Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Xây dựng làng văn hóa ở huyện mỹ hào, tỉnh hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 79 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------

VŨ NHẬT LỆ

XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------

VŨ NHẬT LỆ

XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X


Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Lan. Các số liệu, tư liệu, tài liệu được
sử dụng trong khóa luận là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2019
Sinh viên

Vũ Nhật Lệ


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
toàn thể các thầy cô trong khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã tận tình giảng dạy em trong suốt quá trình học tập tại trường; em
cũng xin gửi lời cảm ơn tới tập thể K60A Triết học là những người bạn tốt
đông hành cùng nhau học tập, chia sẻ mọi thứ trong cuộc sống cùng em.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình em đã tạo điều kiện cho
em để em đạt được những thành quả như ngày hôm nay. Đặc biệt, em xin cảm
ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Thị Lan đã giúp em có thể
hoàn thành được khóa luận này.
Trong quá trình làm khóa luận, do nhận thức của bản thân còn hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
quý các thầy cô cùng các bạn để khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 06 tháng 06 năm 2019

Sinh viên

Vũ Nhật Lệ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA ... 9
1.1. Quan niệm về làng văn hóa ..................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm làng ................................................................................... 13
1.1.3. Phân biệt văn hóa làng và làng văn hóa ........................................... 16
1.2. Xây dựng làng văn hóa .......................................................................... 20
1.2.1. Quan điểm của Đảng và chính sách Nhà nước về xây dựng làng văn
hóa ở Việt Nam hiện nay .............................................................................. 20
1.2.2. Tiêu chuẩn của làng văn hóa ............................................................. 22
1.2.3. Nội dung của xây dựng làng văn hóa ................................................ 26
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 30
CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ HÀO,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ...... 31
2.1. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên
hiện nay .......................................................................................................... 31
2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội ở huyện Mỹ
Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay ....................................................................... 31
2.1.2. Thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên ...
......................................................................................................... 38
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ
Hào, tỉnh Hƣng Yên hiện nay....................................................................... 46


1


2.2.1. Phương hướng và nhiệm vụ xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hưng Yên hiện nay................................................................................ 47
2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ
Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay ....................................................................... 50
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 64

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với khoảng 2/3 dân cư sinh sống ở
khu vực nông thôn và 67,8% (năm 2018 số liệu theo Tổng cục thống kê) lực
lượng lao động của xã hội làm việc trong khu vực này. Sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế và ổn
định chính trị, xã hội của đất nước. Nhận thức được rõ vai trò, vị trí, tầm quan
trọng của nông thôn qua các thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta, khi đưa ra các
chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội đều đặt nơi đây là khu vực
trọng điểm và giàu tiềm năng để phát triển.
Các hình thức tồn tại của nông thôn Việt Nam được gọi là làng – xã
hay thị trấn, thị tứ nhưng nổi bật lên đó là làng xã – một hình thức được coi
là cơ bản và phổ biến nhất của xã hội nông thôn; là nơi tụ cư của cư dân nông
thôn. Vì vậy, cứ nhắc đến nông thôn thì hình ảnh đầu tiên chúng ta nhìn thấy

đó là một bức tranh làng – xã. Cùng với sự tồn tại của làng đó là văn hóa làng
- là sự kết tinh của cả một quá trình lịch sử dân tộc, nơi đây lưu giữ những giá
trị truyền thống vật thể và phi vật thể. Tìm hiểu về làng giúp chúng ta nhìn rõ
được bức tranh toàn cảnh của xã hội nông thôn.
Vì vậy, công cuộc xây dựng làng văn hóa chính là sự kế thừa và phát
triển những tinh hoa của làng - xã Việt Nam trong điều kiện mới phù hợp với
sự tiến bộ của văn hóa xã hội. Làng là cái nôi của văn hóa; là nơi kết thành
tinh hoa văn hóa và bản lĩnh văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế
lực xâm lược đô hộ. Tinh hoa ấy cần được phát huy mạnh mẽ và biến thành
động lực tinh thần cho công cuộc xây dựng làng văn hóa, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn, làm nền tảng cho việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đang dần phá vỡ những
giá trị văn hóa truyền thống, những bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh
kinh tế thị trường phát triển, lũy tre làng mất đi chức năng bảo vệ, dân chúng
3


không còn nơi bao bọc, tệ nạn, cướp bóc xảy ra khắp nơi, những quy chuẩn
của làng cũng bị phá vỡ. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến sự xáo
trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng với nhau; làm nảy sinh hàng
loạt vấn đề về ý thức đoàn kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội ở các vùng nông thôn.
Chính vì vậy, xây dựng làng văn hóa là nhằm mục đích bảo vệ và phát
huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa làng, từ đó phát huy những
tính tích cực của nó. Văn hóa làng vừa là kết quả hoạt động của những người
trong làng, đồng thời là môi trường, động lực làm cho từng thành viên trong
cộng đồng làng giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp tục tạo ra
những giá trị văn hóa mới. Khi đó, làng văn hóa mới thực sự khẳng định được
vai trò, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế thị trường, làm

tăng động lực phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay.
Mỹ Hào cũng như các địa phương khác trên địa bàn cả nước đã và đang
thực hiện có hiệu quả những chủ trương về xây dựng làng văn hóa của nhà
nước đề ra. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào đã được đông
đảo quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện hưởng ứng; phong trào cho đến
nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
còn bộc lộ những vướng mắc về hệ thống lý luận và thực tiễn. Xác định tầm
quan trọng và tính bức thiết của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, vì vậy
tôi chọn đề tài nghiên cứu đó là “Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hưng Yên hiện nay" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, nhằm nhận diện và
phân tích rõ hơn công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào hiện nay; từ đó,
đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào, Hưng Yên.
2. Tình hình nghiên cứu
Xây dựng làng văn hóa là một vấn đề nghiên cứu không mới, song nó
vẫn còn nhiều khía cạnh mà chúng ta cần phải xem xét và nghiên cứu. Nhiều
công trình nghiên cứu được công bố với các cách tiếp cận khác nhau về văn
hóa làng và xây dựng làng văn hóa như:

4


PGS. TS Nguyễn Thừa Hỷ với công trình “Nông thôn Việt Nam trong lịch
sử”, tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – xuất bản năm 1978. Ở công trình
này, tác giả đã dùng ngòi bút của mình để tái hiện lại lịch sử nông thôn nước ta
và phân tích rõ những cơ cấu tổ chức ở một số làng Việt Nam truyền thống.
GS. Phan Đại Doãn đã đưa ra công trình nghiên cứu “Mấy vấn đề về
làng” và được đăng tải trên Tạp chí Dân tộc học, số 2/1991. Tác giả đã nêu
bật lên được những vấn đề đặc trưng cơ bản của làng Việt Nam truyền thống,
trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là những đặc trưng chi phối mọi sinh
hoạt của làng xã vùng đó.

PGS.Vũ Ngọc Khánh với công trình nghiên cứu là “Làng văn hóa cổ
truyền Việt Nam”, do Nhà xuất bản Văn học được xuất bản năm 2001. Trong
công trình này tác giả nghiên cứu về thiết chế “Làng văn hóa” ở các khía cạnh
nguồn gốc, sự ra đời, những nét văn hóa đặc trưng, phong tục, tín ngưỡng, tôn
giáo, nghề truyền thống, con người.
GS. Phan Đại Doãn với công trình “Làng xã Việt Nam - một số vấn đề
kinh tế - xã hội”, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản tháng 4/2010.
Tác giả cho rằng, trong giai đoạn mà làng quê phải gặp nhiều thử thách quyết
liệt: truyền thống với đổi mới, dân tộc với hiện đại, quốc gia với quốc tế.
Làng vốn là cơ sở của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, của phong kiến, tất
nhiên phải đổi mới, phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng đồng thời, lại
phải giữ được bản sắc và truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc. Hiện
đại hóa, đô thị hóa là quy luật tất yếu của phát triển, làng quê sẽ bị thu hẹp lại,
nhưng chính nó sẽ là điểm xuất phát của đô thị hóa. Muốn thế, phải hiểu cụ
thể bản chất của làng Việt.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình khoa học như: “Sự biến đổi của
làng xã Việt Nam ngày nay” của Tô Duy Hợp – do Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, xuất bản năm 2000; “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” của tập thể
tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, xuất bản năm 2001; “Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở
đồng bằng sông Hồng” của Tô Duy Hợp (chủ biên) - do Nhà xuất bản Khoa
5


học xã hội, xuất bản năm 2000; “Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam” của Toan
Ánh – do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1992.
Trên đây là một số các công trình tiêu biểu có liên quan đến vấn đề văn
hóa làng và xây dựng làng văn hóa, các tác giả đã tập trung bàn về văn hóa
tinh thần và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả cũng có đề cập đến hội
làng, nếp sống, phong tục, tôn giáo, sân khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật

dân gian. Một số công trình không những có ý kiến nhận xét về di sản của
làng xã, về các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những điểm tích
cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá trình xây dựng.
Có thể nhận thấy mặc dù có rất nhiều tác giả và nhiều sách viết về vị
trí, vai trò của văn hóa, làng, văn hóa làng, làng văn hóa; song, đối với huyện
Mỹ Hào những vấn đề về xây dựng làng văn hóa đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào cụ thể giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề giữa lý luận
và thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về xây dựng làng văn hóa, khóa luận
phân tích thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào hiện nay, từ đó
đề xuất những phương hướng và giải pháp xây dựng làng văn hóa ở huyện
Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, khóa luận thực hiện những nhiệm
vụ sau:
- Xác định rõ khái niệm về văn hóa và làng; phân biệt được làng văn
hóa và văn hóa làng; những nội dung trong xây dựng làng văn hóa để làm cơ
sở lý luận chung cho toàn bộ khóa luận.
- Phân tích thực trạng xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào hiện nay, đề
xuất các phương hướng và giải pháp xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào.
4. Cơ sở lý luận

6


Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa và quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam, các chính sách

pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về văn hóa,
làng và xây dựng làng văn hóa.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp,
khóa luận chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về làng văn hóa;
đồng thời, đi phân tích thực trạng việc xây dựng làng văn hóa trên địa bàn
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay. Kết hợp đưa ra những phương
hướng, giải pháp cụ thể về việc đẩy mạnh xây dựng làng văn hóa ở Mỹ Hào
hiện nay. Thời gian khảo sát ở 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ 1996 – 2015
là thời gian Mỹ Hào bắt tay vào xây dựng và hoàn thành phong trào xây dựng
làng văn hóa với 100% làng được công nhận danh hiệu “làng văn hóa” lần
đầu; giai đoạn thứ hai từ 2015 đến 2018 – đây là mốc thời gian từ sau khi
hoàn thành phong trào và tính đến thời gian hiện tại, các hoạt động rà soát,
thẩm định theo mốc 3 năm 1 lần đề duy trì “làng văn hóa” phù hợp với tình
hình hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu
như: phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp quy nạp - diễn dịch,
phương pháp nghiên cứu văn bản và dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn khách quan.
7. Ý nghĩa của khóa luận
- Khóa luận góp phần hệ thống hóa lý luận chung về văn hóa làng và
xây dựng làng văn hóa.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa và xây dựng làng văn hóa.
7



8. Kết cấu của khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Khóa luận gồm có 2 chương và 4 tiết :
Chương 1. Lý luận chung về xây dựng làng văn hóa.
Chương 2. Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên
hiện nay – Thực trạng và giải pháp.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA
1.1. Quan niệm về làng văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Từ khi con người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện; nó là sản phẩm
của con người và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong xã hội loài
người. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, bởi vì văn hóa tồn tại và
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của con người. Trong đời
sống thường ngày thì văn hóa được hiểu đó là văn học, nghệ thuật. Bên cạnh
đó, văn hóa cũng tồn tại cả trong ẩm thực, trang phục, cách ứng xử và đức
tin,…Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, văn hóa được tách ra thành một mảng độc
lập và được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên
cứu thuộc lĩnh vực triết học lúc bấy giờ.
Xã hội loài người càng phát triển, con người ta càng đề cao những giá
trị văn hóa, nhất là những văn hóa có liên quan đến cộng đồng. Văn hóa giúp
con người phát triển văn minh hơn, làm thay đổi nhận thức của loài người
trong những hướng tiếp cận mới của xu hướng khoa học công nghệ. Văn hóa
đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Ở phương Đông,

từ “văn hóa” đã xuất hiện từ rất sớm, đó là ở trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ
văn và hóa nhằm mục đích là xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ. Ở phương Tây: người Anh và người Pháp có từ culture, người Đức
có từ kultur, người Nga thì có từ kultura; tất cả những chữ này đều có chung
nguồn gốc Latinh từ chữ “cultus animi” mang nghĩa là nuôi dưỡng tinh thần là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn và trí tuệ con người. Từ đây chúng ta có
thể hiểu rằng, văn hóa luôn gắn liền với quá trình mà con người sáng tạo ra
sản phẩm vật chất và tinh thần; gắn liền với quá trình giáo dục và đào tạo con
người. Năm 1952, hai nhà Nhân học văn hóa người Mỹ đó là A.Kroeber và
C.Kluckhohn – họ đã tổng hợp và thống kê lại là có khoảng 150 định nghĩa
9


khác nhau được đưa ra về “Văn hóa”; nhưng hầu hết các tác giả cho rằng văn
hóa là lối sống, là cách ứng xử mà con người học tập được trong suốt quá
trình từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành. Như vậy ta có thể thấy, quan
niệm phương Tây về văn hóa là một sản phẩm của con người tạo ra; nó gắn
liền với quá trình con người tạo ra vật chất và tinh thần dưới bàn tay lao động.
Mác và Ăngghen đã nghiên cứu và dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; cho rằng bản chất văn hóa được
thể hiện trong chính mối quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, con
người với con người. C.Mác cũng chỉ ra nguồn gốc của văn hóa gắn bó mật
thiết với năng lực sáng tạo của con người và nó bắt nguồn từ lao động của con
người. C.Mác coi “văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt
động lao động sáng tạo của con người” [10, tr.42]. Ông coi việc con người
sáng tạo ra giới tự nhiên là tác phẩm của con người, là thực tại của con người;
bằng cách nào đó con người cải biến, nhân hóa thế giới đó với ý nghĩa con
người chính là văn hóa tồn tại trong đó. C.Mác đã đồng nhất văn hóa với
phương thức hoạt động sống của con người, đó là phương thức mà con người
sử dụng cách sáng tạo của chính mình để biến đổi, cải tạo giới tự nhiên theo
quy tắc cái đẹp của con người tự đề ra. Theo C.Mác, hoạt động lao động của

con người không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn những nhu cầu sinh lý thường
ngày, mà nó còn được kết tinh trong cả lối sống, phương thức sống, tính cách,
trí tuệ của con người; nó được biểu hiện ra bên ngoài bằng chính các sản
phẩm vật thể và phi vật thể; được tích lũy lại trong quá trình thực tiễn lịch sử
- xã hội. Con người là thước đo của mọi giá trị, còn văn hóa là thước đo tính
cách, sự sáng tạo của giá trị đó. Bên cạnh đó, Ăngghen cho rằng: “Mỗi bước
tiến trên con đường văn hóa là một bước tiến tự do” [10, tr.146]. Như vậy,
C.Mác và Ăngghen đã thừa nhận văn hóa đó chính là một giá trị - giá trị đó bị
chi phối bởi những điều kiện lịch sử. Sau những luận điểm của C.Mác và
Ăngghen, Lênin đã tiếp thu những tư tưởng và phát triển theo cách hiểu của
mình về văn hóa trong xã hội - ông cho rằng trong xã hội có giai cấp luôn tồn
tại hai nền văn hóa đó là nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa
10


của giai cấp bị trị; từ đó mà tất yếu cách mạng văn hóa sẽ xảy ra. Lênin gắn
văn hóa với sự phát triển đi lên, đưa ra mục tiêu chính của văn hóa đó là việc
hoàn thiện con người về mọi mặt. Lênin viết: “ Văn hóa vô sản không phải
bỗng nhiên mà có, không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về
văn hóa vô sản phát minh ra hoàn toàn là sự phát triển hợp quy luật mà tổng
số kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư
bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu” [26, tr.361]. Khái
niệm này đã khẳng định sự tất yếu ra đời của văn hóa vô sản không phải tự
nhiên mà sinh ra, nó sinh ra bởi vì chính cái chế độ thối nát của xã hội tư bản
với bọn địa chủ và quan liêu. Văn hóa đó chỉ đường cho con người ta đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa và đi theo cách mạng vô sản.
Ở Việt Nam, văn hóa được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Đầu
tiên, xét về cội nguồn từ “văn hóa” - theo thư tịch cổ thì từ “văn hóa” ngày
nay mà chúng ta đang sử dụng có nguồn gốc Hán-Việt: từ “văn” mang nghĩa
là nét vẽ, mang tính hình thức bên ngoài; còn từ “hóa” là sự biến đổi, là giáo

hóa. Ta có thể nhận thấy, đã từ rất lâu về trước người Việt đã ý thức được văn
hóa trong lối sống, cách hành xử, mối quan hệ giữa con người với con người.
Văn hóa đối với người Việt chính là những đường nét mang tính chất răn đe,
giáo dục con người hướng tới những điều tốt đẹp và sống có khuôn phép.
Sau khi lĩnh hội quan niệm của những người đi trước và kết hợp tính
sáng tạo trong học thuyết Mác – Lênin về văn hóa với vai trò của tinh thần
văn hóa; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng hợp và đưa ra quan điểm của mình về
ý nghĩa của văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo, phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[28, tr.431].
Người coi văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đã được con
11


người sáng tạo ra vì cuộc sống. Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một sự phát
triển tất yếu của xã hội, là phương thức của hoạt động sống và nó không
những được nâng cao cùng với quá trình phát triển đi lên của xã hội, sự sáng
tạo mà còn mang trong mình giá trị nhân văn là vấn đề cốt lõi của văn hóa.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa chung về văn hóa, đó là
“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,
những tập tục và những tín ngưỡng: văn hóa đem lại cho con người khả năng
suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán dấn thân một cách đạo lý. Chính

nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình
là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những
công trình vượt trội lên bản thân”[50, tr.23]. Theo quan niệm của UNESCO
thì có hai loại hình di sản văn hóa song song cùng tồn tại, đó là văn hóa hữu
thể và văn hóa vô hình. Trong đó, văn hóa hữu thể được cho là di sản văn hóa
vật chất, bao gồm những công trình kiến trúc mang những nét văn hóa, lịch
sử. Còn văn hóa vô hình bao gồm mọi lĩnh vực như âm nhạc, nghệ thuật múa
truyền thống, văn học, ẩm thực, y dược, lễ hội, làng nghề,… tất cả là thành tố
thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần. Qua định nghĩa này, văn hóa chính là sự kết
hợp hài hòa của những nét tổng thể của vật chất với tinh thần, giữa trí tuệ và
cảm xúc để tạo nên tính cách xã hội của cả một cộng đồng. Nó được bộc lộ ra
bên ngoài với những loại hình khác nhau mang đặc trưng của cộng đồng đó.
Văn hóa giúp con người hoàn thiện bản thân mình, giúp con người tìm ra cái
tôi bản ngã trong họ, để họ không ngừng thay đổi tư duy để phát triển đi lên
tìm ra những cái mới, không ngừng sáng tạo ra những thứ vượt thời đại.
Như vậy, văn hóa không chỉ là một lĩnh vực cụ thể, riêng biệt; mà văn
hóa chính là tổng thể của tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người
12


sáng tạo ra. Văn hóa chính là chiếc chìa khóa của sự phát triển. Suy cho cùng,
mọi hoạt động của con người đều là vì lẽ sinh tồn, vì mục đích của cuộc sống;
tất cả đều phải trải qua thực tiễn và thời gian, được lặp đi, lặp lại tạo thành
thói quen, tập quán và chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất
và tinh thần. Chúng được tích lũy theo thời gian, lưu truyền và nhân rộng từ
đời này qua đời khác thành những kho tàng quý báu mang những giá trị riêng,
mang đặc trưng của mỗi cộng đồng và chúng góp phần làm phong phú thêm
kho tàng di sản văn hóa của Việt Nam nói riêng, của cả nhân loại nói chung.
1.1.2. Khái niệm làng

Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, làng có vị trí hết sức đặc
biệt; làng là một đơn vị hành chính nhỏ nhất và cấu thành nên quốc gia dân
tộc Việt – Nhà nước chính là kết quả của sự liên kết giữa các làng lại với
nhau, thống nhất dưới một chế độ. Làng có vai trò gắn kết các cá nhân, gia
đình lại với nhau; làng là nhân tố quyết định quá trình dựng nước và giữ nước
của quốc gia dân tộc, bằng chứng là chúng ta đã đánh bại hết quân xâm lược
để thống nhất đất nước, giữ yên bờ cõi.
Làng là một từ Nôm, là một đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng lại chặt chẽ
nhất và được coi là hoàn chỉnh nhất, bởi vì nó có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức
và tục lệ riêng, hoàn chỉnh và ổn định qua quá trình phát triển lịch sử của đất
nước. Cùng với sự xuất hiện của làng thì văn hóa làng cũng đồng thời xuất
hiện và nó trở thành nét đặc trưng cho văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trải qua thời gian, làng Việt cũng có nhiều thay đổi, ngay cả từ tên gọi
của làng cũng khác nhau giữa các vùng miền. Từ thời Văn Lang – Âu Lạc ở
các nơi làng được nhân dân gọi là chạ, kẻ, chiềng – đây đều là những từ thuần
Việt. Sau này, khi nước ta bị quân phương Bắc đô hộ và phải nằm dưới ách
thống trị 1000 năm thì làng Việt đổi thành hương, lý và nằm dưới sự quản lý
của Triều đình phong kiến. Còn ở các vùng dân tộc thiểu số ở phía Bắc, Bắc
Trung Bộ thì làng lại được gọi là bản, mường. Ở Tây Nguyên, làng được
người dân gọi là buôn, play. Đi xuôi về Nam Bộ, nơi mà dân cư Khơ – me tập
trung sinh sống và sản xuất thì họ gọi làng là phum, sóc… đó là những tên gọi
13


khác nhau về làng, tùy từng vùng với những tập tục riêng mà họ lại gọi tên
khác nhau. Nhưng tóm lại, dù tên gọi khác nhau nhưng làng vẫn có những đặc
điểm chung về cơ cấu tổ chức và chịu sự quản lý của một chế độ xã hội,
hưởng chung lợi ích về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học đưa ra những khái niệm
khác nhau về “làng” của Việt Nam; mặc dù vậy họ vẫn chưa nhất quán về một

quan điểm nào đó. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, “làng xã phải là nơi
đồng quê nhiều gia đình ở quy tụ thành khu vực gọi là xóm, các xóm phân
biệt nhau bằng lũy tre xanh. Trên đường đi vào thường có các cổng xây hoặc
tre, đến đêm tối có thể đóng lại được, để phòng ngừa trộm cướp. Hai, ba, bốn
hoặc có khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [25, tr.151].
Tác giả đi từ đơn vị nhỏ nhất của làng đó là gia đình rồi đến xóm và sau đó thì
tập hợp thành một làng hay còn gọi là thôn – tùy thuộc vào cách gọi của từng
địa phương đó. Còn theo GS. Phan Đại Doãn cho rằng: “Làng là một điểm
dân cư, một hình thức công xã nông thôn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ
chức xã hội riêng, lệ tục riêng,…rất chặt chẽ và hoàn chỉnh”[25, tr.38]. Định
nghĩa này có nét tương đồng với GS. Bùi Xuân Đính khi cho rằng làng chính
là đơn vị tụ cư truyền thống của nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ
tầng cùng cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng,… nhưng lại rất chặt chẽ và hoàn
chỉnh. Cả hai đều nói về sự khác biệt của làng với những đơn vị xã hội khác.
Mặc dù đã có rất nhiều cách gọi về làng nhưng chúng ta hãy tạm quy
nó về một cách hiểu, đó là: “Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất
chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu
nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng
với sản xuất tiểu nông – với gia đình tông tộc gia trưởng, đảm bảo sự cân
bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình thành, được tổ
chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Một mặt, làng có
sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động,
không có làng bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi của đất nước
qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng. Do những đặc thù của
14


tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung, miền Nam, tuy gốc gác nguồn gốc cũng
là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình
thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội đã thay đổi nhiều không còn nhiều đặc

điểm như làng Bắc Bộ. Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã
nông thôn với những đặc thù riêng của mình, hình thức công xã nông thôn
“nửa kín, nửa mở” những đặc thù riêng của làng thể hiện ở chế độ ruộng đất,
chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội, lệ, luật tục, tín
ngưỡng, lễ hội của làng”[37, tr.46-47]. Khái niệm này đã khái quát một cách
cụ thể về làng Việt Nam truyền thống, nó đã cho ta có cái nhìn bao quát và
tổng thể về làng. Làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của
người Việt; từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế - xã hội hoàn
chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của nông dân. Khái niệm đã đưa ra
những nguyên nhân hình thành nên một làng Việt - đó là hai nguyên lý cội
nguồn và cùng chỗ để giải thích cho tính thống nhất của tổ chức làng hay tính
độc lập về văn hóa của làng.
Làng Việt là sản phẩm của một nền chính trị phát triển từ lâu đời; là sản
phẩm của cả một nền văn hóa mang đặc sắc riêng của người Việt - cơ cấu tổ
chức làng chỉ tồn tại duy nhất Việt Nam. Nét đặc sắc đó thể hiện thông qua
tính cộng đồng của người dân trong mỗi làng, mỗi xóm. Tính cộng đồng có
vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại với nhau thông qua các biểu
tượng mang tính truyền thống như cây đa, bến nước, sân đình. Hầu hết, mọi
làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng này. Cho dù những người con
xa quê hương bao lâu đi chăng nữa nhưng mỗi khi trở về làng, hình ảnh đầu
tiên họ được nhìn thấy khi đến đầu làng là cây đa – tán cây xòe rộng tỏa bóng
mát cho dân làng mỗi khi đi ngang. Phải nói rằng, hình ảnh cây đa chính là
nơi giao thương của cả làng với thế giới bên ngoài; là nơi nghỉ chân của lữ
khách qua đường và cũng là nơi dừng chân của những người dân sau một
ngày lao động nơi đồng ruộng cùng với dăm ba câu chuyện. Bên cạnh cây đa,
bến nước lại là nơi tập trung cho sinh hoạt thường ngày của dân làng, đặc biệt
nơi đây là địa điểm tập trung chủ yếu của chị em phụ nữ; họ giao lưu kết bạn
15



với nhau, tâm sự nói chuyện cho nhau nghe trong lúc cùng vo gạo, rửa rau…
Còn sân đình chính là nơi cho cánh mày râu tụ tập; đây cũng chính là trung
tâm hành chính, văn hoá xã hội của cả làng; mọi việc quan trọng của làng đều
diễn ra ở đây như hội họp việc làng, xét xử kiện tụng, đón rước quan trên, hội
hè ăn uống, văn hoá văn nghệ giải trí. Đó là những giá trị văn hóa mà chỉ tồn
tại ở làng Việt Nam truyền thống, nó mang đậm nét văn hóa của một làng
quê, tính thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa, chính trị; đôi lúc nó chứa đựng
trong đó cả yếu tố tâm linh huyền bí.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được rằng làng chính là cội nguồn
cho mọi chuẩn mực về ý thức, phẩm chất nằm tiềm tàng trong mỗi người
Việt; những yếu tố đó đã tạo nên cộng đồng bền chặt là dân tộc Việt với sức
sống mãnh liệt, bền bỉ. Dù đã trải qua những cuộc đấu tranh vô cùng tàn khốc
và ác liệt; đứng trước biết bao kẻ thù mạnh nhưng ta đã không bị khuất phục.
Làng vẫn ở đó, vẫn luôn kiên cố để cho ta có nơi cư ngụ, nơi bảo vệ ta, cho ta
thêm sức mạnh để chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Cho tới ngày nay, khi
đất nước hòa bình, làng vẫn là lực lượng nòng cốt tạo tiền đề cho sự phát triển
đất nước. Suy cho cùng, làng chính là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt
Nam, làng của người Việt là một môi trường văn hóa, nó chứa đựng mọi
thành tố, mọi hiện tượng văn hóa được sinh ra và phát triển, lưu giữ và trao
truyền tới mọi cá thể.
1.1.3. Phân biệt văn hóa làng và làng văn hóa
1.1.3.1. Quan niệm về văn hóa làng
Văn hóa làng chứa đựng những nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo
nên một bức tranh đa sắc màu về văn hóa của dân tộc. Văn hóa làng Việt Nam
truyền thống được thể hiện rõ nét nhất là ở văn hóa làng Việt Bắc Bộ; vì đây
là cái nôi của nền văn minh sông Hồng, là nơi đầu tiên mà dân tộc Việt di cư
đến sinh sống, lao động và sản xuất. Làng Việt Bắc Bộ cũng là nơi cố kết
cộng đồng dân tộc lại thành một; nơi có những quan hệ dòng tộc, huyết thống;
cùng hàng xóm láng giềng; nơi tổ chức các buổi sinh hoạt chung, văn hóa,
văn nghệ. Làng chính là đơn vị tiền đề của một quốc gia; là bức tường thành

16


vững chắc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bình yên cho dân tộc, cho đất nước.
Tất cả đó, hình thành nên một nếp sống đẹp, luôn tồn tại trong mỗi cá nhân
của cộng đồng Việt đó là văn hóa làng. “Văn hóa làng xã Việt Nam có vị trí
quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc, nó luôn
luôn bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường
tồn của văn hóa dân tộc” [30, tr18-19]. Văn hóa làng chính là một hệ thống
những giá trị được hình thành từ rất lâu đời và tồn tại cùng quá trình phát triển
của cả dân tộc; nó biểu hiện cho những giá trị vật chất và tinh thần rất đỗi gần
gũi và thân thương. Văn hóa làng Việt Nam truyền thống đã có lịch sử tồn tại
qua hàng ngàn năm phát triển, mang trong mình những ký ức của người dân
Việt, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt - một nền văn hóa của
nhân dân, bộ phận ổn định nhất của văn hóa dân tộc.
Xét tổng thể nước ta thì có sự khác biệt nhất định về văn hóa giữa làng
với làng, giữa làng với nước; nhưng sự giao lưu văn hóa giữa các vùng miền
đã làm cho văn hóa có những điểm tương đồng với nhau về tư tưởng, tín
ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc, giáo dục, thẩm mỹ,… Từng khu vực lại có
những yếu tố, sắc thái văn hóa khác nhau giống như văn hóa làng Nam Bộ
khác với văn hóa làng Bắc Bộ nhưng về tổng thể thì văn hóa làng đều có điểm
tương đồng nhau. Mỗi làng đều tồn tại những quy ước về lệ làng, được thể
hiện qua hương ước làng một cách phong phú, mỗi làng lại có những lễ hội
truyền thống riêng,… tất cả được chắt lọc tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà
trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng được nổi bật lên. Nhà
nghiên cứu Thu Linh có đưa ra quan điểm cho rằng: “Văn hóa làng là một
nền văn hóa thuộc về cộng đồng và mang tính chất cộng đồng. Chủ thể làng,
tập thể làng chính là tác giả, là người tạo dựng, sáng lập nên nền văn hóa ấy.
Ở Việt Nam, một làng với tư cách là một làng, được xác định không chỉ qua
địa bàn cư trú, hoạt động nghề nghiệp, lịch sử hình thành, kết cấu kinh tế,

quan hệ xã hội, mà còn qua cả sinh hoạt văn hóa có bản sắc riêng của nó
nữa” [27, tr.46-48]. Bên cạnh các yếu tố đã kể trên thì các phẩm chất quan
trọng khác cũng song song tồn tại như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên
17


về âm tính (trọng tình, tình làng, nghĩa xóm,…), tính tổng hợp và tính linh
hoạt đều tồn tại trong văn hóa làng Việt.
Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái đình
làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với
nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng nghĩa
xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ
cương, trong sáng và thanh cao.
Văn hóa làng là một trong những tiêu chí để giúp chúng ta xác định và
phân biệt được diện mạo của làng này với làng khác. Văn hóa làng là thành
quả sáng tạo của các thành viên trong cộng đồng làng; họ tham gia tổ chức
thực hiện các hoạt động trong làng mình; đồng thời, họ chính là những người
chiêm ngưỡng và hưởng thụ những giá trị văn hóa do chính họ tạo ra. Vì vậy,
tính nhân văn trong văn hóa làng sẽ càng được tô đậm ở tính chất cộng đồng,
tính tập thể. Làng là một chủ thể tập thể của văn hóa và thông qua văn hóa
làng thì chúng ta có thể khám phá được diện mạo văn hóa chung của cả làng
đó. Đây là những điều lý thú giúp chúng ta phân biệt được làng này với làng
khác, sự khẳng định phân biệt này chưa phải đạt đến trình độ khác nhau về
chất. Nhưng thông qua đây cũng cho thấy sự ý thức về sự phân biệt và khẳng
định của người dân trong vùng.
Trong những nét riêng của làng Việt Nam, văn hóa làng nổi bật lên với
một số đặc trưng: ý thức đoàn kết cộng đồng rất cao và thể hiện ở nhiều mặt
khác nhau trong cuộc sống, ví dụ như trong lao động sản xuất, hay như trong
thói quen sinh hoạt hàng ngày – từ ý thức này mà tạo nên tính dân chủ trong

làng. Ý thức tự trị của mỗi làng thể hiện qua lệ làng và hương ước - những
diện mạo về văn hóa tùy vào điều kiện môi trường tự nhiên của từng vùng mà
nề nếp sinh hoạt và cách ứng xử riêng của từng làng sẽ có một niềm tự hào
riêng của mình. Đa thần giáo cũng là một điểm nổi bật trong đời sống tín
ngưỡng làng Việt, họ không thờ một vị thần chung mà mỗi làng sẽ thờ những
vị khác nhau và có tín ngưỡng khác nhau. Trên đây là những nét đặc trưng mà
18


làng Việt nào cũng có, nó trở thành bản sắc, là hằng số của làng - cố hữu và
bất biến.
Ngày nay, khi đất nước đang từng bước phát triển, với lợi thế tiềm năng
là một nước công nghiệp lại càng yêu cầu văn hóa làng cần phải phát huy vai
trò và thế mạnh của nó, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong văn
hóa làng Việt - phải biết yêu thương, đoàn kết, gắn bó để xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh, đời sống nhân dân được ổn định, chất lượng cuộc sống
được nâng cao. Đó là những giá trị tốt đẹp về nhân cách, văn hóa, lễ hội
truyền thống,… hay chính tình làng nghĩa xóm giống như ông bà ta có câu
“bán anh em xa mua láng giềng gần” - là những giá trị vật chất và tinh thần
mà chỉ tồn tại ở Việt Nam.
1.1.3.2. Quan niệm về làng văn hóa
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa
làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng
làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng
minh, trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, làng luôn giữ một vị trí
hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu giữ
trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn
có của văn hóa làng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được ước mơ,
nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế, đẩy lùi

những yếu kém đang tồn tại trong môi trường xã hội nói chung và văn hóa ở
làng quê nói riêng. Có thể thống nhất với quan niệm của nhà nghiên cứu
Hoàng Anh Nhân cho rằng: “Làng văn hóa được hiểu như là một mô hình
mang tính chủ quan, gắn bó với tính chủ quan của con người mà nội dung
của nó bao hàm sự toàn vẹn về mọi mặt trên cơ sở những đặc điểm tích cực
nhất. Về mặt lý thuyết, nếu như văn hóa làng còn có thể tồn tại những mặt
hạn chế thì làng văn hóa phải được hiểu hoàn toàn ngược lại” [29, tr.44].
Theo quan niệm này thì làng văn hóa là một mô hình văn hóa chủ quan được
xây dựng bởi một nhóm người có địa giới riêng và có quy tắc riêng đó là
19


hương ước làng. Làng văn hóa là nơi tụ hội mọi đặc điểm tích cực về những
phẩm chất, những nét đẹp văn hóa, lối sống của mọi người dân nơi đó.
Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa của
phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu
cầu cơ bản của người dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân
chủ, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nông
thôn, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh,… cần
phải đặc biệt chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa.
1.2. Xây dựng làng văn hóa
1.2.1. Quan điểm của Đảng và chính sách Nhà nƣớc về xây dựng
làng văn hóa ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện theo cuộc vận động xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” trọng tâm là xây dựng “làng văn hóa” của Đảng
- Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là cuộc vận
động lớn mang tính toàn dân, toàn diện, với mục đích nâng cao ý thức và
trách nhiệm của mỗi người dân trong quan hệ với gia đình và cộng đồng, môi
trường tự nhiên và xã hội, theo những tiêu chí hướng tới nâng cao chất lượng
sống cho người dân cả về vật chất lẫn tinh thần.

Cuộc phát động phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa là một trong 4 nhóm giải pháp lớn nhằm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Nhóm giải pháp này xếp ở vị trí đầu tiên, có tính đột
phá, huy động sức mạnh toàn dân, toàn diện cho xây dựng văn hóa, có ý
nghĩa xã hội sâu sắc, tính chiến lược lâu dài, thể hiện quan điểm của Đảng ta
coi xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Tiếp đó, Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33NQ-TW ngày 09/6/2014) yêu cầu: Xây dựng làng văn hóa ở địa bàn dân cư
đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất
20


là trong việc cưới, việc tang, lễ hội - nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc
vận động văn hóa.
Nghị quyết của Đảng yêu cầu các cấp ủy huy động mọi lực lượng nhân
dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước,
các đoàn thể phải tích cực tham gia vào phong trào. Phong trào xây dựng làng
văn hóa phải tạo sự chuyển biến về nhận thức cho khối nhà nước và nhân dân
về vai trò, vị trí của văn hoá, kết hợp với nhân tố con người đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phối
hợp và đẩy mạnh các phong trào quần chúng hiện có; đồng thời, lồng ghép bổ
sung nội dung văn hoá vào các phong trào của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, ở
địa phương. Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, bảo tồn
có chọn lọc những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; loại bỏ dần những
cái lỗi thời, lạc hậu, hình thành dần những tập quán mới văn minh, sống và
làm việc theo pháp luật. Xây dựng và phấn đấu theo các chỉ tiêu, quy chế, quy
tắc về nếp sống văn hoá. Huy động nguồn lực của toàn xã hội tham gia các
hoạt động sáng tạo và xây dựng làng văn hoá, tạo điều kiện cho các hoạt động

văn hoá phát triển, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, góp
phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Toàn dân đoàn kết xây dựng làng văn hóa là tư tưởng bắt nguồn từ
truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc, từ tư tưởng đoàn kết toàn dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng.
Nội dung cơ bản của phong trào “Xây dựng làng văn hoá” được thể hiện ở
các hoạt động chủ yếu: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giầu chính đáng, xoá
đói giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống
văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng quy
ước văn hóa làng; Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; Xây dựng môi trường
văn hoá sạch - đẹp - an toàn; Xây dựng các thiết chế văn hoá - thể thao và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá - thể thao cơ sở.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước về phong trào “Xây dựng làng văn hoá”
21


×