Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Luận văn thực hiện chính sách đối với người khuyết tật trên địa bàn thành phố tam kỳ, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.41 KB, 59 trang )

VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ KIM PHƯỢNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM KỲ,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – năm 2020


VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ KIM PHƯỢNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM KỲ,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THÚY HẰNG

HÀ NỘI – năm 2020




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập với toàn thế giới trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, đặc
biệt chú trọng tới nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Mỗi con
người sống trong cuộc sống này đều có những số phận khác nhau. Cuộc sống
vốn không có sự hoàn hảo toàn vẹn, có người giàu, người nghèo, người hạnh
phúc, người bất hạnh, đó là bức tranh toàn cảnh về xã hội.
Con người ai cũng có những mong ước, điều mong ước giản dị nhất là
có một cuộc sống bình thường như những người bình thường khác. Có những
người suốt cả cuộc đời không thể bước đi trên đôi chân của mình, có những
người ao ước được một lần nhìn thấy ánh sáng…Đó là phần không may mắn
mà người khuyết tật (NKT) đang phải gánh chịu.
NKT là một bộ phận không nhỏ của thế giới, trong bất kỳ một xã hội
nào dù phát triển hay kém phát triển, dù phải hứng chịu chiến tranh hay không
phải trải qua chiến tranh cũng tồn tại một bộ phận người khuyết tật. Việt Nam
là một đất nước nghèo, trải qua mấy chục năm chiến tranh, vì thế một bộ phận
NKT là một phần của dân số nước ta. Chính vì thế NKT là những người được
đặc biệt quan tâm, chăm sóc từ cộng đồng trong xã hội, cả về vật chất lẫn tinh
thần.
Nhà nước cần phải có nhiều chính sách xã hội hỗ trợ NKT để họ được
tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp họ hòa nhập với cộng
đồng và trở thành người có ích cho xã hội. NKT luôn cảm thấy mặc cảm, tự ti
về khuyết điểm của mình, cuộc sống của họ bị bó hẹp trong một không gian
nhất định, sống thu hẹp, ngại giao lưu tiếp xúc với bên ngoài. Vì vậy, việc
thực hiện chính sách xã hội rất quan trọng, đặc biệt cho NKT trong tình hình
kinh tế, xã hội phát triển ngày nay. Đó thể hiện tinh thần tương thân tương ái,
1



lá lành đùm lá rách, giúp NKT vươn lên trong cuộc sống, làm chủ bản thân,
hòa nhập với cộng đồng, xã hội.
Ở nước ta, sau chiến tranh hàng triệu người bị thương và tàn tật, những
người còn sống tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế,
xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã gây ra. Ngoài hậu quả của chiến tranh,
việc gây ra khuyết tật còn do ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh, tai
nạn…Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Việt Nam đã có
nhiều chương trình đề án hỗ trợ NKT nhưng trong thời kỳ đó nước ta còn
nghèo do đó việc hỗ trợ , chăm sóc cho NKT là rất hạn chế.
Nhà nước đặc biệt quan tâm những người yếu thế trong xã hội, trong đó
có NKT. Chính sách xã hội dành cho NKT đã được hình thành cùng với
những chính sách xã hội cho các đối tượng khác. Hiện nay có rất nhiều chính
sách dành cho NKT. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật, Nghị định liên
quan đến NKT như: Luật NKT năm 2010, Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày
10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT,
Nghị định 136/20143/NĐ-CP ngày 21/10/2013 về quy định chính sách trợ
giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; đề án giúp NKT giai đoạn 20122020, nhiều chính sách cho NKT đã được xây dựng và tổ chức thực hiện. Các
văn bản đã quy định rất rõ những chính sách dành cho NKT, nhưng vẫn chưa
đáp ứng được cuộc sống tối thiểu của NKT, hiệu quả thực hiện chính sách
chưa cao. Hiện nay, có rất nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm tới đời
sống NKT, các chính sách trợ cấp Nhà nước không được triển khai hoặc thực
sự chưa hiệu quả, còn có nhiều NKT không hề biết về các chính sách, quyền
lợi mà họ đáng được hưởng.
Thành phố Tam Kỳ là một thành phố thuộc trung tâm tỉnh lỵ Quảng
Nam. Tổng diện tích tự nhiên 9.281,93 ha với dân số khoảng 122.374 người.
Theo thống kê của phòng Lao động và Thương binh Xã hội, hiện nay thành

2



phố Tam Kỳ có khoảng 3.199 người khuyết tật và nhiều người đang sống tại
gia đình và cộng đồng chưa được chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các dịch vụ
khác. Trước thực trạng này Đảng và Nhà nước đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách, đề án hỗ trợ người khuyết tật nhằm tạo điều kiện tốt nhất để NKT có
cuộc sống tốt đẹp và được hưởng đầy đủ các quyền về cả tinh thần và vật chất
như những người bình thường khác; cấp giấy phép hoạt động cho các Trung
tâm chăm sóc NKT, trung tâm phục hồi chức năng cho NKT, hỗ trợ chính
sách cho những người chăm sóc NKT, đưa các chương trình giáo dục phù hợp
cho NKT tại các cơ sở bảo trợ xã hội, các Trung tâm chăm sóc NKT, hỗ trợ
kinh phí nuôi dưỡng hàng tháng, thành phố đã tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề về các chính sách của Nhà nước đối với NKT. Song với số NKT
quá lớn như hiện nay, việc thực hiện chính sách đối với NKT chưa được đồng
bộ, thiếu kinh phí hoạt động, thiếu cán bộ, nhân viên có trình độ, chuyên môn
và kỹ năng trong lĩnh vự này, việc xác định mức độ khuyết tật của NKT còn
lúng túng và nhiều bất cập, nhiều trẻ em còn bị lãng quên và bị phân biệt, đối
xử. Để NKT phát triển với khả năng thực sự của mình, hòa nhập với gia đình,
với cộng đồng nơi sinh ra, đưa các chương trình chăm sóc y tế, phục hồi chức
năng và giáo dục hòa nhập tại cộng đồng là một vấn đề khó khăn và đầy thách
thức. Tháo gỡ và đổi mới công tác chăm sóc NKT như mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước ta đặt ra phải quan tâm đến việc xây dựng một hệ thống chích sách
đồng bộ, phù hợp cho NKT, đặc biệt trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta
hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài luận văn về “Thực hiện chính sách
đối với người khuyết tật trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam” là cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có ý nghĩa đóng
góp vào sự phát triển chung, nâng cao hiệu quả đối với người khuyết tật tại
TP Tam Kỳ.


3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nhiều năm qua, các vấn đề về NKT luôn nhận được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả, các chuyên gia với
nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, nhiều luận văn, các đề tài khoa học và các
công trình dưới dạng tài liệu tham khảo. Song, các công trình, đề tài nghiên
cứu nêu trên chỉ dừng lại ở một khía cạnh như: Đào tạo việc làm đối với
NKT; Thực trạng và giải pháp đối với NKT.... chưa thấy có công trình nào
nghiên cứu đầy đủ: Thực hiện chính sách đối với NKT.
Đề tài “Thực hiện chính sách đối với NKT trên địa bàn TP Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam” là một đề tài khá mới mẻ trong bối cảnh Việt Nam nói chung và
Tam Kỳ nói riêng đang tập trung nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các
chính sách đối với NKT.
- Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2008) đã công bố báo cáo nghiên
cứu Người khuyết tật ở Việt Nam từ kết quả điều tra xã hội tại Thái Bình,
Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục
đích giúp chúng ta hiểu sâu hơn những khó khăn đa dạng và nhiều mặt mà
người khuyết tật hiện đang gặp phải. Nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở thông
tin giúp cho việc hoàn thiện chính sách cũng như thiết kế các chương trình hỗ
trợ hiệu quả [34].
- Đề tài ”Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt
Nam”, của Nguyễn Hữu Toàn (2010). Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không
chỉ là cứu đói, hỗ trợ lương thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên
tai, chiến tranh, tai nạn, mà còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ
giúp đột xuất và trợ giúp thường xuyên. Đồng thời trong bài viết cũng chỉ ra
được số lượng người khuyết tật (2008) .
Tác giả Trần Nam, trong Mục chính sách và pháp luật, Hội nạn nhân
Chất độc Da cam/Dioxin – Việt Nam, năm 2012, “Chính sách đối với người


4


bị nhiễm chất độc hóa học còn nhiều bất cập”. Bài báo đề cập đến việc điều
tra, khảo sát các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/đi ô xin trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận; việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam còn
nhiều bất cập, gây thiệt thòi cho các đối tượng; một số kiến nghị với Chính
phủ và các bộ, ngành có liên quan như Bộ Lao động TBXH, Bộ Y tế sớm ban
hành Quy trình xác định nạn nhân chất độc da cam/Điôxin.
Tác giả Thụy Bình, trong Tạp chí người khuyết tật, năm 2015, bài
báo“Về vấn đề gia tăng và một số giải pháp gia tăng người khuyết tật”. Bài
báo đề cập đến các dạng khuyết tật, tỷ lệ người khuyết tật và trẻ em khuyết tật
đang có xu hướng gia tăng do điều kiện vị trí địa lý của nước ta, thời tiết khắc
nhiệt, ô nhiễm môi trường và do nguyên nhân nhiều gia đình có người khuyết
tật và người khuyết tật dấu tình trạng khuyết tật của mình. Bài báo đề cập giải
pháp giảm thiểu sự gia tăng người khuyết tật và trẻ em khuyết tật.
Tác giả Nguyễn Đức Minh, năm 2015, bài báo “Chính sách giáo dục
hòa nhập trẻ khuyết tật Việt Nam”.Đảng và Nhà nước đã tạo sự bình đẳng cho
trẻ em khuyết tật Việt Nam cơ hội tiếp cận với giáo dục hòa nhập, nhưng trên
thực tế tỷ lệ trẻ tiếp cận với lĩnh vực này còn rất hạn chế, đó là do những quy
định trong luật người khuyết tật chưa sát với thực tiễn, chính sách chưa cụ
thể, việc xác nhận là người khuyết tật thường được kiểm tra bằng y tế, chưa
sử dụng các hình thức kiểm tra tâm lý do đó nhiều trẻ em là trẻ khuyết tật
chưa được xác định đúng về mức độ khuyết tật của mình.
Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam, đề tài nghiên
cứu “Mô hình hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật tại cộng đồng” (2012) đã
nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn trong nước và quốc tế có liên quan đến
người khuyết tật, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và hỗ trợ sinh kế cho
NKT. Đồng thời tổng hợp đánh giá mô hình hỗ trợ sinh kế cho NKT ở nước

ta giai đoạn 2008 - 2010. Từ kết quả đánh giá thực tiễn đã xây dựng và đề

5


xuất mô hình phù hợp trong giai đoạn tới, bao gồm cả việc xác định mục tiêu,
tiêu chí, đối tượng, phương thức, cách thức tổ chức thực hiện, nguồn lực và
các giải pháp kèm theo. Đề xuất quan điểm, định hướng về công tác hỗ trợ
cho NKT giai đoạn 2011 - 2020 và nghiên cứu, xây dựng mô hình hỗ trợ sinh
kế cho NKT, cùng với hệ thống các giải pháp vĩ mô và vi mô để đưa ra mô
hình áp dụng để các địa phương trong phạm vi cả nước. Trong đó có đề cập
đến một số lĩnh vực liên quan đến các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ
sinh kế cho NKT [10].
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về người khuyết tật, nhưng chưa
có một nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống việc thực hiện chính sách
đối với người khuyết tật ở TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, do đó việc lựa chọn
của em không trùng với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống chính sách hiện có và thực trạng về thực hiện chính
sách đối với người khuyết tật tại TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, từ đó đề xuất
giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với NKT nói chung và tại TP
Tam Kỳ nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Rà soát và đánh giá lại cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với
NKT.
Hệ thống hóa chính sách của Việt Nam đối với NKT.
- Đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với NKT tại TP
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là quá trình Thực hiện chính sách đối với NKT TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng

6


Nam.
Thực hiện chính sách về bản chất là tổ chức các hoạt động để hiện thực
hoá mục tiêu chính sách, do đó có thể đánh giá thực hiện chính sách được tìm
hiểu ở các cấp độ: (1)Các hoạt động của cơ quan tổ chức thực hiện chính
sách; (2) Kết quả thực hiện; và (3) Tác động của thực hiện chính sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: địa bàn TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Phạm vi thời gian: nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với NKT ở
TP Tam Kỳ từ năm 2017 đến năm 2019.
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Trong luận văn này, Chính sách đối với
NKT được tìm hiểu thông qua các chính sách thành phần bao gồm chính sách
trợ cấp xă hội hàng tháng, chính sách trợ giúp y tế, chính sách trợ giúp giáo
dục đào tạo, chính sách về dạy nghề và việc làm, hỗ trợ vay vốn để thoát
nghèo bền vững…cho NKT đang được thực hiện trên địa bàn TP Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tuởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của
Đảng, Nhà nuớc Việt Nam làm phương pháp luận cơ bản thực hiện nghiên
cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để phân tích hiện
trạng thực hiện chính sách. Học viên sẽ tiến hành điều tra xã hội học bằng

bảng hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách ưu đãi xã hội tại địa
phương cũng như đối chiếu với tình hình, phân tích kết quả kết quả thực hiện
chính sách để đưa ra đánh giá chung.

7


- Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp
quan sát, phương pháp so sánh, diễn giải, quy nạp, phương pháp phân tích, tổng
hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thực hiện chính
sách đối với NKT, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm về cách nhìn
nhận, đánh giá về thực hiện chính sách đối với NKT trên địa bàn TP Tam Kỳ
tỉnh Quảng Nam nói riêng và trên cả nước nói chung. Các phát hiện nghiên
cứu gợi mở các vấn đề về phát triển lý thuyết thực hiện chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đối với địa phương: nghiên cứu đưa ra cái nhìn tổng thể về t́ình h́ ình
thực tế của NKT, góp phần giúp địa phương có những điều chỉnh, quy hoạch,
hỗ trợ phù hợp trong quá tŕnh ban hành các chính sách phát triển kinh tế xă
hội, thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội, an sinh xã hội, góp phần nâng cao
đời sống người dân.
Đối với bản thân người nghiên cứu, thông qua quá trình nghiên cứu, bản
thân học viên có cơ hội áp dụng những lí thuyết và phương pháp đã được học
vào thực tiễn quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, từ đó tìm kiếm và đề
xuất các giải pháp góp phần thúc đẩy việc thực hiện chính sách với NKT ở
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn được chia làm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với người khuyết
tật.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với người khuyết tật tại
TP Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.

8


Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với người
khuyết tật tại TP Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với NKT
1.1.1.Người khuyết tật và vấn đề của NKT
1.1.1.1. Khái niệm Người khuyết tật
Ở Việt Nam, khuyết tật và tàn tật là hai từ để chỉ cùng một khái niệm, từ
năm 2009 trở về trước chúng ta vẫn dùng song song hai từ này trên cả phương
tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Đến năm 2010, Quốc hội
Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ người khuyết tật thay cho tàn tật
trong các bộ luật ban hành có liên quan. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2
Luật Người khuyết tật năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, NKT được
định nghĩa như sau: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”
Người khuyết tật có những đặc điểm cơ bản như: NKT là nhóm thiểu số

lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất;
NKT có ở mọi nơi trên thế giới và các quốc gia phải có trách nhiệm bảo vệ
NKT.
Về nguyên nhân dẫn đến khuyết tật:
Nếu như giai đoạn trước đây, các nguyên nhân như: bẩm sinh, bệnh tật,
chiến tranh là nguyên nhân chính dẫn tới khuyết tật. Thì trong những năm tới,
các nguyên nhân như: tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ô nhiễm môi
trường sẽ khiến cho số lượng NKT có xu hướng ngày một gia tăng.
1.1.1.2. Vấn đề của người khuyết tật
Phân loại khuyết tật

10


Theo phân loại khuyết tật ở Việt Nam được cụ thể hóa trong Luật Người
khuyết tật năm 2010, phân loại mức độ khuyết tật thường được dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau: dựa vào các dạng tật và dựa vào các mức độ khuyết tật
[8].
* Các dạng khuyết tật:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Luật Người khuyết tật Việt Nam
2010 các dạng tật được quy định cụ thể:
a. Khuyết tật vận động: tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động
đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
b. Khuyết tật nghe, nói: là khó khăn khi nói hoặc không nói được, khó
khăn khi nghe hoặc không nghe được, bị biếng dạng ở vùng tai, mũi, miệng.
c. Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm
nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường.
d. Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ,
cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành

động bất thường.
đ. Khyết tật trí tuệ: tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
e. Khuyết tật khác tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể
khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
* Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
Tại Điều 3 của Nghị định số 28/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật NKT chia thành 3 mức độ khuyết tật:
a. Người khuyết tật đặc biệt nặng
b. Người khuyết tật nặng

11


c. Người khuyết tật nhẹ
* Đặc điểm của người khuyết tật
Người khuyết tật có những dạng tật khác nhau, tình hình sức khỏe cũng
khác nhau. Sự khiếm khuyết về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức
năng của người khuyết tật có thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn,
trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập… Ở người khuyết tật vận động do
chấn thương hay do bị bệnh gây ra như què cụt, khèo, liệt chân tay ngoài ra
người khuyết tật vận động do tổn thương khu vận động não bộ.
Những người hạn chế nghe, nói, khó khăn khi nói, kém hiểu biết về các
quy luật xã hội căn bản, không ý thức về hậu quả về các hành vi của mình,
khó khăn khi tự phục vụ, phân tích màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém,
thiếu tích cực trong quan sát, tư duy của họ thường biểu hiện tính không liên
tục, chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa mới tiếp thu, thời gian chú ý của
những người này chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều người bình thường.
Người khuyết tật cũng như những người bình thường có những đòi hỏi

thỏa mãn các nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần và nhu cầu hoàn
thiện chính bản thân mình như những người bình thường khác. Người khuyết
tật luôn muốn được hòa nhập xã hội, mong muốn được học tập, muốn được
tôn trọng để xóa đi những mặc cảm tự tị, mặc cảm với bản thân mình.
1.1.2. Chính sách đối với người khuyết tật
1.1.2.1. Khái niệm chính sách đối với NKT
- Chính sách đối với NKT: là các quan điểm, cách thức, biện pháp của
nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh
vực giáo dục, bảo vệ và chăm sóc NKT. Đó là các chính sách và chương trình
hỗ trợ nuôi dưỡng, chăm sóc thay thế; trợ giúp giáo dục, y tế, chỉnh hình,
phục hồi chức năng; hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; chính sách và chương
trình tiếp cận công trình công cộng, tham gia giao thông và công nghệ thông

12


tin đối với NKT; chính sách và chương trình hỗ trợ gia đình NKT có hoàn
cảnh đặc biệt; các chương trình mục tiêu quốc gia trong đó có hợp phần hoặc
nội dung bảo vệ NKT; các chương trình dành riêng cho NKT.
1.1.2.2. Nội dung chính sách đối với NKT
a.Chính sách giáo dục
Khoản 3, Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định .Người khuyết tật,
đặc biệt là trẻ em khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi
quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được
miễn, giảm một số môn học mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng;
được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét
cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập.
* Phương thức giáo dục người khuyết tật
- NKT, cha, mẹ hoặc người giám hộ NKT lựa chọn phương thức giáo dục
phù hợp với sự phát triển của cá nhân NKT.

- Nhà nước khuyến khích NKT tham gia học tập theo phương thức giáo
dục hòa nhập.
b.Chính sách bảo trợ xã hội
Căn cứ theo Điều 4 Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định mức chuẩn
trợ cấp, trợ giúp xã hội (sau đây gọi chung là mức chuẩn trợ giúp xã hội) là
270.000 đồng/ tháng.
Căn cứ theo Điều 16 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định hệ số tính
mức trợ cấp xã hội hằng tháng cho NKT như sau:NKT đặc biệt nặng hệ số 2,
NKT đặc biệt nặng NCT, trẻ em hệ số 2.5, NKT nặng hệ số 1.5, NKT nặng
NCT, trẻ em hệ số 2.
Gia đình có NKT đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
NKT đó được hưởng mức hỗ trợ chăm sóc là hệ số 1.
- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc 1 NKT đặc biệt nặng được hưởng

13


chế độ chăm sóc hệ số 1.
- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc 2 NKT đặc biệt nặng trở lên được
hưởng chế độ chăm sóc hệ số 3.
Theo Điều 18 Nghị định 28/2012/NĐ-CP hệ số tính mức trợ cấp nuôi
dưỡng hàng tháng và các mức cấp kinh phí chăm sóc người khuyết tật đặc
biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống được tiếp nhận
vào nuôi dưỡng trong cơ sở bảo trợ xã hội.
Nhà nước cấp kinh phí để cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng người
khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống
theo quy định sau đây:
Hệ số tính mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng là ba (3,0); trường hợp
người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng
là người cao tuổi thì hệ số mức trợ cấp là bốn (4,0).

Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động cho cơ
sở chăm sóc người khuyết tật công lập.
c. Chính sách chăm sóc y tế
Như những người bình thường, NKT có quyền được chăm sóc, bảo vệ
và nâng cao sức khỏe, được khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng,được
chăm sóc sức khỏe ban đầu, được tham gia và hưởng BHYT như mọi công
dân khác trong xã hội.
Điều 21 Luật Người khuyết tật 2010 quy định việc chăm sóc sức khỏe
cho NKT như sau:
Trạm y tế cấp xã có trách nhiệm sau đây:
- Khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người
khuyết tật.
*Phục hồi chức năng:
Theo quy định của pháp luật về người khuyết tật, cụ thể tại Điều 24 và

14


Điều 25 Luật người khuyết tật 2010 quy định nội dung phục hồi chức năng
người khuyết tật bao gồm: Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh
hình, phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.


Viện chỉnh hình, phục hồi chức năng;



Trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng;




Bệnh viện điều dưỡng, phục hồi chức năng;



Khoa phục hồi chức năng của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;



Bộ phận phục hồi chức năng của cơ sở bảo trợ xã hội;

Việc thành lập và hoạt động của cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng
được thực hiện theo quy định của pháp luật.
d.Chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
Theo Luật NKT 2010 và Nghị định 28/2012/ND-CP quy định về hoạt
động văn hóa, TDTT, giải trí và du lịch đối với NKT như sau:
- Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, người khuyết tật nặng
được giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục,
thể thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ.
đ. Chính sách ưu tiên cho người khuyết tật khi tham gia thông bằng
phương tiện giao thông công cộng
Theo quy định tại Điều 5 Thông tư 39/2012/TT-BGTVT hướng dẫn
thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kết cấu hạ tầng giao thông, công cụ
hỗ trợ và chính sách ưu tiên NKT tham gia giao thông công cộng do Bộ trưởng
Bộ Giao thông vận tải ban hành thì nội dung này được quy định như sau:
*Ưu tiên khi mua vé, sắp xếp chỗ ngồi:
- Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao
thông công cộng được ưu tiên mua vé tại cửa bán vé; được sử dụng chỗ ngồi
dành cho các đối tượng ưu tiên.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách công cộng có trách


15


nhiệm trợ giúp, hướng dẫn, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện cho người khuyết tật;
hỗ trợ người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng khi lên, xuống
phương tiện và sắp xếp hành lý khi cần thiết.
*Thực hiện miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ cho người khuyết tật khi
tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng:
- NKT nặng, NKT đặc biệt nặng khi tham gia giao thông bằng phương
tiện giao thông công cộng được miễn, giảm giá vé theo quy định tại Điều 12
Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- Mức giảm giá vé, giá dịch vụ cho NKT do tổ chức, cá nhân quản lý,
kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công cộng tự xây
dựng và công bố thực hiện nhưng không thấp hơn mức giảm giá vé quy định
tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- NKT sử dụng xe lăn thông dụng không gắn động cơ hoặc sử dụng
các dụng cụ cầm tay để phục vụ việc đi lại của bản thân thì được miễn cước
hành lý đối với xe lăn, dụng cụ đó khi tham gia giao thông bằng phương tiện
giao thông công cộng.
- NKT đồng thời thuộc đối tượng được giảm giá vé, giá dịch vụ theo
các chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một mức giảm giá vé cao nhất.
- Tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng
phương tiện giao thông công cộng có trách nhiệm bố trí thiết bị, công cụ và
nhân viên để trợ giúp NKT lên, xuống phương tiện được thuận tiện. Phương
án trợ giúp này phải được thông báo ở những nơi dễ nhận biết tại các bến, nhà
ga để NKT tiếp cận, sử dụng.
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh điểm dừng, đỗ,
bến, nhà ga; kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công
cộng tổ chức bộ phận, cổng thông tin để tiếp nhận phản ảnh, hướng dẫn, trả

lời và trợ giúp NKT tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công

16


cộng.
e. Chính sách công nghệ thông tin và truyền thông
Theo Điều 43 Luật NKT, Nhà nước khuyến khích các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin cho NKT.
- Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu
đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp
dịch vụ, phương tiện hỗ trợ NKT tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille
dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc dành cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ.
1.1.3. Thực thi chính sách đối với NKT
1.1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách đối với NKT
Thực hiện chính sách đối với người khuyết tật là quá trình biến các
chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ
chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hóa các chính sách đối với người
khuyết tật đã đề ra.
1.1.3.2. Nội dung tổ chức thực hiện CSC đối với NKT
a. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với NKT
Tổ chức thực thi chính sách đối với NKT là quá trình phức tạp, diễn ra
trong một thời gian dài, nếu không có kế hoạch thì chắc chắn sẽ không khoa
học và khó thành công, bởi vậy việc xây dựng kế hoạch cho một hoạt động là
cực kỳ quan trọng, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các
cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động hoàn
toàn. Để đạt được kết quả tốt và có hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính
sách đối với NKT, trước tiên cần phải tiến hành xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng: kế hoạch tổ chức điều hành, kế
hoạch về các nguồn lực, kế hoạch thời gian triển khai, kế hoạch kiểm tra, đôn

17


đốc thực thi chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; đồng
thời phải đảm bảo tuân thủ theo đúng quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của chủ
thể ban hành. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách đối với người khuyết tật
bao gồm những nội dung cơ bản.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách. Nội quy, quy chế
trong thực thi chính sách đối với người khuyết tật bao gồm nội quy, quy chế
về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ,
công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về
các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi
chính sách đối với NKT.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách có giá trị pháp lý khi được
mọi người đồng ý thực hiện, sau khi các lĩnh vực quyết định thông qua. Kế
hoạch này có thể điều chỉnh nếu nó không phù hợp với thực tế.
b.Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Trong quá trình thực hiện chính sách, trước tiên phải tuyên truyền,vận
động nhân dân tham gia thực hiện chính sách đối với người khuyết tật cần
được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách công đang được
thi hành, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền thực thi chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách điều này cũng giúp các cơ quan và
cán bộ, công chức thực thi chính sách rút ngắn thời gian, triệt để, đạt đến mục
tiêu đề ra. Nếu đối tượng thụ hưởng không hiểu chính sách thì thời gian thực
hiện kéo dài, bổ sung nhiều lần, gây khó khăn, phiền hà cho các tổ chức, cá
nhân và các cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách trong quá trình
tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách.

c.Phân công, phối hợp thực hiện chính sách đối với NKT.
Thực tế, chính sách mới ban hành xong nhưng không thể triển khai
thực hiện hoặc thực hiện không mang lại hiệu quả, đó là do sự phân công,

18


trách nhiệm cho các cơ quan chủ quản và cơ quan phối hợp bị chồng chéo và
không rõ ràng, thống nhất giữa các cơ quan chủ quản và cơ quan phối hợp dẫn
đến gặp khó khăn, xảy ra tình trạng né tránh, đùn đẩy hoặc ôm đồm dẫn đến
không ai làm hết trách nhiệm hoặc làm nửa vời không đến nơi, đến chốn.
Chính vì vậy, để việc tổ chức thực hiện chính sách đối với NKT có hiệu quả,
cần phải có sự thống nhất cao về quan điểm, mục tiêu, kế hoạch và hệ thống
chính trị, từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo đến công tác tuyên truyền, vận động,
công tác cung ứng nguồn lực tài chính, trang thiết bị và cơ sở vật chất đảm
bảo đến thực hiện chính sách.
d. Duy trì thực hiện, bổ sung giải pháp thực hiện chính sách
Duy trì chính sách đối với NKT là hoạt động, là khâu nhằm bảo đảm
cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế.
Bổ sung, điều chỉnh các giải pháp thực hiện chính sách đối với NKT là
một việc làm hết sức quan trọng trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách.
Việc điều chỉnh giải pháp thực hiện chính sách được thực hiện bởi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền liên quan đến chính sách và phải phù hợp với thực
tế. Chính vì vậy các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp phải chủ động điều
chỉnh cơ chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả hơn, nhưng không được
thay đổi mục tiêu chính sách. Trong tổ chức thực hiện chính sách đối với
NKT cần chú ý các nguyên tắc.
e. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách đối với NKT
Đôn đốc thực hiện chính sách đối với người khuyết tật là hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ

hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi chính sách nêu cao ý thức trách
nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách. Kiểm tra tổ
chức thực hiện chính sách đối với NKT với mục đích phòng ngừa các vi phạm
sai sót có thể xảy ra; xử lý nghiêm khắc vi phạm và chấn chỉnh sai sót đã xảy

19


ra. Vì vậy, việc kiểm tra thực hiện chính sách đối với NKT cần được tiến
hành đúng kế hoạch, bảo đảm các yêu cầu, các nguyên tắc kiểm tra, đánh giá;
kết luận các vi phạm sai sót phải chính xác và khách quan, xem xét xử lý
nghiêm khắc, chấn chỉnh và đúng mực.
f. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đối với
người khuyết tật
Tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm là quá trình xem xét, kết luận về
công tác chỉ đạo điều hành và chấp hành chính sách của các cơ quan và cá
nhân liên quan được phân công thực hiện chính sách; những lợi ích mang đến
cho xã hội và hiệu quả cho đối tượng hưởng lợi từ chính sách.
Hằng năm, phải tiến hành tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm một lần.
Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị
– xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách đối với người
khuyết tật.
1.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đối với NKT
a. Thể chế chính sách
Chính sách đối với NKT là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội,
thể hiện trong việc nghiên cứu, hoạch định, ban hành hệ thống chính sách,
chế độ và tổ chức thực hiện. Nhằm nâng cao và cải thiện hơn nữa đời sống vật
chất và tinh thần cho NKT, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân
dân đối với NKT.
Nếu có sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan về việc chỉ

đạo, điều hành, triển khai thực hiện chính sách đối với NKT từ Trung ương
đến địa phương và chính sách phù hợp với thực tiễn cuộc sống thì việc thi
chính sách sẽ thuận lợi, khả thi.
b. Môi trường thực hiện chính sách
Những địa phương có vị trí thuận lợi, có điều kiện kinh tế xã hội phát

20


triển, và có điều kiện tự nhiên thuận lợi, người dân nhận thức, hiểu biết tốt về
chính sách đối với NKT sẽ tác động thúc đẩy việc thực hiện chính sách được
thuận lợi. Ngược lại, những địa phương có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, điều kiện kinh tế xã hội kém phát triển, người dân nhận thức,
hiểu biết kém về chính sách sẽ kìm hãm, ngăn trở các hoạt động này, dẫn đến
việc thực hiện chính sách đối với NKT kém hiệu quả.
c. Nhận thức của xã hội và người dân
Nếu chính sách NKT đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội về mục tiêu và
biện pháp thi hành thì nó sẽ nhanh chóng đi vào lòng dân, được nhân dân ủng
hộ trong việc thực hiện. Ngược lại, nếu chính sách không thiết thực với đời
sống nhân dân, không phù hợp vớiđiều kiện và trình độ hiện có của nhân dân
thì sẽ không được đón nhận và sẽ khó triển khai trong thực tiễn.
d. Tổ chức bộ máy và cán bộ thực thi
Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là thước đo bao gồm nhiều
tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực
thực tế, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó được với
những tình huống phát sinh trong tương lai… Cán bộ, công chức trong cơ
quan công quyền khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách đối với
người khuyết tật cần nêu cao tinh thần trách nhiệm.
1.1.4.Quan điểm của Đảng và Chính sách Nhà nước đối với NKT của
Việt Nam

Ngày 1-11-2019, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TƯ về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước và xã hội luôn quan tâm đến công tác
người khuyết tật, đã ban hành, triển khai nhiều chủ trương, chính sách chăm
lo, bảo đảm quyền và phát huy vai trò của người khuyết tật, góp phần thúc
đẩy tiến bộ xã hội và phát triển bền vững. Công tác người khuyết tật đạt được

21


nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể các cấp đối với người khuyết tật được nâng cao hơn, người
khuyết tật ngày càng tự tin, thuận lợi hơn hòa nhập vào đời sống xã hội.
Các cơ quan nhà nước triển khai nhiều hoạt động trợ giúp người khuyết
tật, phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong
việc chăm lo cuộc sống của người khuyết tật, tạo cơ hội bình đẳng nhằm đáp
ứng tốt hơn quyền lợi chính đáng, hợp pháp, động viên để người khuyết tật
phát huy năng lực, vươn lên hòa nhập, đóng góp cho xã hội.
Việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật đã huy
động được sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và đông đảo các tầng lớp
nhân dân, trong đó có các tổ chức tôn giáo, nhân đạo, từ thiện. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên có nhiều hình thức hỗ trợ, tạo điều kiện để
các tổ chức người khuyết tật đẩy mạnh hoạt động chăm sóc, trợ giúp người
khuyết tật.
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 trình bày tổng quan về người khuyết tật. Thông qua việc tìm
hiểu các khái niệm có liên quan trong phạm vi như khái niệm về người khuyết
tật, tác giả đã đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm người khuyết
tật và chính sách đối với người khuyết tật như chính sách giáo dục, y tế, bảo
trợ xã hội, văn hóa, thể dục, thể thao cho người khuyết tật… Bên cạnh đó tác

giả đã khái quát về quy trình tổ chức thực hiện chính sách đối với người
khuyết tật, nhấn mạnh vai trò của thực hiện chính sách đối với người khuyết
tật, đó là thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
người khuyết tật; huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách
đối với người khuyết tật; thực hiện an sinh xã hội đối với người khuyết tật,
nội dung của từng chính sách đối với người khuyết tật tại TP Tam Kỳ, Quảng

22


Nam và đã rút ra những giá trị kinh nghiệm choTP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Các kết quả nghiên cứu ở chương 1, tác giả sử dụng làm cơ sở nghiên cứu
thực trạng thực hiện chính sách đối với người khuyết tật ở TP Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT Ở TP TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và thực trạng NKT
TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tam Kỳ là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam, tổng diện tích tự
nhiên 9.281,93 ha với dân số trung bình năm 2019 khoảng 122.374 người, có
13 đơn vị hành chính gồm 9 phường và 4 xã đó là: Tân Thạnh, An Mỹ, An
Xuân, Phước Hòa, Hòa Hương, An Phú, Trường Xuân, An Sơn, Hòa Thuận,
Tam Ngọc, Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Phú. Trong quá trình công nghiệp

23



×