Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

tình huống tội vô ý làm chết người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.38 KB, 5 trang )

Bài 7
X và P rủ nhau đi săn thú rừng, khi đi X và P mỗi người mang
theo khẩu súng săn tự chế. Hai người thoả thuận người nào phát
hiện có thú dữ, trước khi bắn sẽ huýt sáo 3 lần, nếu không thấy
phản ứng gì sẽ bắn. Sau đó họ chia tay mỗi người một ngả. Khi X
đi được khoảng 200 mét, X nghe có tiếng động, cách X khoảng
25 mét. X huýt sao 3 lần nhưng không nghe phản ứng gì của P. X
bật đèn soi về phía có tiếng động thấy có ánh mắt con thú phản
lại nên nhằm bắn về phía con thú. Sau đó, X chạy đến thì phát
hiện P đã bị trúng đạn nhưng chưa chết hẳn. X vội đưa P đến
trạm xá địa phương để cấp cứu, nhưng P đã chết trên đường đi.
HỎI:
1. Xác định tội danh của X? (5 điểm)
2. Giả sử P không chết chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật là 29%, X
có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao? (2 điểm)
1
1. xác định tội anh của X?
Căn cứ vào tình huống đã cho thì X phạm tội vô ý làm chết người theo
khoản 1 Điều 98 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định:
“Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
Phân tích CTTP của tội vô ý làm chêt người ta thấy X trong tình huống
trên đã thỏa mãn những dấu hiệu của tội này, đó là:
*Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vô ý làm chết người là chủ thể
thường, là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Trong khuôn
khổ của tình huống đã cho thì là người có đủ năng lực TNHS và đạt độ
tuổi luật định.
*Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội vô ý làm chết người là quyền
nhân thân, đây là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật
hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống quyền được tôn trọng và bảo vệ tính
mạng. Đối tượng của tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và
bảo vệ về tính mạng. Đó là những người đang sống, những người đang


tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con người – thực thể tự
nhiên và xã hội. Như vậy, trong tình huống trên X tước đoạt tính mạng
của P, xâm phạm tới quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ.
*Mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của tội phạm: Người phạm tội có hành vi vi phạm
quy tắc an toàn. Đó là những quy tắc nhằm bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe cho con người. Những quy tắc đó thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau, có thể đã được quy phạm hóa hoặc có thể là những quy tắc xử
sự xã hội thông thường đã trở thành những tập quán sinh hoạt, mọi người
đều biết và thừa nhận. Trong tình huống trên thì X và P rủ nhau đi săn thú
rừng và hai người thỏa thuận người nào phát hiện có thú dữ, trước khi
bắn sẽ huýt sáo 3 lần nếu không thấy phản ứng gì thì sẽ bắn. Sau đó X lên
phía đồi còn P xuống khe cạn. Và khi X nghe thấy có tiếng động, đã X
huýt sáo 3 lần nhưng không nghe thấy phản ứng gì của P. X bật đèn soi
2
về phìa có tiếng động thấy có ánh mắt con thú phản lại nên nhằm bắn về
phía con thú. Sau đó, X xách súng chạy đến thì phát hiện là P đã bị trúng
đạn nhưng chưa chết hẳn. X vội vã đưa P đi đến trạm xá địa phương
nhưng P đã chết trên đường đi cấp cứu. Như vậy, hành vi của X do không
cẩn thận xem xét kỹ lưỡng trong khi đi săn nên đã để đạn lạc vào người P
làm cho P chết.
- Hậu quả của tội phạm: Hành vi vi phạm nói trên phải đã gây ra hậu quả
chết người. Hậu quả này là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Trong tình
huống trên thì hành vi của X đã gây ra hậu quả làm cho P chết.
- Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: QHNQ giữa
hành vi vi phạm và hậu quả đã xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu TNHS về hậu quả chết người đã
xảy ra, nếu hành vi vi phạm của họ đã gây ra hậu quả này hay nói cách
khác là giữa hành vi vi phạm của họ và hậu quả chết người có QHNQ với
nhau.Trong tình huống trên thì hậu quả chết người của P là do hành vi

của X gây ra. Đò là X nhằm bắn về phía con thú nhưng đã bắn sang P,
hậu quả là làm cho P chết, như vậy nguyên nhân P chết là do hành vi bắn
súng của X vào người P.
* Mặt chủ quan của tội phạm: Trong trường hợp này, X phạm tội vô ý
làm chết người với lỗi vô ý vì quá tự tin. Bởi vì X tuy thấy hành vi của
mình có thể ra hậu quả làm chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả chết người đó.
-Về lí trí: X nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả làm chết người do hành vi của
mình có thể gây ra nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra.
Như vậy, sự thấy trước hậu quả làm chết người ở đây thực chất chỉ là sự
cân nhắc đến khả năng hậu quả đó xảy ra hay không và kết quả người
phạm tội đã loại trừ khả năng hậu đó quả xảy ra.
3
-Về ý chí: X không mong muốn hành vi của mình sẽ gây ra cái chết cho
P, nó thể hiện ở chỗ, sự không mong muốn hậu quả của X gắn liền với
việc X đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. X đã cân nhắc, tính toán trước
khi hành động, thể hiện ở chỗ X đã huýt sáo như thỏa thuận với P và chỉ
đến khi không nghe thấy phản ứng gì của P, X mới nhằm bắn về phía có
ánh mắt con thú nhưng hậu quả là đã bắn chết P. Và khi X xách súng
chạy đến thì phát hiện P đã bị trúng đạn nhưng chưa chết hẳn, X đã vội
đưa P đến trạm xá địa phương để cấp cứu, nhưng P đã chết trên đường đi.
Điều này đã chứng tỏ X không mong muốn hậu quả chết người xảy ra.
Như vậy, hình thức lỗi của X trong trường hợp trên là lỗi vô ý vi quá tự
tin.
Ngoài ra, trong trường hợp này X đã đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi
luật định sẽ bị phạt hành chính vì sử dụng vũ khí cấm tại khoản 3 Điều 13
Nghị định số 73/2010/NĐ – CP quy định về sử phạt hành chính trong lĩnh
vực an ninh và trật tự xã hội.
2. Giả sử P không chết chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật là 29%, X có

phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao?
X không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo nội dung tình huống của đề bài và hậu quả là P bị thương, với tỷ lệ
thương tật là 29%. Thì hành vi của X là đã vô ý gây thương tích cho P với
lỗi vô ý vì quá tự tin. Và căn cứ vào khoản 1 Điều 108 BLHS năm 1999,
sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Người nào vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở
lên, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm.”
 Vậy, với hậu quả P không chết chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật 29%, thì
X không phải chịu TNHS nhưng X sẽ bị xử phạt hành chính về hành vi
của mình theo Nghị Quyết 03/2006 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Tập I, II; Nxb.CAND, Hà Nội, 2007.
- Bộ luật hình sự Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (đã
được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009), Nxb.Lao Động - Xã Hội.
- Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 Quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an
toàn xã hội.
- Nghị Quyết 03/2006 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
5

×