Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố tam kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.75 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỲNH MAI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM KỲ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỲNH MAI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM KỲ

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 834 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO THU HẰNG



HÀ NỘI - năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tác giả đã nhận được
sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan, các cá nhân.
Với tất cả lòng chân thành, tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
tới PGS.TS. Cao Thu Hằng vì sự hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm của
cô đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo Học viện khoa học xã hội đã
tận tình truyền đạt các kiến thức bổ ích trong suốt khóa học.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Văn phòng Hội đồng nhân
dân - Ủy ban nhân dân thành phố Tam Kỳ, Phòng Văn hóa thông tin thành phố Tam
Kỳ, Trung tâm Văn hóa - Thể thao - Truyền thông thành phố Tam Kỳ đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình tìm tòi, thu thập tài liệu nghiên cứu để
hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tác giả
hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công với đề tài
“Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn
thành phố Tam Kỳ” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của bản
thân với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Cao Thu Hằng - người hướng dẫn khoa
học. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Tác giả xin chịu
trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Học viên


Trần Quỳnh Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ......... 8
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................... 8
1.2. Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa .................................................................................... 15
1.3. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
văn hóa ......................................................................................................... 18
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa ....................................................................... 23
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ TAM KỲ ............................................................................ 28
2.1. Giới thiệu chung về thành phố Tam Kỳ và di sản văn hóa trên địa bàn
thành phố ..................................................................................................... 28
2.2. Tình hình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ……………………………………….36
2.3. Hạn chế trong việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa ở Thành phố Tam Kỳ và nguyên nhân ................................................... 52
Chương 3. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ TAM KỲ HIỆN NAY ............................................... 61
3.1. Mục tiêu ................................................................................................ 61
3.2. Phương hướng ....................................................................................... 62



3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở thành phố Tam Kỳ .............................. 64
KẾT LUẬN ................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VHTT

:

Văn hóa thông tin

VH-TT-DL :


Văn hóa - Thể thao - Du lịch

VNAH

Việt Nam anh hùng

:


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã tạo dựng
và lưu truyền một kho tàng di sản văn hóa vô giá. Từ những nền văn hóa cổ
như Đông Sơn, Sa Huỳnh... thuộc thời đại kim khí cách ngày nay trên 2000
năm, đến văn hóa thời kỳ phong kiến tự chủ thuộc các vương quốc Đại Việt,
Champa... cho đến khi Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn - địa đầu Tổ quốc
– đến đất mũi Cà Mau, nước ta đã hình thành cộng đồng 54 dân tộc anh em;
mỗi dân tộc tùy theo điều kiện lịch sử và địa bàn cư trú mà có sự phát triển
khác nhau, song dân tộc nào cũng có những nét văn hóa đặc sắc riêng của
mình. Những giá trị văn hóa đó đã được bảo tồn và phát huy qua nhiều thế hệ
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam hình thành nên một hệ thông các giá trị
di sản văn hóa của dân tộc.
Thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam là vùng đất có nhiều di sản
văn hóa có giá trị, có ý nghĩa giáo dục truyền thống, tạo sức hút đối với du
khách. Những di sản văn hóa đó là niềm tự hào, và có vai trò quan trọng trong
sự phát triển của thành phố. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những
năm qua, Tam Kỳ đã tổ chức việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm,
việc bảo tồn và phát huy các giá trị di tích văn hóa ở thành phố Tam Kỳ vẫn

còn hạn chế, chưa được đầu tư một cách phù hợp, đâu đó vẫn còn tồn tại một
số bất cập nhưng chưa tìm ra được định hướng giá trị di tích văn hóa đặc
trưng mang màu sắc vùng đất phủ lỵ Tam Kỳ xưa và thành phố trung tâm nay.
Các di sản văn hóa chưa được tập trung tôn tạo và phát huy được giá trị của
nó. Một số di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố chưa được gìn giữ cẩn thận,
bị xâm phạm, lấn chiếm,… Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản

1


văn hóa ở Tam Kỳ trở thành yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay và
những năm tới, nhằm cùng với các địa phương khác trên cả nước “phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc” [6,
tr.303].
Trước tình hình đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ” làm
luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa không
còn là một vấn đề mới, nhưng luôn là đề tài có tính thời sự, và đã được các
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cụ thể như:
Tác giả Trịnh Thị Minh Đức trong cuốn Bảo tồn di tích lịch sử-văn hoá
– giáo trình cho sinh viên đại học và cao đẳng chuyên ngành Bảo tàng đã nêu
lên những vấn đề chung của hoạt động bảo tồn di tích như: kiểm kê, xếp hạng,
bảo quản, tu bổ, phục hồi và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa. Tìm ra các
hình thức khai thác, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa Việt Nam [7].
Công trình nghiên cứu về “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Việt Nam”, của Lưu Trần Tiêu. Trong bài Một số vấn đề về di tích lịch sử văn
hóa [22, tr.496-511], khi đề cập vấn đề bảo tồn di tích, Lưu Trần Tiêu đã nêu
lên 3 vấn đề cần tập trung là: công nhận di tích, quản lý cổ vật và phân phối

quản lý di tích. Tác giả nhấn mạnh: các di tích lịch sử văn hóa chỉ có thể được
bảo vệ và phát huy cao nhất giá trị văn hóa khi thực hiện đồng bộ 3 mặt hoạt
động này. Do đó cần thiết phải thực hiện: Thứ nhất: thiết lập cơ chế, chính
sách đúng đắn có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp bảo tồn, bảo tàng trong cả
nước; Thứ hai: cần có một hệ thống tổ chức thích hợp đủ khả năng hiện thực
hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; Thứ ba:

2


cần tổ chức để đưa các hoạt động bảo tồn thực sự trở thành sự nghiệp của toàn
dân.
Trong những năm gần đây, thời kỳ đất nước đang trên đà phát triển và
hội nhập quốc tế thì di sản văn hóa cũng được coi là một trong những nguồn
lực tham gia vào sự phát triển chung ấy. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tác động
tích cực tới nền kinh tế, đời sống xã hội thì sự phát triển đó cũng tạo ra những
tác động tiêu cực, những hạn chế nhất định, nhất là đối với di sản văn hóa,
trong đó có các di tích lịch sử - văn hóa. Tác giả Hà Văn Tấn trong bài viết
“Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” đã nhận xét rằng: “Các di tích lịch sử - văn hóa đang trong quá
trình SOS khẩn cấp…Nếu chúng ta không có những chính sách bảo tồn thì
ngay cả các di tích quý giá ấy cũng sẽ bị mất đi, mà một dân tộc bị đánh mất
là một dân tộc đánh mất trí nhớ…” [18]. Ông phân tích các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng di tích bị hủy hoại trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển, quá trình đô thị hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ nguyên trạng di tích.
Điều này do chúng ta bị động trước quá trình đô thị hóa, không nắm được các
quy hoạch đô thị.
Trong bài “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo
vệ di tích ở nước ta” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng cũng đề cập đến những
tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm tổn hại đến hệ thống

di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử - văn hóa nói riêng. Tác giả bài viết
đã phân tích khá kỹ ba nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong điều kiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay. [11, tr. 4-5]
Trong Bảo tồn di tích trong phát triển không gian đô thị, tác giả Doãn
Minh Khôi đã phân tích mối liên hệ giữa bảo tồn di tích và phát triển không

3


gian đô thị, đồng thời nêu lên kinh nghiệm của một số nước đã tiến hành quy
hoạch đô thị theo quan điểm tạo ra sự hài hòa cái mới và cái cũ.
Tác giả Phạm Hùng Cường với bài viết Nhận diện giá trị di sản trong
công tác bảo tồn đã phân tích vai trò của lý luận trong việc nhận diện giá trị di
sản; qua đó, khẳng định cần có lý luận nhận diện giá trị một cách đúng đắn,
đầy đủ thì mới có thể đưa ra cách thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa
phù hợp nhất. Muốn làm được điều đó, theo tác giả, cần xây dựng lý luận
nhận diện giá trị tích hợp và có quan điểm nhìn nhận giá trị tích hợp dưới các
góc độ giá trị khác nhau, như: giá trị tự bản thân của di sản, các giá trị trị kế
thừa, chuyển tiếp,...
Bên cạnh đó, các bài viết đăng tải trên các tạp chí tác giả Dương Văn
Sáu viết về Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam; tác giả Nguyễn
Thế Hùng “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và
bảo vệ đất nước”. [12, tr.27-31]
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng trong công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di tích văn hóa, trên cơ sở Chương trình hành động của tỉnh Quảng
Nam thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khoá
XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Quảng Nam đã tham mưu Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số

161/2015/NQ-HĐND ngày 07/7/2015 về đầu tư, tu bổ di tích quốc gia và di
tích cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 – 2020. UBND tỉnh ban hành
quyết định Số 28/2010/QĐ-UBND ngày 26/11/2010 về ban hành quy chế
quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng
cảnh trên địa bàn tỉnh. Hội thảo “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa Quảng
Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển” được Sở Văn hóa - Thể thao và Du
lịch tỉnh Quảng Nam tổ chức vào ngày 20/9/2019 nhằm tạo tiền đề cho những

4


nghiên cứu sau này về văn hóa Quảng Nam, cũng như góp phần đưa ra những
giải pháp phát huy giá trị văn hóa, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Hội thảo thu hút gần 200 đại biểu bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học, nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa, khảo cổ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành
phố Tam Kỳ, đề tài đã làm rõ mục tiêu, phương hướng và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa ở thành phố Tam Kỳ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài luận văn hướng đến các nhiệm vụ
nghiên cứu quan trọng như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.
- Đề xuất một số mục tiêu, phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng

cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên
địa bàn thành phố Tam Kỳ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

5


- Về thời gian: từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của
nhà nước về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Luận văn thu thập và xử lý dữ liệu cơ bản từ nhiều nguồn khác nhau
như: tư liệu của Sở văn hóa thể thao và du lịch Tỉnh Quảng Nam, các chủ
trương chính sách của Thành ủy và UBND Thành phố Tam Kỳ. Tác giả đã có
được một hệ thống tài liệu toàn diện về chủ đề nghiên cứu và là dữ liệu phục
vụ cho phân tích, dẫn luận tại Chương 1 và Chương 2.
5.2.2. Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các công trình liên quan của các tác
giả đi trước, sử dụng các phương pháp cần thiết nhằm tối ưu nhất những tài
liệu thu thập được trên thực tế, từ đó rút ra những điểm chung.
5.2.3. Phương pháp quan sát

Thông qua sự trải nghiệm tại các khu di tích văn hóa, tác giả có cơ sở
để đánh giá giá trị di tích cũng như tiềm năng của lĩnh vực mà mình đang tìm
hiểu. Từ đó, cho phép tác giả tiếp cận vấn đề một cách chủ động, sâu sắc cũng
như thẩm nhận được giá trị của di tích và tiềm năng phát triển.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

6


- Luận văn cũng có giá trị tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý của
thành phố Tam Kỳ trong việc nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập và áp dụng trong việc thực hiện chính sách bảo bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa ở địa phương mình.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 3 chương, nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
văn hóa: Một số vấn đề lý luận.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa ở thành phố Tam Kỳ.
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành
phố Tam Kỳ.


7


Chương 1
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm chính sách công
Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách, luận văn đồng ý với quan
niệm “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm
vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh
vực cụ thể nào đó. Bản chất nội dung và phương hướng của chính sách tùy
thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa”. [15,
tr.475]
Chính sách có thể là chính sách của một cơ quan, đơn vị, một công ty,
hoặc một quốc gia, nhà nước. Chính sách của một quốc gia thường được gọi
là chính sách công.
Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công, tùy theo cách tiếp
cận, chính sách công có thể được hiểu ở các khía cạnh khác nhau.
Trong công trình Tập bài giảng Chính trị học, tập thể tác giả cho rằng
“Chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm
hoặc chi phối quyền lực cộng cộng”.[39, tr.235]
Các tác giả khác lại cho rằng “Chính sách công là một tập hợp những
quyết định liên quan với nhau do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu
và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát
triển”. [19, tr.10]
Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải “Chính sách công là kết quả ý chí
chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên

8



quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải
quyết những vấn đề công trong xã hội”. [8, tr.51]
Từ các định nghĩa trên cho thấy, cách quan niệm của các học giả về
chính sách công có một số điểm lưu ý sau:
Thứ nhất, chính sách công dùng để chỉ chính sách của nhà nước. Theo
nghĩa đó, nó chỉ xuất hiện khi nhà nước xuất hiện.
Thứ hai, việc xuất hiện một chính sách (chính sách công) là để giải
quyết một, hay một vài mục tiêu nào đó. Việc xác định thứ tự ưu tiên của các
mục tiêu là tùy theo các chủ thể; tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc xác định
các mục tiêu là không được loại trừ nhau.
Thứ ba, chính sách công phải được xem như một quá trình từ khâu xác
định ý tưởng, hoạch định, thực hiện đến đánh giá kết quả thực hiện...
1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách công
Như trên đã đề cập, nói đến chính sách (công) là nói đến một chu trình
hành động của chủ thể - chu trình chính sách công. Chu trình chính sách công
bao gồm nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại gồm những bước khác nhau. Mỗi
tác giả, tùy theo cách tiếp cận, có những cách xác định chu trình chính sách
công khác nhau. Nhưng các tác giả đều khẳng định, thực hiện chính sách là
một khâu trong chu trình chính sách công và là khâu quan trọng. Theo tác giả
Văn Tất Thu “thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính
sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện
thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định”. [21]
Thực hiện chính sách có vai trò quan trọng trong một chu trình chính
sách. Theo đó, “Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu
(các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được
chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính
sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực hiện sẽ


9


trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng
đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà
nước). Nếu chính sách không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin
tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn toán bất
lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong
công tác quản lý” [21]. Thực chất, việc thực hiện chính sách là từng bước hiện
thực hóa mục tiêu của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách
công và giúp cho chính sách công ngày càng hoàn thiện hơn. [9, tr.11-14]
Thực hiện chính sách cũng bao hàm nhiều giai đoạn. Trong luận văn
này, tác giả xem xét việc thực hiện chính sách bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách
Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Thứ tư, duy trì chính sách
Thứ năm, điều chỉnh chính sách
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách
1.1.3. Khái niệm về văn hóa và giá trị văn hóa
1.1.3.1. Khái niệm về văn hóa
Hiện nay, trong ngôn ngữ của tất cả các dân tộc trên thế giới đều có
khái niệm về văn hóa, nhưng văn hóa là một vấn đề không dễ cắt nghĩa đầy
đủ, trọn vẹn. Ngay từ rất sớm, Hồ Chủ tịch đã nhìn nhận: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết; đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng khác. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa
là tổng hợp những phương thức sinh hoạt và biểu hiện của nó mà loài người


10


đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”. [10, tr.1]
Tại hội nghị thế giới Về Chính sách văn hóa vì sự phát triển (năm 1982
tại Mehico), văn hóa được coi là “tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, và ngoài văn
học và nghệ thuật nó còn bao gồm cả lối sống, cách thức cùng chung sống,
các giá trị hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”.[13, tr.20]
Tác giả Trần Quốc Vượng định nghĩa: “văn hóa theo nghĩa rộng, là cái
tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế,... để từ đó
hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người
đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ,
với những hệ thống chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan
niệm... tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người”. [39,
tr.35-36]
Như vậy, các định nghĩa đều cho rằng văn hóa là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong lịch sử, nhằm đáp ứng nhu
cầu của mình trong hoạt động sống. Nó có thể là các sản phẩm vật chất, như:
đình, chùa, miếu,..., cũng có thể là giá trị tinh thần, phong tục, tập quán, các
chuẩn mực về lối sống,...
Văn hóa được tạo thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển
của con người. Trình độ phát triển chung của văn hóa phụ thuộc trực tiếp vào
trình độ làm chủ tự nhiên, bản thân và xã hội của con người. Nó có vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội, như: Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI)
của Đảng đã nêu rõ “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng
kinh tế, chính trị, xã hội” [3, tr.2]. Văn hóa thể hiện năng lực bản chất và thể


11


hiện giá trị đích thực của con người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của
con người. Nói đến văn hóa là nói đến cái tốt đep, chân-thiện-mỹ.
1.1.3.2. Khái niệm về giá trị văn hóa
Nói đến giá trị là nói đến cái có ý nghĩa về con người, xã hội và văn
hóa. Hay có thể nói, giá trị là tất cả những đánh giá của con người về bất cứ
một hiện tượng trong xã hội về con người, về tự nhiên mang ý nghĩa tốt đẹp.
Hệ giá trị được hình thành nên trong một quá trình xã hội tương đối lâu dài,
chúng tạo nên cơ sở để đánh giá tính có ích về mặt xã hội cũng như của các
thành viên. Do đó, chúng quyết định những nguyên tắc của việc cùng chung
sống của cộng đồng hay xã hội. Nhưng giá trị không tùy thuộc vào sở thích
của bất kỳ cá nhân nào, mà thỏa mãn những nhu cầu chung, được đại đa số
người trong cộng đồng cùng chia sẻ. Không chỉ mang tính khách quan, giá trị
mà còn bao hàm cả trong tâm lý, tình cảm của con người, người ta có thể
phấn đấu, hi sinh cho những giá trị mà người ta cho là cao đẹp. Giá trị của
một nền văn hóa có thể thay đổi, nhưng nhìn chung thì đó là một yếu tố tương
đối ổn định và bền vững so với cuộc đời của một cá nhân nào đó.
Giá trị văn hóa là giá trị bản sắc kết quả sáng tạo tích lũy của một cộng
đồng, dân tộc biểu hiện qua các chuẩn mực về đạo đức, tư tưởng, tình cảm
…của tập thể, cộng đồng hay mỗi cá thể được cộng đồng lựa chọn tiếp nhận
và khao khát hướng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử. Đó không phải là
thuật ngữ để mô tả, mà có hàm ý đánh giá. Người ta thường dựa trên một
quan điểm văn hóa nhất định để đánh giá về những gì là đúng hay sai, đẹp hay
xấu, thiện hay ác, do đó nên hay không nên làm. Nguyên tắc có tính bao quát
đó có ảnh hưởng rất lớn đối với tiến trình của xã hội.
1.1.4. Khái niệm di sản văn hóa
Di sản văn hóa là bộ phận cơ bản và trọng yếu trong nền văn hóa của

mỗi quốc gia, dân tộc. Di sản văn hóa chính là cơ sở, là nền tảng cho con

12


người trong sự phát triển ngày một cao của xã hội. Từ đó, có thể hiểu: “Di
sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di
sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.[15]
Di sản văn hóa vật thể: “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [15]. Theo nghĩa đó, những cổ
vật, những công trình kiến trúc hoặc còn ẩn trong lòng đất hoặc đang lưu giữ
trong các bảo tàng, các công cụ, sản xuất, đồ dùng bằng sành sứ, những thành
quách, chùa tháp, đình làng, phố cổ, lăng tẩm, cung điện... đều thuộc loại hình
văn hóa này.
Di sản văn hóa phi vật thể: là toàn bộ những giá trị văn hóa vô hình,
được hình thành thông qua đời sống tinh thần, được lưu truyền, biến đổi qua
thời gian với quá trình tái tạo, kế thừa rộng rãi trong cộng đồng. Luật Di sản
văn hóa xác định: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với
cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng
được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [15]. Loại hình văn hóa
phi vật thể này rất đa dạng, gồm: các thể loại văn học, chữ viết, các hình thức
nghệ thuật, sân khấu, ngôn ngữ, triết lý, đạo đức, truyền thuyết, huyền thoại,
lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, y học dân tộc, ẩm thực,... Sự đa dạng này
tương ứng với sự đa dạng của các cộng đồng, dân tộc làm nên tính đa dạng,
độc đáo của các nền văn hóa.

1.1.5. Khái niệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

13


Văn hóa cũng luôn nằm trong tiến trình vận động, không ngừng phát
triển và biến đổi, sự biến đổi và phát triển đó cũng tuân theo những quy luật
nhất định. Lịch sử phát triển của loài người, của nhân loại luôn luôn diễn ra và
phát triển từ thấp đến cao. Xét cho cùng, tất cả những điều đó là kết quả tất
yếu của sự thay thế phương thức sản xuất từ thấp đến cao hơn, tiên tiến hơn
để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với tư cách là sản phẩm,
là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt của xã hội, văn hóa cũng có sự biến đổi
nhất định. Song, mặt khác, văn hóa cũng mang tính độc lập tương đối mà biểu
thị chủ yếu của nó là tính kế thừa.
Bảo tồn là khái niệm chỉ sự giữ lại, duy trì lại và truyền lại từ trong di
sản truyền thống những yếu tố tích cực, hợp lý, những giá trị nhân bản... tạo
cơ sở cho sự ra đời và phát triển cái mới, cái tiến bộ.
Phát huy giá trị văn hóa là hoạt động nhằm đưa các giá trị văn hóa
truyền thống vốn có thâm nhập vào thực tiễn đời sống xã hội; tạo động lực
thúc đẩy xã hội ngày một phát triển và đem lại những điều tốt đẹp về mặt tinh
thần lẫn vật chất cho nhân loại. Phát huy các giá trị văn hóa còn bao hàm ý
nghĩa tạo ra môi trường tốt nhất để những yếu tố mang tính truyền thống phát
huy một cách hữu hiệu, tác dụng tích cực trong cuộc sống đương đại.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một quá trình thống nhất
biện chứng giữa lọc bỏ và kế thừa, giữa tiếp thu và phê phán, giữa việc lưu
giữ và phát triển thêm nữa, giữa tu bổ và tôn tạo... các giá trị di sản văn hóa
truyền thống để xây dựng và tiếp tục phát triển cái mới, cái tiến bộ. Vì vậy,
công tác kế thừa, trùng tu, tôn tạo và ngày càng phát huy các di sản văn hóa
của mỗi quốc gia và cả nhân loại luôn là nhu cầu tất yếu đặt ra cho mỗi người
dân mà còn là nhiệm vụ của toàn nhân loại.

Đề cập vấn đề này, sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc “phát
huy vốn quý báu” của dân tộc. Người đặc biệt nhấn mạnh đến công tác bảo

14


tồn, tu bổ, đồng thời phát huy tốt các giá trị văn hóa sẵn có: “Khôi phục cái
cũ thì nên chọn cái tốt, còn cái không tốt thì loại dần ra...”. Đối với Hồ Chủ
tịch, khôi phục phải gắn liền với chọn lọc, đánh giá để giữ lại cái tốt, loại bỏ
cái xấu hay những tập tục trái với thuần phong mỹ tục. Điều đó không có
nghĩa là loại bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng cái mới, mà bắt nguồn từ tất cả
những gì tinh túy nhất của văn hóa cần được gìn giữ và phát huy.
Vì vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa có ý nghĩa vô
cùng quan trọng để một quốc gia, dân tộc tồn tại vững bền ở mọi thời kỳ lịch
sử, là điều tiên quyết để tạo dựng nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
1.1.6. Khái niệm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là
một tổng thể hữu cơ các thực hành xã hội dựa trên những nguyên tắc chung
đã được Đảng và Nhà nước cân nhắc, tính toán và là một hệ thống các biện
pháp của Nhà nước tác động vào các hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa
của dân tộc.
Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa đóng
vai trò quan trọng, là tổng hòa nhiều quyết sách có nội dung tối ưu nhằm chắt
lọc, đề xuất các công cụ, giải pháp để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa. Việc thực hiện chính sách này được đặc biệt quan
tâm từ các văn bản pháp luật đến văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, được cụ thể
qua việc hoạch định chiến lược phát triển văn hóa qua từng thời kỳ, đặc biệt là
Luật Di sản văn hóa và các Thông tư, Nghị định hướng dẫn Luật di sản văn
hóa được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền ban hành, cùng với các văn

bản pháp quy khác.
1.2. Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa

15


Thứ nhất, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
văn hóa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Một nền văn hóa của bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng gắn liền với đặc
trưng của dân tộc, mang nét đặc thù để phân biệt, nhận diện mà không nhầm
lẫn với một dân tộc nào khác, cái mà nhìn vào đó bất cứ ai cũng có thể biết đó
là quốc gia, dân tộc đó. Đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc
văn hóa dân tộc còn thì dân tộc còn, và ngược lại, nếu nó mất đi thì dân tộc sẽ
lụi tàn hoặc diệt vong.
Trải qua không ít các cuộc chiến xâm lăng, sự tàn phá, sự khắc nghiệt
của thiên nhiên, đặc biệt là thời kỳ mở cửa và hội nhập với thế giới hôm nay
đã nảy sinh nhiều bất cập, thậm chí cả những mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo tồn
và phát triển các di tích văn hóa của dân tộc gắn liền với sự phát triển kinh tế
xã hội. Trong các tác nhân gây tổn hại cho di sản văn hóa, ngoài sự tác động
của yếu tố thiên tai, địch họa thì con người, cách hành xử thiếu văn hóa của
chính con người đối với di sản là thủ phạm chính. Bên cạnh đó, xu hướng
hiện đại hóa trong cuộc sống hiện nay làm cho con người ta bỏ quên những
yếu tố truyền thống. Lối sống thực dụng, sự vị kỉ đã dẫn đến không ít hành
động đáng phê phán đối với di sản.
Ngoài ra, quá trình toàn cầu hóa cũng đem đến những tác hại không
nhỏ trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa. Tình trạng đánh cáp cổ vật
tuồng ra nước ngoài khá phổ biến và khó bề ngăn chặn. Cuộc đấu tranh giữa
“hòa nhập” với “hòa tan”, “đổi mới” với “đổi màu” đang là cuộc đấu tranh
không khoan nhượng trên mọi mặt trận mà trong đó, văn hóa chính là vấn đề

đầu tiên quyết định sự thành bại trong công cuộc hội nhập.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các di sản văn hóa giữ
vai trò là tài nguyên vô giá, Tuy nhiên, bảo tồn di sản không hề đồng nghĩa
với việc đóng khung trong di sản. Chủ trương kế thừa, gìn giữ những truyền

16


thống ngàn đời về lòng nhân ái, bao dung, trọng đạo lý, thương người như thể
thương thân và kế thừa không chỉ nội dung mà còn cả hình thức trong tất cả
các loại hình nghệ thuật: văn thơ, nhạc họa, kiến trúc, mỹ thuật, tuồng chèo,…
đến các loại hình dân dã: bài chòi, các làn điệu dân ca, các bài đồng dao cho
trẻ em,…
Thứ hai, góp phần xây dựng đất nước
Sắc lệnh số 65-SL ngày 23/11/1945 đã khẳng định “Việc bảo tồn cổ
tích là việc rất cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”. Nội dung
cơ bản của Sắc lệnh thể hiện tầm nhìn chiến lược và những định hướng cơ
bản của Hồ Chí Minh. Cũng đề cập về nội dung này, Đại hội Đảng lần thứ X
khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội… Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử
cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc,
các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng
các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hòa
việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế,
du lịch”. [2]
Thứ ba, tạo tiền đề cơ bản cho quá trình giao lưu, hợp tác văn hóa
Văn hóa dân tộc là một dòng chảy liên tục phát triển qua các giai đoạn
lịch sử và trong sự giao thoa với các nước về nhiều mặt, là sự trao đổi trong

quá trình thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau của những dòng tư tưởng, sự
hợp tác và phát triển giữa quốc gia này với quốc gia khác. Chúng ta giao lưu
với các nền văn hóa làm cho cái hữu ích, cái đúng, cái tốt, cái đẹp hòa quyện
vào nhau, tác động lẫn nhau, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, là cơ sở,

17


tiền đề để các dân tộc và nhân dân thế giới cùng phấn đấu hướng tới mục tiêu
cuối cùng là độc lập, tự do, công bằng, bác ái, bình đẳng và dân chủ.
Trong giao lưu văn hóa, không chỉ giao lưu giới thiệu di sản trong nước
mà cần phải tiếp nhận một cách có chọn lọc bản sắc văn hóa của dân tộc khác
và mở rộng giao lưu quốc tế. Trong quá trình giao lưu hội nhập lại còn phải
tính đến sự lợi dụng hợp tác quốc tế để tấn công vào nền tảng tinh thần của
dân tộc vào nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc ta. Thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa sẽ tạo nền tảng vững chắc, tiền
đề cơ bản cho sự giao lưu, hợp tác của Việt Nam hiện nay.
1.3. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Để chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đi vào cuộc sống,
trước hết nhà hoạch định chính sách ở các cấp cần phải xây dựng kế hoạch
triển khai và chương trình cụ thể để thực hiện các nội dung kế hoạch đã đề ra
đảm bảo chính sách đem lại kết quả tốt nhất. Một số nội dung của kế hoạch
thực hiện chính sách đó là:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành;
- Kế hoạch về cung cấp các nguồn vật lực;
- Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện;
- Kế hoạch về kiểm tra, đôn đốc, thực thi chính sách.

Kế hoạch được xây dựng cần nêu được mục đích, yêu cầu của việc bảo
tồn và phát huy giá trị di sản; quy định về thời gian hoàn thành kế hoạch có
thể theo từng giai đoạn thực hiện cho từng hạng mục cụ thể; những nguyên
tắc, nội quy cũng như những quy định, chế tài cụ thể đối với từng tổ chức, cá
nhân, đơn vị tham gia thực hiện việc điều hành chính sách. Bên cạnh đó, cũng

18


×