệt. Đặc biệt, đã phân tích kỹ nghệ
thuật hội hoạ và điêu khắc tiêu biểu của Xỉm (Phật điện). Cuối cùng,
Champhon Vongsa đã để xuất những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá qua nghệ thuật kiến trúc của ngôi chùa trong bối cảnh đất nước mở
cửa và phát triển du lịch. Mặc dù chùa Xiểng Thoỏng không ở Viêng Chăn,
nhưng đây là tư liệu có thể giúp cho việc so sánh về đặc điểm và giátri c ̣hùa
Xiểng Thoỏng với chùa ở Viêng Chăn.
Năm 2009, Arne Kislenko “Culture and Customs of Laos” (Văn hóa và
Phong tuc,̣ của Lào) [100], công trình này đã giới thiệu về vùng đất và con
người của quốc gia Lào bao gồm lịch sử ngắn gọn và tổng quan về nền kinh tế.
Tiếp theo là các chương liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau, tạo nên một
bức tranh toàn cảnh về văn hóa bao hàm cả tư tưởng, tôn giáo, dân tộc học,
văn học, các loại hình nghệ thuật, kiến trúc và nhà ở, ẩm thực, trang phục
truyền thống, giới tính, tình yêu và hôn nhân, lễ hội và các hoạt động giải trí,
âm nhạc và khiêu vũ, lối sống. Trong chương 6: Kiến trúc và thiết kế: lịch sử
kiến trúc và kiến trúc truyền thống, Arne Kislenko nhấn mạnh: “Kiến trúc
12
truyền thống ở Lào phản ánh chủ yếu các ảnh hưởng từ: Ấn Độ, Khơme, Miến
Điện, Thái Lan và Trung Quốc. Thật không may, phần lớn các di sản cổ xưa
của đất nước đã bị mất trong nhiều thế kỷ do chiến tranh và bỏ bê, nhưng vẫn
có những địa điểm minh họa cho vẻhùng vi t ̃ rong quá khứ của nó. Đặc biệt,
Lào có một loạt các ngôi chùa Phật giáo được xem là thú vị và quan trọng
nhất trong số những công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng trên thế giới” [100,
tr. 95].
́
Năm 2009, Nguyễn Lệ Thi ra mắt cuốn sách “Nghệ thuật  n Độ giáo
và Phật giáo Lào” [48]. Trong công trình này, ở phần viết về chùa tháp Phật
giáo, tác giả đã đưa ra những phong cách nghệ thuật đặc trưng các thời kỳ của
nghệ thuật Phật giáo Lào đó là các phong cách: Viêng Chăn, Viêng Khăm,
Luổng Phạ Bàng, Chăm Pạ Sắc và Xiêng Khoảng. Mỗi phong cách đều có
những điểm riêng nhưng vẫn mang tính thống nhất của nghệ thuật Phật giáo
Lào. Các phong cách này đều xuất hiện trong chùa ở Viêng Chăn.
Năm 2011, Phadone Insaveang đã viết bài “Di sản văn hóa cố đô Luổng
Phạ Bàng với việc phát triển du lịch” [25]. Dưới góc nhìn Văn hóa học,
Phadone Insaveang nghiên cứu các DSVH cố đô Luổng Pha ̣Bàng nhằm khai
thác những giá trị của nó để phục vụ cho du lịch một cách khoa học và hiệu
quả. Trong công trình này tác giả đã nghiên cứu các DSVHVT và phi vật thể
ở Luổng Pha ̣ Bàng, đi sâu phân tích các công trình kiến trúc có giá trị nghệ
thuật đặc sắc như kiến trúc chùa tháp Phật giáo, đặc điểm chung về kiến trúc
chùa ở Luổng Phạ Bàng, kiến trúc tháp tiêu biểu, nghệ thuật điêu khắc tượng
Phật, kiến trúc kiểu Pháp, kiến trúc nhà cổ kiểu Lào…
Năm 2014, Siviêngsay Phomarath đã viết bài “Quản lý khu di sản văn
hóa chùa Phu Chăm Pạ Sắc, tỉnh Chăm Pạ Sắc, nước CHDCND Lào” [33].
Đây là công trình nghiên cứu khảo sát và đánh giá thực trạng công tác quản lý
khu DSVH chùa Phu, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý
khu DSVH thế giới chùa Phu ở tỉnh Chăm Pạ Sắc trong thời gian tới.
13
Năm 2019, Luâṇ án tiến si ̃ “Bảo tồn vàphát huy giátri ̣ di sản kiến trúc
khu phố Pháp taị thành phố Xạ Vặn Nạ Kệt CHDCND Lào” của
Khamphouphet Vanivong [15] đã kết hợp giữa bảo tồn và phát huy giá trị di
sản kiến trúc tại khu phốPháp ở thành phố Xạ Vặn Nạ Kệt theo hướng phát
triển bền vững, bao gồm: khẳng định giá trị tiềm năng di sản kiến trúc tại khu
phốPháp thành phố Xạ Vặn Nạ Kệt; đề xuất giải pháp bảo tồn thích ứng di sản
trên cơ sở khoa học và thực tiễn tại khu phố Pháp Xạ Vặn Nạ Kệt; phát huy
giá trị tiềm năng di sản kiến trúc và đô thị của khu phố Pháp Xạ Vặn Nạ Kệt
theo hướng phát triển bền vững. Tác giảluận án cho rằng, từ những tác động
trong quá trình phát triển từ khi kết thúc thời Pháp thuộc (1954) đến nay, số
lượng di sản kiến trúc thời Pháp thuộc có xu hướng suy giảm xuống, cảnh
quan môi trường và cấu trúc đô thị bị thay đổi. Tuy nhiên di sản kiến trúc của
thời Pháp thuộc cho thấy những sáng tạo về mặt nghệ thuật và khoa học kỹ
thuật, khẳng định dấu ấn văn hóa xã hội của một giai đoạn trong lịch sử hình
thành của TP Xạ Vặn Nạ Kệt. Khamphouphet Vanivong khẳng định: công tác
bảo tồn và phát huy giá trị di sản có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao niềm
tự hào của cộng đồng và là nguồn động lực cho sự phát triển và là quyền lợi
của mỗi người dân.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về di sản văn hóa vâṭthểởthủ đô
Viêng Chăn
Năm 1992, công trình khảo cổ góp phần làm sáng tỏ giá trị lịch sử - văn
hóa của các di sản như báo cáo khảo cổ của nhóm nghiên cứu của D. Hien, M.
Barbetti và Th. Sayavongkhamdy [102] về “An Excavation at Sisattanak Kiln
site, Vientiane, Lào PDR” (Một khai quật tại địa điểm huyện Sisattanak,
Viêng Chăn, Cộng hoà DCND Lào), Viện Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình
Dương, Đại học Sydney. Kết quả nghiên cứu của công trình nói trên đã góp
phần quan trọng khẳng định quá trình phát triển, biến đổi của Viêng Chăn.
Năm 1996, Francis Engelmann trong bài báo về “Symbol of Lao Nation:
14
The That Luong of Vientiane” (Biểu tượng của quôc gia Lào: That Luổng
Viêng Chăn) [102] đăng trên báo Vientiane Times Publications, Viêng Chăn
cũng khẳng định tháp Thạt Luổng là biểu tượng của Quốc gia Lào. Francis
Engelmann đã mô tả chi tiết kiến trúc, nghệ thuật tạo tác Thạt Luổng và qua
đó cho thấy nét tài hoa và tinh tế của người Lào xưa.
Năm 2002, Vilaithong Keomanivong [52] đã viết bài “Thạt Luổng - di
tích và lễ hội” là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về cả hai mặt giá trị
vật thể và phi vật thể của di tích này trong bối cảnh du nhập của đạo Phật ở
Lào và cụ thể hơn là thời kỳ đất nước Lạn Xạng chia thành các tiểu vương
quốc trong đó có tiểu vương quốc Viêng Chăn. Công trình này đã dành một
chương nói về những yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài (Ấn Độ, Thái Lan, Miến
Điện) đến việc Thạt Luổng được xây dựng vào lúc mà đất nước Lào cần thiết
phải có sự đoàn kết nhất trí để chống quân xâm lược. Đó chính là giá trị nghệ
thuật và tư tưởng của kiệt tác kiến trúc này. Mặc dù chịu ảnh hưởng của các
yếu tố bên ngoài, nhưng Thạt Luổng không giống bất kỳ một kiểu tháp Phật
giáo nào. Đó chính là biểu tượng của văn hóa dân tộc Lào. Qua tìm hiểu phần
lễ hội Thạt Luổng, Vilaithong Keomanivong khẳng định vai trò của ngôi chùa
trong đời sống văn hóa của người Lào. Vilaithong Keomanivong đã có phần
mô tả về kiến trúc, điêu khắc Thạt Luổng ở Viêng Chăn hết sức đặc sắc.
Năm 2003, Thongmy Duansakda với công trình “Vắt XỉXa ̣ Kêt: ̣ Nghệ
thuật kiến trúc và điêu Khắc” [41] với hai nội dung chính: Nội dung thứ nhất
nghiên cứu về đạo Phật và sự phát triển của chùa ở Lào, xác định vị trí, lịch sử
ra đời của Vắt XỉXa ̣ Kêṭ. Nội dung thứ hai nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc tượng và nghệ thuật tạo tác đồ thờ. Thongmy Duansakda giới thiệu
một số pho tượng Phật chính đặt ở trong không gian thờ tự vàviết về lễ hội ở
chùa XỉXa ̣ Kêt, ̣ đây là các giá trị trong đời sống văn hoá của cộng đồng cư
dân các bộ tộc Lào. Qua đó góp phần khẳng định thêm giá trị của nghệ
15
thuật tạo hình trong các ngôi chùa Lào ở thủ đô Viêng Chăn mà chùa XỉXa ̣
Kêṭlà một trong trường hợp tiêu biểu.
Năm 2003, Bunnam Phongbuapheuun [3] công trình “Mỹ thuật Phật
giáo Lào thế kỷ XVI-XVII ở thủ đô Viêng Chăn” đã dành một chương để viết
về mỹ thuật Phật giáo Lào. Chương này tập trung vào ba nội dung chính: kiến
trúc, nghệ thuật điêu khắc tượng tròn và nghệ thuật hội họa. Về kiến trúc Phật
giáo, đã nêu quá trình hình thành, đặc trưng kiến trúc chùa, các cụm kiến trúc
và chức năng của nó trong bố cục tổng thể ngôi chùa. Bên cạnh đó, giới thiệu
một số ngôi chùa tiêu biểu ở thủ đô Viêng Chăn, phân tích và nghiên cứu khá
kỹ về điêu khắc tượng Phật thế kỷ XVI-XVII, đã cũng phân tích những giai
đoạn về đặc điểm lịch sử xã hội ảnh hưởng đến nghệ thuật tạc tượng từ các
nghiên cứu ở các nước trong khu vực, đã có những nghiên cứu vượt trội và
sáng tạo. Bunnam Phongbuapheuun cũng dành một chương để đề xuất một số
giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa mỹ thuật Phật giáo Lào trong
thời đại hiện nay.
Năm 2005, Chayphet Sayarath hoàn thành công trình “Viêng Chăn, cái
nhìn của thành phố đang phát triển” [98]. Đây là một nghiên cứu về sự phát
triển của đô thị Viêng Chăn với các di sản kiến trúc và quy hoạch đô thị gắn
liền với lịch sử, sự phát triển của thủ đô Viêng Chăn qua phân tích lịch sử và
khảo cổ học, kiến trúc và thiết kế đô thị. Qua đó, các dấu vết trực tiếp cho
thấy nguồn gốc và sự biến đổi của thủ đô. Chayphet Sayarath cho rằng:
Trong giai đoạn 1960-1975, Viêng Chăn đã giữ lại một số hiện
trạng kiến trúc thuộc địa cũ trên đường phố, nhưng đồng thời, Viêng
Chăn cũng bước vào thời kỳ xây dựng mang những ảnh hưởng từ
văn hóa châu Âu, tạo ra những công trình kiến trúc thiếu tính tương
đồng phong cách trong qui hoạch đô thị [46, tr.15].
Năm 2006, Viêngphone Soukhavong [52] viết bài “Bảo tồn và phát huy