Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.96 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành:

Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số:

838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông
tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ
Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
2015 ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm được
thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam .................................. 7
1.2. Khái niệm tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và phân biệt các tội phạm này với một
số tội phạm khác theo luật hình sự Việt Nam ......................................................... 13
1.3. Các tội vô ý làm chết người theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 ........... 24
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở BÌNH ĐỊNH ...... 24

2.1.Quy định các tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam.......... 17
2.2. Thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người ở Bình Định .............................. 32
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 VỀ CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI ..................................... 59
3.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật những quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người ...................... 59
3.2. Hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các
tội vô ý làm chết người .......................................................................................... 60
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người .................................. 64
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, bị cáo về tội vô ý làm
chết người phải giải quyết trên toàn tỉnh Bình Định (2015-2020) .......................... 33
Bảng 2.2: Tổng số vụ, số bị cáo đã bị Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý
làm chết người (2015 - 2020) ............................................................................... 33
Bảng 2.3: Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án tỉnh Bình Định ................. 35
Bảng 2.4: Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô ý làm chết
người ..................................................................................................................... 36
Bảng 2.5: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm
chết người trong tương quan với các tội xâm phạm tính mạng của con người (các
tội từ Điều 123 đến Điều 139 Bộ luật hình sự) ....................................................... 37
Bảng 2.6: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm
chết người trong tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng (các tội từ Điều 260 đến Điều 329 Bộ luật hình sự) ....................................... 38
Bảng 2.7: Tổng số vụ, số bị cáo và tổng số vụ, bị cáo về tội vô ý làm chết người

do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính phải giải quyết trên địa bàn
tỉnh Bình Định(2015 – 2020) ................................................................................. 39
Bảng 2.8: Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm
chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ................... 40
Bảng 2.9: Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án tỉnh Bình Định đối với
tội vô ý làm chết người .......................................................................................... 41
Bảng 2.10: Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô ý làm chết
người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ............................ 42
Bảng 2.11: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trong
tương quan với các tội xâm phạm tính mạng của con người (các tội từ Điều 123
đến Điều 127 Bộ luật hình sự) ............................................................................... 43


Bảng 2.12: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trong
tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (các tội từ
Điều 260 đến Điều 329 Bộ luật hình sự) ................................................................ 45
Bảng 2.13: Số bị cáo do Tòa án xét xử (2015-2020) - thống kê cấp tỉnh + thành
phố, huyện, thị xã – Tỉnh Bình Định) về tội giết người, tội vô ý làm chết người,
tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính,
tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và tội vi phạm
quy định về an toàn lao động ................................................................................. 46
Bảng 2.14: Những loại tội phạm chính qua nghiên cứu ngẫu nhiên 175 bản án
hình sự sơ thẩm của các Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã xét xử từ ngày
01/01/2020 đến ngày 31/7/2020 ............................................................................. 51



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (10/12/1948) của Đại Hội đồng
Liên hợp quốc đã tuyên bố: "Mọi người đều có quyền sống và quyền an toàn về cá
nhân". Tuyên ngôn cho thấy, trong cuộc sống của con người thì những lợi ích về
nhân thân (tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm) có ý nghĩa quan trọng nhất.
Mặt khác, quyền sống là quyền trước tiên và quan trọng nhất của con người. Mọi
hành vi xâm phạm quyền sống của con người đều bị coi là hành vi phạm tội nghiêm
trọng nhất và phải bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật. Việt Nam đã thừa
nhận và cam kết thực hiện tốt nhất các quyền ấy. Các bản Hiến pháp (1946, 1959,
1980, 1992, 2013) đều thể hiện tinh thần đó. Điều 71 Hiến pháp hiện hành quy định:
"Mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…" [20, tr.144]. Mọi hành vi xâm
phạm đến quyền được sống của con người (dù là với lỗi cố ý hay vô ý) đều bị coi là
tội phạm và bị xử lý bằng pháp luật hình sự trên những cơ sở chung. Bộ luật hình sự
Việt Nam đều đã quy định những hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi trực
tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bình Định nói chung,
giai đoạn 2015 – 2020 nói riêng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh, Bình
Định đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Song song với việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh đặc biệt quan tâm đến
vấn đề bảo đảm quyền của công dân, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, đặc biệt là quyền sống.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên
nhân, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói
riêng diễn ra tương đối nghiêm trọng và phức tạp.
Thực tiễn xét xử của các tòa án ở tỉnh Bình Định cho thấy, việc đánh giá
chứng cứ trong những vụ án này rất phức tạp; bởi lẽ, văn bản pháp luật để các Tòa

1



án áp dụng trong việc xét xử đối với loại tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó
đã và đang gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử cũng như trong chủ động phòng và
đấu tranh chống tội phạm, gây ảnh hưởng tới việc phát hiện chính xác, nhanh chóng
và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội; gây tổn hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong một mức độ nhất định, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về
các tội vô ý làm chết người còn chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng
bộ; đặc biệt là thiếu quy phạm định nghĩa và các quy định liên quan đến các yếu tố định
tội danh và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống
nhất trong việc nhận thức các dấu hiệu pháp lý, việc định tội danh và đường lối xử lý
đối với các tội phạm này. Có trường hợp không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, sự khác nhau giữa các tội vô ý làm chết
người với một số tội phạm khác có cùng tính chất lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự như:
tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông (Điều 281),
tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy (Điều 313) v.v...
Vì vậy, để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề lý
luận về cấu thành tội phạm này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử đối với
các tội vô ý làm chết người ở Bình Định, từ đó, đề xuất, kiến nghị tiếp tục hoàn
thiện pháp luật hình sự; đồng thời qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm này, trên phạm vi cả nước nói chung, Bình Định, nói riêng,
thì việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn
tỉnh Bình Định" làm luận văn thạc sĩ Luật học là hết sức cần thiết và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Đề tài đã được nghiên cứu, đề cập ở mức độ nhất định cả về lý luận và thực
tiễn.
Về mặt thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao đã có các văn bản hướng dẫn việc

xử lý một số khía cạnh liên quan đến các tội này như Nghị quyết số 01/2006/NQ-

2


HĐTP, ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm
1999; Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 giải đáp các vấn đề nghiệp
vụ.v.v. Tuy nhiên, những hướng dẫn trong các văn bản này mới chỉ đề cập tới từng
trường hợp phạm tội cụ thể, những khái niệm của hành vi phạm tội vô ý làm chết
người nêu trong những hướng dẫn trên cũng chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn
trong việc áp dụng trong thực tiễn, chưa đủ tác dụng để đấu tranh, phòng ngừa với
loại tội phạm này.
Về mặt khoa học pháp lý, việc nghiên cứu các tội vô ý làm chết người đã
được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo
luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam và một số cơ sở
đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số giáo trình, sách chuyên khảo hay những
bài viết như: GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Chương IV- Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, trong Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), tập thể tác giả do TSKH.GS Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2013.
Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số
công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế như Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 1999 - Phần chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; Bình luận chuyên sâu
Bộ luật hình sự, tập I, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2013; TS. Nguyễn Đức Mai,
Phân biệt tội gây thương tích dẫn đến chết người với tội giết người và tội vô ý làm
chết người, Tạp chí Tòa án nhân dân số 07/2008; PGS.TS Trần Văn Luyện, Những

điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
05/2011; TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác
xâm phạm tính mạng con người, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04/2013. Bên cạnh

3


đó, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành
Tư pháp hình sự nghiên cứu các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con
người, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến các tội vô ý
làm chết người.
Đặc biệt, đề tài Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn Bình Định thì chưa có
công trình nào nghiên cứu.
Từ góc độ lý luận và thực tiễn nghiên cứu cho thấy: các công trình nghiên
cứu nêu trên đã phần nào làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm, dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của cả nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người, trong đó có các tội vô ý làm chết người; nhưng dưới góc độ khoa học pháp
lý, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các
vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm chết người ở Bình Định,
dưới cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Do đó, đây là một đề tài hoàn toàn mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp
lý cơ bản của các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam năm 2015,
như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội;
phân biệt các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình
sự; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người người ở
Bình Định, từ năm 2015 đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về xử lý các loại tội
phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ:

4


Một là, một số vấn đề lý luận về các tội vô ý làm chết người, lịch sử phát
triển của luật hình sự Việt Nam về tội phạm này.
Hai là, nghiên cứu quy định của bộ Luật Hình sự năm 2015 về các tội vô ý
làm chết người;
Ba là, thực tiễn xét xử về các tội vô ý làm chết người trên địa bàn tỉnh Bình
Định, giai đoạn 2015-2020.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định của bộ Luật Hình sự năm 2015 về các tội vô ý làm chết người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của
luận văn tập trung vào những vấn đề lý luận chung và thực tiễn xét xử đối với các
tội vô ý làm chết người ở Bình Định, giai đoạn 2015 – 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp
luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình… để phân tích và luận

chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi vô ý làm chết người trong
khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông qua nghiên cứu số liệu thực tiễn
xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bình Định, từ 2015 đến năm 2020 và các bản án
hình sự cụ thể của một số tòa án ở các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh để đánh
giá. Từ đó, chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên

5


nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội vô ý làm chết người ở
khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ
cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên
quan đến các tội vô ý làm chết người, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống những tội này hiện nay và sắp tới ở Bình Định nói riêng, cả
nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định các tội vô ý làm chết người trong
Luật hình sự Việt Nam năm 2015.
Chương 2 : Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội vô ý làm chết người
và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định.


Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm
chết người.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ Ý
LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 2015
1.1. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm
được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi theo luật hình sự Việt Nam
Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình gây ra. Nguyên tắc có lỗi
là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Mặc dù hành vi
của họ có gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng nếu họ không có lỗi thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là
tội phạm khi được thực hiện một cách có lỗi. Do đó, lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và với hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do hành vi ấy gây ra thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý hay vô ý. "Một
người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ vì họ đã có hành vi nguy hiểm cho
xã hội, mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [23, tr.87].
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự tồn tại, thay đổi và phát triển
của mọi hiện tượng đều chịu sự chi phối của những quy luật khách quan. Hoạt động
của con người cũng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan. Tuy vậy, nhờ hoạt
động có ý thức, con người có khả năng nhận thức được quy luật và hành động theo quy
luật, lợi dụng quy luật để thực hiện mục đích của mình, đó là sự tự do của con người.

Tuy nhiên, con người chỉ có thể tự do thực sự khi xử sự của họ phù hợp với quy luật,
nếu không phù hợp với quy luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, tự do và trách nhiệm là hai phương diện
của một vấn đề, không thể có trách nhiệm mà không được tự do, cũng như không thể
có tự do không liên quan gì đến trách nhiệm đối với người khác, đối với xã hội. Tự
do không phải bẩm sinh con người có được mà gắn với quá trình hoạt động, lịch sử
7


phát triển của loài người.
Trách nhiệm được hiểu là khả năng của con người ý thức được những kết
quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những
nghĩa vụ được đặt ra cho mình. Cũng như tự do, trách nhiệm của con người được
quy định bởi những nhu cầu phát triển của đời sống con người. Dưới hình thái tích
cực, trách nhiệm thể hiện ở những hoạt động nhằm duy trì, phát triển trật tự xã hội,
pháp chế, đạo đức. Còn dưới hình thái tiêu cực, trách nhiệm phát sinh từ những lợi
ích của xã hội và của con người bị vi phạm, khi không thực hiện đầy đủ trách nhiệm
với xã hội thì người đó phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Có thể nói, con người có
trách nhiệm là con người thấy trước những hậu quả của hành động của mình, cố
gắng ngăn chặn những tác hại có thể xảy ra đối với lợi ích của xã hội.
Đòi hỏi của xã hội nhằm thực hiện sự tiến bộ, sự phát triển theo tất yếu
khách quan, việc thực hiện những đòi hỏi của xã hội cũng chính là thực hiện sự tự
do. "Con người có tự do để thực hiện trách nhiệm và thực hiện đầy đủ trách nhiệm
cũng là sự thực hiện tự do" [23, tr.86].
Con người trong xã hội có khả năng thực tế để tự do, nhưng trong xã hội vẫn
có những hành vi phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật và những hành vi trái đạo đức.
Đối với những hành vi này, xã hội và Nhà nước có quyền buộc họ phải chịu trách
nhiệm về hậu quả của việc không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên cơ sở quyền
hạn của tự do. "Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một
người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, của xã hội thì

có nghĩa họ là người có lỗi, trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi" [23, tr.86].
Cơ sở lý luận của lỗi là tự do, trách nhiệm. Lỗi là một dấu hiệu của tất cả các
cấu thành tội phạm, đòi hỏi phải được xác định trong mọi trường hợp khi áp dụng
luật hình sự. Việc ghi nhận nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự chính là sự thừa
nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người. Xác định lỗi đúng là một điều kiện
cần thiết định tội danh, nếu xác định lỗi sai thì sẽ dẫn đến định tội danh sai. Trong
thực tiễn, việc xác định lỗi trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Để có thể xác định
lỗi một cách chính xác, đòi hỏi phải nắm vững những dấu hiệu về hình thức cấu trúc

8


tâm lý của các loại lỗi đã được mô tả trong các điều luật của Bộ luật hình sự và hiểu
rõ bản chất của lỗi nói chung cũng như mặt nội dung của từng loại. "Trên cơ sở
nhận thức đầy đủ về lỗi và từng loại lỗi mới có thể có được phương pháp đúng
trong việc xác định lỗi trong những trường hợp phạm tội cụ thể" [51, tr.25].
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau trong khoa học luật hình sự Việt Nam,
song về cơ bản, các quan điểm đều thống nhất về nội hàm của chế định lỗi là: nhằm
xác định rõ lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài của
tội phạm.
Có quan điểm định nghĩa lỗi căn cứ vào mặt hình thức của lỗi như sau: "Lỗi
là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý"
[22, tr.101].
Lỗi còn được định nghĩa theo đặc điểm cấu trúc tâm lý, cụ thể là: "Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện nhận thức
được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã
hội" [23, tr.91].
Có quan điểm cho rằng:

Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong những điều kiện bắt
buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái độ tâm lý của người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây
nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [9, tr.422].
Trên cơ sở những quan điểm khác nhau về lỗi nêu trên và căn cứ vào các quy
định về lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm về lỗi như sau:
Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự quy định là tội phạm mà họ đã thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Dựa vào các yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, trong cả ba

9


lĩnh vực thể hiện của luật hình sự Việt Nam (pháp luật hình sự thực định, lý luận và
xét xử) bao gồm hai hình thức lỗi - cố ý và vô ý. Hình thức lỗi cố ý được phân chia
thành hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Hình thức lỗi vô ý được chia
thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì quá tự tin và vô ý phạm tội vì cẩu thả.
1.1.2. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm
được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa "vô ý" là "không để ý đến" [56, tr.1329]. Do đó,
phạm tội do lỗi vô ý được hiểu là người phạm tội do bất cẩn, không để ý các quy
tắc, quy định của đời sống xã hội nên đã gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
tài sản... của người khác.
Vì thế, "Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội do không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đó. Nói
cách khác, không giống như lỗi cố ý, ở trường hợp lỗi vô ý người phạm tội không lựa
chọn hành vi phạm tội" [23, tr.97]. Có thể nhận thấy lỗi vô ý có các dấu hiệu cơ bản:
Một là, người phạm tội không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của

hành vi của mình khi quyết định thực hiện hành vi đó.
Hai là, người phạm tội có đủ điều kiện để nhận thức được vấn đề đó và có
điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Vì vậy, họ đã thực hiện hành vi do không nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi do họ thực hiện. Vì thế, tội phạm do lỗi vô ý nhìn chung chỉ
nguy hiểm khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hành vi được thực hiện do lỗi vô ý có
mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi phạm tội thực hiện do lỗi cố ý.
Các trường hợp người phạm tội không nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm cho xã
hội (mặc dù có đủ điều kiện để nhận thức được) có thể xảy ra như sau:
Thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được tính chất thực tế của hành vi
và do vậy không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi đó.
Thứ hai, người phạm tội tuy có khả năng nhận thức được tính chất thực tế
của hành vi nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu quả nguy

10


hiểm cho xã hội của hành vi của mình.
Thứ ba, người phạm tội nhận thức được tính chất thực tế của hành vi, nhận
thức được hậu quả xảy ra nhưng sau khi cân nhắc đã loại trừ khả năng đó khi lựa
chọn hành vi. So với lỗi cố ý thì đây là điểm khác nhau cơ bản, vì trong trường hợp
lỗi cố ý, người phạm tội đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực
hiện hành vi. "Trong trường hợp lỗi vô ý, người phạm tội loại trừ khả năng đó và
cho rằng hậu quả không xảy ra" [25, tr.151].
Dựa vào việc người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi trong những trường hợp có lỗi vô ý, khoa học luật hình sự
phân lỗi vô ý thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì cẩu thả và vô ý phạm tội vì quá
tự tin. Cách phân chia này cho thấy, lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả bao gồm những
trường hợp người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội

của hành vi (không thấy trước hậu quả). Trường hợp không nhận thức được đầy đủ
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra
nhưng đã tự loại trừ khả năng đó thuộc hình thức lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy, hành vi phạm tội do lỗi vô ý thường được biểu
hiện dưới các hình thức như: thiếu kỷ luật trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao;
thái độ bất cẩn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; thiếu tinh thần trách nhiệm trong
công tác chuyên môn nghiệp vụ.v.v.
Các lĩnh vực thường xảy ra tội phạm do lỗi vô ý là các tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông, vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy; vi
phạm quy định về bảo đảm an toàn trong sử dụng điện, xây dựng, lao động, vệ sinh an
toàn thực phẩm, khám chữa bệnh, quản lý, sử dụng dược liệu và các dịch vụ y tế. Trên
cơ sở này, các nhà làm luật đã cụ thể hóa thành các tội phạm cụ thể để xử lý những
người nào có hành vi xâm phạm đến, qua đó bảo đảm trật tự an toàn xã hội chung.
Quan điểm của các nhà làm luật hình sự ở nước ta hiện nay, tập trung xử lý các
tội phạm do lỗi cố ý. Tuy vậy, việc quy định tội phạm và hình phạt đối với các hành vi
nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý là vấn đề cần thiết; bởi vì, chính sách hình sự của Nhà
nước được quyết định bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật hình sự

11


được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc nhất định của chính sách hình sự. Một đòi hỏi
quan trọng khi áp dụng pháp luật hình sự là phải bảo đảm việc xác định chính xác trách
nhiệm pháp lý. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu
quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu và được thể hiện bằng
một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được pháp luật quy định.
Thực tiễn cho thấy, cần phải xây dựng và áp dụng những quy định nghiêm
khắc đối với các hành vi tuy được thực hiện với lỗi vô ý nhưng đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Vì theo nguyên tắc pháp chế, một đòi hỏi quan trọng khi áp dụng pháp
luật hình sự là phải bảo đảm áp dụng đầy đủ và chính xác các quy định để xử lý đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội.
Tuy thế, những tội phạm do lỗi vô ý phần lớn xuất phát từ những nguyên nhân khách
quan. Trong khi đó, pháp luật hình sự chỉ thực sự có giá trị và phát huy tác dụng khi
tác động có hiệu quả tới nhận thức chủ quan của con người. Mặt khác, trong nhiều
trường hợp, việc giữ gìn trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống xã hội,
cũng như nâng cao trách nhiệm trong công tác chuyên môn, nghề nghiệp đối với các
quy tắc an toàn xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và ý muốn của con
người, mà còn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện khách quan như khả năng kinh tế, trình
độ khoa học kỹ thuật, các phương tiện đảm bảo an toàn. Ngoài ra, còn phụ thuộc
nhiều vào ý thức tuân thủ pháp luật và kỷ luật của con người; vì vậy, nếu áp dụng
những hình phạt nghiêm khắc đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì tác
dụng của luật hình sự đối với những hành vi này là rất hạn chế và trong nhiều trường
hợp, đi ngược lại quan điểm nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội nói chung và những hành vi được
thực hiện với lỗi vô ý nói riêng, việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
nhằm đảm bảo việc giáo dục ý thức pháp luật, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong mọi
hoạt động của đời sống xã hội, cũng như nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức trong công tác chuyên môn, nghề nghiệp là cần thiết. Mặt khác, để thực hiện
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, đòi hỏi phải có sự bình đẳng khi quy định
và áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt giữa những người phạm tội do lỗi cố ý

12


cũng như phạm tội do lỗi vô ý. Vì thế, trong công tác xây dựng và áp dụng pháp
luật, cũng cần quan tâm đến lợi ích của bản thân người phạm tội, việc áp dụng loại
và mức hình phạt chỉ đến mức cần và đủ và đạt được mục đích của hình phạt, chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp vô ý phạm tội gây hậu quả
nghiêm trọng qua đó bảo đảm sự công bằng và nguyên tắc nhân đạo của pháp luật
hình sự, cũng như đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và việc quy định
các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý nói riêng, người làm luận văn
cho rằng: Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội khi hành động đã không có ý thức
lựa chọn cách thức phạm tội, họ đã thực hiện tội phạm trong khi có đủ điều kiện để
lựa chọn một hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội; ngoài ra, người phạm tội
vì không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc tuy thấy trước
nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra; vì vậy, họ không nhận thức được hành vi
sẽ thực hiện là hành vi phạm tội.
1.2. Khái niệm tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và phân biệt các tội phạm
này với một số tội phạm khác theo luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tội vô ý làm chết người
Khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, dù còn có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm tội vô ý làm chết người, song nhìn chung các quan điểm đó vẫn
thống nhất trong việc nêu ra nội dung và bản chất pháp lý của tội phạm này.
Có quan điểm cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người không
thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết
người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra" [34, tr.103]. Quan điểm này dựa trên
các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (Điều 128) để định nghĩa, nhưng chưa
nêu được dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
Có quan điểm lại cho rằng:"Vô ý làm chết người được hiểu là trường hợp
hành vi vô ý của một người làm cho người khác bị chết" [58, tr.81].

13


Quan điểm khác cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người
không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù
phải thấy trước và có thể thấy trước nhưng tin rằng hậu quả chết người không xảy

ra" [2, tr.114].
Như vậy, các quan điểm trên, nhìn chung chưa nêu được dấu hiệu chủ thể
của tội phạm, cũng như chưa phản ánh rõ ràng hành vi khách quan của tội phạm.
Mặt khác, có quan điểm cụ thể hóa hơn biểu hiện của hành vi phạm tội vô ý
làm chết người và đã nêu tương đối đầy đủ nội dung khái niệm tội phạm này, song
vẫn thiếu dấu hiệu chủ thể của tội phạm, theo đó:
Vô ý làm chết người là trường hợp vô ý gây ra hậu quả chết người do vi phạm
quy tắc an toàn về tính mạng, sức khỏe trong những lĩnh vực khác nhau của hoạt
động chung xã hội. Những quy tắc này có thể đã được quy phạm hóa hoặc có thể chỉ
là những quy tắc xử sự xã hội thông thường đã trở thành nếp quen sinh hoạt, mọi
người đều biết và thừa nhận. Trong Bộ luật hình sự có nhiều tội danh khác nhau
được quy định cho hành vi vô ý làm chết người, tùy thuộc vào lĩnh vực có quy tắc an
toàn mà chủ thể đã vi phạm. Các trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
an toàn công cộng (an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn trong xây dựng, an
toàn trong quản lý vũ khí...) được quy định thành những tội danh khác nhau thuộc
nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng. Tội vô ý làm chết người được quy định
trong Chương "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người" gồm những trường hợp vô ý làm chết người còn lại chưa được quy định thành
các tội riêng [25, tr.297].
Tuy vậy, qua nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và các tội
phạm được thực hiện do lỗi vô ý nói riêng, người làm luận văn tán thành với cách
lập luận về tội vô ý làm chết người như sau:
Vô ý làm chết người là trường hợp người phạm tội có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự đã có hành vi vi phạm quy
tắc an toàn nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người. Các quy tắc
đó thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định trong các văn bản quy

14



phạm pháp luật hoặc có thể chỉ là những quy tắc xử sự thông thường đã trở thành tập
quán sinh hoạt, được mọi người biết và thừa nhận. Hậu quả của hành vi vi phạm là
dẫn đến hậu quả chết người, đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Người phạm tội có thể thực hiện tội phạm do vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
Trên cơ sở phân tích nêu trên, người làm luận văn đưa một khái niệm về tội
phạm này như sau: Tội vô ý làm chết người là hành vi của một người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự, không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước
hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả chết người, nhưng cho rằng
hậu quả chết người sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được và trên thực tế đã
gây ra hậu quả làm chết người.
1.2.2. Khái niệm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
hoặc quy tắc hành chính
Dưới góc độ khoa học Luật hình sự, giống như tội vô ý làm chết người, khái
niệm đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng:
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
là trường hợp đặc biệt của tội vô ý làm chết người. Các quy tắc an toàn bị vi phạm
trong trường hợp này là quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và người phạm
tội là người có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
đó [22, tr.304].
Quan điểm nêu trên ưu điểm là nêu được khách thể của tội phạm xâm phạm
đến, nhưng ở chừng mực nhất định, chưa nêu được cụ thể hành vi phạm tội và dấu
hiệu chủ thể của tội phạm này.
Quan điểm khác cho rằng: "Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính được hiểu là hành vi vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Đây là trường hợp đặc biệt của
tội vô ý làm chết người" [58, tr.83]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi


15


vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính chứ
chưa làm rõ khái niệm của tội phạm này. Mặt khác, hành vi phạm tội khác tội phạm,
vì khái niệm tội phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8 Bộ luật hình
sự năm 2015.
Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng:
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
là trường hợp làm chết người do không thực hiện đúng những quy tắc về an toàn lao
động mà người phạm tội phải có trách nhiệm hay nghĩa vụ do nghề nghiệp quy
định...
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính là trường hợp làm chết
người do không thực hiện đúng những quy tắc xã hội do luật hành chính quy định...
Các quy phạm hành chính tương đối rộng, vì các quan hệ xã hội nếu không do ngành
luật khác điều chỉnh thì hầu hết do luật hành chính điều chỉnh [34, tr.107].
Quan điểm trên có điểm hợp lý là phù hợp với các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam, nhưng dưới góc độ khoa học trong khái niệm đã nêu chưa thể
hiện dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Thông qua việc nghiên cứu và tiếp thu các điểm hợp lý trong các quan điểm
nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về tội phạm này như sau: Tội vô ý làm chết người
do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là trường hợp người phạm
tội do không thực hiện đúng những quy định về an toàn và quy tắc hành chính mà
do tính chất nghề nghiệp họ phải có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm thực hiện, gây hậu
quả làm chết người.
Mặt khác, nghiên cứu các khái niệm trên, có thể thấy giữa các cấu thành các
tội phạm này có mối liên hệ đặc biệt, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129 Bộ luật hình sự năm 2015) được
tách ra từ tội vô ý làm chết người (Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985). So sánh hai
tội này thấy rằng loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù có thời hạn; tội

vô ý làm chết người có mức hình phạt tù cao nhất là mười năm; còn tội vụ ý làm
chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính có hình phạt

16


cao nhất là mười hai năm, ngoài ra còn quy định cả hình phạt bổ sung đối với tội
này. Có thể nói, giữa hai tội này thể hiện mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm bình
thường (Điều 128) và cấu thành tội phạm tăng nặng (Điều 129).
1.3. Các tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 2015
Mặt trái nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Tình
hình tội phạm cũng diễn biến phức tạp, Bộ luật hình sự năm 1999, cũng đã bộc lộ
những hạn chế, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999 là một đòi hỏi khách
quan. Vì thế, ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII tại kỳ họp thứ 10, đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2015, thay thế cho
Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 (sau đây viết tắt là Bộ luật
hình sự năm 2015).
Theo Bộ luật hình sự năm 2015, tội vô ý làm chết người được tách thành hai
tội riêng biệt là tội vô ý làm chết người (Điều 128) và tội vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129). "Sở dĩ Bộ luật hình sự
tách thành hai tội riêng biệt là nhằm mục đích cụ thể hóa chính sách hình sự, có lợi
cho người phạm tội và bảo đảm sự công bằng trong việc điều tra, truy tố và xét xử"
[1, tr.129].
1.3.1. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vô ý làm chết người
Việc làm rõ khái niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vô ý
làm chết người qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm - khách thể của tội phạm, mặt khách
quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh
và xét xử được chính xác. Vì dấu hiệu pháp lý hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội

phạm có tính đặc trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất
và dùng để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Cụ thể:
a) Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội vô ý làm chết người là quyền sống, quyền được tôn trọng
và bảo vệ tính mạng - một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự

17


Việt Nam bảo vệ. Nói cách khác, khách thể được bảo vệ là những người đang sống,
tồn tại trong thế giới khách quan, với tư cách là con người - thực thể tự nhiên và xã
hội.
b) Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người là người phạm tội vi phạm
các quy định an toàn nhằm đảm bảo cho tính mạng, sức khỏe của con người nên đã
gây ra thiệt hại về tính mạng của con người. Dấu hiệu hậu quả chết người là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình
sự một người về tội vô ý làm chết người là hành vi của người đó phải gây hậu quả
chết người. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xẩy ra cũng là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
về hậu quả chết người đã xảy ra nếu hành vi vi phạm của họ gây ra hậu quả này.
Điều 128 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội vô ý làm chết người như
sau:
“1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”.
c) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội vô ý làm chết người là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự. Tình trạng có
năng lực trách nhiệm hình sự là thuộc tính mang tính phổ biến và bao quát ở tất cả

các con người. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 12 Bộ luật hình sự quy
định như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt

18


tài sản”.
Về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định riêng
tại một trong các điều khác của Bộ luật hình sự năm 2015.
Do đó, từ Điều 128 và Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 cho thấy tội vô ý
làm chết người - khoản 1 - tội phạm nghiêm trọng; vì vậy, chủ thể của tội phạm này
là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự; khoản 2 - tội phạm
rất nghiêm trọng, tuy nhiên đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều này (vì họ chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng).
d) Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý, thường rơi vào hai trường hợp sau đây:
Một là, vô ý vì cẩu thả, người phạm tội không thấy trước được hậu quả chết người mà
hành vi của mình gây ra, mặc dù trong trường hợp cụ thể đó, họ phải thấy trước và có
đủ điều kiện thấy trước hậu quả chết người xảy ra.
Hai là, vô ý vì quá tự tin, người phạm tội nhận thức hành vi vi phạm của mình là
nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng đã quá tự tin là hậu quả
đó sẽ không xảy ra, nhưng thực tế là hậu quả đó đã xảy ra.

đ) Hình phạt
Hình phạt đối với tội vô ý làm chết người được chia thành hai khoản với tình
tiết định khung, mức và loại hình phạt như sau:
- Trong khoản 1 (cấu thành cơ bản) quy định hình phạt tù từ 01 năm đến năm
năm trong trường hợp làm chết một người.
- Trong khoản 2 (cấu thành tăng nặng) quy định hình phạt tù từ ba năm đến
mười năm trong trường hợp làm chết nhiều người.
Tuy vậy, trong thực tế có trường hợp cùng một hành vi nhưng làm chết một
người và gây thương tích cho một người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Vậy sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội như thế nào? Theo quan điểm
của tác giả luận văn, cần truy cứu người phạm tội về cả hai tội là tội vô ý làm chết

19


×