Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

Đêm hội long trì từ tác phẩm văn học dến tác phẩm điện ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG

“ĐÊM HỘI LONG TRÌ”
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG

“ĐÊM HỘI LONG TRÌ”
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Phương Thái



Thái Nguyên - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Tố Việt Hương


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


Nguyễn Tố Việt Hương


iii

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................................. ii
MỤC LỤC....................................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài --------------------------------------------------------------------- 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ---------------------------------------------------------- 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------ 12
4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu ----------------------------------------------- 13
5. Phương pháp nghiên cứu: ---------------------------------------------------------- 14
6. Cấu trúc của luận văn: -------------------------------------------------------------- 14
7. Đóng góp của luận văn: ------------------------------------------------------------ 14
NỘI DUNG..................................................................................................................................... 16
Chương 1. CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI
LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN..................................... 16
1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì ------------------------ 16
1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh........................................... 16
1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội Long
Trì............................................................................................................................................ 22
1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì -------- 29
1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim ----------------- 40
Tiểu kết chương 1...................................................................................................................... 47

Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ 48
2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ---------------------- 48
2.1.1. Chúa Trịnh Sâm............................................................................................................... 50
2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa................................................................................................. 52
2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ............................................................................................. 54


iv

2.1.4. Quận mã Đặng Lân........................................................................................................ 55
2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim............................................. 58
2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì ----------------- 62

2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ............................................................................................. 64
2.2.2. Quận mã Đặng Lân........................................................................................................ 66
2.2.3. Chúa Trịnh Sâm............................................................................................................... 68
2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa................................................................................................. 70
2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại.................................................. 73
Tiểu kết chương 2...................................................................................................................... 75
Chương 3. NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ ĐIỆN ẢNH
TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ........................................................................................ 77
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ------------------ 77

3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả........................................................................................................... 78
3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại........................................................................................................ 82
3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì -------------------- 87

3.2.1. Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh).................................................................................... 88
3.2.2. Ngôn ngữ thính giác (âm thanh)........................................................................... 107
3.2.3. Montage (Dựng phim)............................................................................................... 111

Tiểu kết chương 3.................................................................................................................... 113
KẾT LUẬN................................................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 116
PHỤ LỤC


v

Hình 1: Bìa sách Đêm hội Long Trì do Nhà xuất bản
Kim Đồng ấn hành
Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì
Tác giả: Nguyễn Huy Tưởng
Năm ra mắt: 1942
Năm xuất bản: 1944
Bản khảo sát: Năm 2016 - Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội.


vi

Hình 2: Bìa đĩa phim truyện Đêm hội Long Trì do Phương
Nam Phim phát hành
Phim điện ảnh: Đêm hội Long Trì
Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh
Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm
Diễn viên: Thế Anh vai Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương
Lê Vân vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Thu Hà vai Quận chúa Quỳnh Hoa
Hoàng Thắng vai Quốc cữu Đặng Lân
Trọng Phan vai Nguyễn Mại
Vũ Đình Thân vai Bảo Kim

Và các diễn viên khác…


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong các loại hình nghệ thuật, có thể nói, văn học và điện ảnh là hai
loại hình tiêu biểu và mang tính tổng hợp cao. Chất liệu của văn học là ngôn từ,
hay nói chính xác hơn, văn học sử dụng ngôn ngữ của con người làm phương tiện
xây dựng hình tượng phản ánh cuộc sống. Với lợi thế của ngôn từ, có tính phi vật
thể, miêu tả thế giới một cách gián tiếp, văn học có thể đề cập tới mọi phương
diện của đời sống xã hội một cách linh hoạt, đầy đủ và chính xác. Với khả năng
phản ánh cả hiện thực thế giới bên ngoài và nội tâm bên trong con người, văn học
giống như là một điểm giao thoa của nhiều loại hình nghệ thuật, có tác động đến
các loại hình nghệ thuật khác, trong đó có điện ảnh. Xuất hiện vào cuối thế kỷ
XIX, điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, đã nhanh chóng trở thành loại hình quan
trọng bậc nhất xét về tính quần chúng rộng lớn của nó, đáp ứng cao nhu cầu thẩm
mỹ của thời đại. Cũng như văn học, điện ảnh được xếp vào loại hình nghệ thuật
tổng hợp. Theo Henri Bernac, nó mang đến cho hàng triệu người xem “ngôn từ
của nhà văn, tranh của họa sĩ, diễn xuất của diễn viên trên sân khấu, giai điệu
của nhạc sĩ trong bản nhạc”[60]. Chất liệu của điện ảnh mang tính chất vật thể, là
hình ảnh và âm thanh, là sự hòa hợp của những thứ có thể nghe thấy và nhìn thấy,
giống như tái hiện thế giới cụ thể để kể một câu chuyện. Bởi vậy, điện ảnh đã tiếp
thu của văn học các yếu tố như: cốt truyện, nghệ thuật kể chuyện, hệ thống tu
từ… để tạo nên những tác phẩm độc đáo, hấp dẫn. Ngược lại, văn học cũng tiếp
nhận nhiều khái niệm, thủ pháp từ điện ảnh như: điểm nhìn, cắt - ghép (montage)
để cách tân nghệ thuật văn chương. Giữa văn học và điện ảnh, có mối quan hệ
vừa khác biệt, vừa tương đồng, trong khả năng tái hiện lại bức chân dung muôn
mặt của đời sống và chiều sâu nội tâm của con người. Nhà phê bình điện ảnh

Pháp Jean Miltry từng nói: “Tiểu thuyết là một truyện kể tự cấu tạo mình trong
thế giới, còn điện ảnh là một thế giới tự cấu tạo mình thành chuyện kể”[62]. Với
đặc tính chịu ảnh hưởng của các loại hình


2

khác và giữa chúng có sự thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau, cả văn học lẫn điện ảnh
đều có thế mạnh riêng trong việc tạo dựng lại thế giới và làm cho hình tượng nghệ
thuật trở nên sống động, hữu hình. Hay nói một cách đơn giản, trong văn học có
yếu tố điện ảnh, và ngược lại, trong điện ảnh có yếu tố của văn học.

Ngày nay, tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh đang là xu hướng
trong ngành công nghiệp phim ảnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mối lương
duyên giữa văn học và điện ảnh đã tạo nên nhiều tác phẩm kinh điển trong lịch
sử điện ảnh thế giới nói chung và lịch sử điện ảnh Việt Nam nói riêng.
1.2. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng,
đã khẳng định được vị trí trên văn đàn Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng
Tám (1945). So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Huy Tưởng cầm bút muộn hơn,
từ khoảng đầu những năm 1940, nhưng với lối viết tài hoa, bút lực đĩnh đạc, dồi
dào và nhiệt huyết, di sản văn học mà ông để lại thực sự đáng trân trọng, không
chỉ đa dạng về đề tài, thể loại, mà còn được đánh giá cao về mặt tư tưởng và nghệ
thuật. Ông viết nhiều thể loại: truyện ký, tiểu thuyết, kịch… với nhiều đề tài: từ
đề tài lịch sử, Thăng Long - Hà Nội, cuộc chiến tranh vệ quốc đến đề tài dành cho
thiếu nhi. Thể loại nào, đề tài nào của Nguyễn Huy Tưởng cũng tạo được dấu ấn
riêng với những tác phẩm xuất sắc, thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, muốn
mượn văn chương để bày tỏ lòng yêu nước, “tô điểm cho non sông những tòa đài
hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ Như Tô). Trong đó, các tác phẩm về đề tài
lịch sử của ông có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, được công chúng yêu thích bởi lối
tiếp cận, miêu tả, phản ánh lịch sử một cách độc đáo, tạo nên âm hưởng sử thi

hùng tráng hòa quyện với cảm thức lãng mạn, trữ tình. Ông được mệnh danh là
“nhà chép sử bằng các tác phẩm văn học”. Nhà nghiên cứu
- nhà phê bình văn học, tiến sĩ Nguyên An từng nhận xét: “Nếu không có Nguyễn
Huy Tưởng thì văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng lịch sử - truyền thống,
sẽ vơi đi sự bề thế, vẻ kỳ vĩ, tráng lệ và chất bi thương hào hùng” [64]. Có ý kiến
cho rằng, Nguyễn Huy Tưởng “đã mở đầu một cách thích đáng cho dòng văn


3

chương viết về truyền thống, về lịch sử trung đại Việt Nam trong nền văn
chương hiện đại Việt Nam”[69]. Ông là một trong những nhà văn vinh dự
được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (Đợt I) năm 1996.
1.3. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng và bộ phim
điện ảnh Đêm hội Long Trì của đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đều được coi
là những tác phẩm kinh điển của văn học và điện ảnh Việt Nam. Tiểu thuyết Đêm
hội Long Trì là câu chuyện về bi kịch trong gia đình chúa Trịnh Sâm với sự thao
túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, đã đẩy cơ đồ đến họa suy vong. Dẫu chỉ là một
lát cắt lịch sử, song tác phẩm đã phản ánh một góc tối của lịch sử nước nhà trong
giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài hơn một thế kỷ. Đây là giai đoạn khá
phức tạp khi trong bộ máy cầm quyền vừa có vua Lê, vừa có chúa Trịnh, và cũng
là một thời kỳ báo trước sự sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam. Tiểu thuyết
đầu tay Đêm hội Long Trì được đăng tải trên tạp chí Tri tân năm 1942 và xuất bản
năm 1944 đã trở thành tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng nhất của Nguyễn Huy Tưởng.
Nhắc đến tác phẩm này, giáo sư Hà Minh Đức viết: “Trong các tác phẩm về đề tài
lịch sử, "Đêm hội Long Trì" cũng gây một ấn tượng đặc biệt… Chất lãng mạn
của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có khả năng tạo nên những bức tranh hoành
tráng về đề tài lịch sử, tái hiện sinh hoạt
ở cung đình đan xen giữa những yếu tố truyền thống dễ chấp nhận và những mặt
tiêu cực của lối sống xa hoa, đan xen giữa những người tốt, quan lại liêm chính

với những kẻ gian thần độc ác, xảo trá”[58]. Năm 1989, khi được chuyển thể
thành tác phẩm điện ảnh, Đêm hội Long Trì đã gây tiếng vang lớn, được đánh giá
là bộ phim dã sử kinh điển nhất trong thế kỷ XX của điện ảnh Việt Nam.
1.4. Là một nhà báo công tác tại bộ phận chuyên về sản xuất phim của cơ
quan truyền hình, người viết luận văn chọn đề tài Đêm hội Long Trì - Từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh để nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu hơn về
tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì và bộ phim chuyển thể cùng tên. Thông qua
đó, người viết luận văn có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào cả hai lĩnh vực yêu


4

thích, cũng là hai lĩnh vực liên quan đến công việc của mình là văn học và điện
ảnh để khám phá những điều còn ẩn sâu trong mỗi tác phẩm, bổ sung thêm
kiến thức mới cho chính mình. Từ việc nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt
của văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách hệ thống và sâu
sắc hơn mối quan hệ qua lại, sự tương tác lẫn nhau của văn học và điện ảnh,
góp phần tìm ra tiếng nói chung giữa nhà văn và các tác giả điện ảnh trong việc
bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sáng tác.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Điểm lược một số công trình nghiên cứu về chuyển thể văn học và
điện ảnh ở Việt Nam và trên thế giới
Ngày 22/3/1895, khi anh em nhà Lumière tổ chức buổi chiếu phim đầu
tiên cho khán giả trong Salon Indian tại Grand Café ở Paris với những hình ảnh
về một chiếc xe lửa đang lăn bánh vào ga, cũng là lúc cả một ngành kỹ nghệ
phôi thai. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh, với tư cách
một môn nghệ thuật - nghệ thuật thứ bảy, và cũng với tư cách một ngành công
nghiệp - công nghiệp điện ảnh. Điện ảnh nhanh chóng trở thành loại hình nghệ
thuật lớn của thế kỷ XX và đến hôm nay vẫn đầy sức hấp dẫn, đúng như lời
Maxim Gorky, nhà văn Nga nổi tiếng đã từng nhận định về sức lôi cuốn của

nghệ thuật điện ảnh: “Không nghi ngờ gì nữa, tương lai nó sẽ chiếm một địa vị
xuất sắc trong đời sống” [63, tr.32].
Trong hành trình phát triển của mình, ngay từ những ngày đầu tiên, điện
ảnh đã có mối liên hệ chặt chẽ, tương tác với văn học. Mối quan hệ giữa văn học
và điện ảnh thể hiện rõ nhất qua hiện tượng chuyển thể. Từ những trích đoạn văn
học ban đầu, rồi dần dần là toàn bộ tác phẩm văn học được chuyển thể trở thành
tác phẩm điện ảnh, nhiều bộ phim từ những liên văn bản đã trở thành tác phẩm
nghệ thuật kinh điển, được công chúng đón nhận với nhiều giải thưởng danh giá.
Văn học luôn được coi là kho tàng vô giá cho các nhà điện ảnh khai thác, chuyển
thể, cải biên, xây dựng thành những kịch bản phim có giá trị. Trong cuốn sách


5

Film and Literature (Điện ảnh và văn học) của Timothy Corrigan, đã được
dịch và xuất bản vào năm 2013, tác giả cho rằng: “Lịch sử quan hệ giữa phim
ảnh và văn chương là một lịch sử yêu ghét lẫn lộn, đương đầu và phụ thuộc
lẫn nhau. Từ cuối thế kỉ XIX cho tới nay, hai cách nhìn và mô tả thế giới này
đã nhiều lần khinh thường nhau, cứu rỗi nhau, và làm méo mó bản ngã tự
phong của nhau... Các cuộc tranh luận về việc điện ảnh đồng nghĩa với văn
học hay đi cùng với văn học đang tiếp diễn” [7, tr.4-8]. Dẫu có các cuộc tranh
luận, song vẫn phải khẳng định rằng: điện ảnh đã kế thừa rất nhiều từ văn học,
mà rõ nét nhất là muốn có một bộ phim, trước hết phải có kịch bản văn học. Từ
khi điện ảnh mới ra đời trong kỷ nguyên phim câm, đã có hàng loạt các tác
phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh, có thể kể ra như: Ben Hur, một
bộ phim có độ dài chỉ 15 phút, sản xuất năm 1907, phiên bản điện ảnh đầu tiên
của cuốn tiểu thuyết của Roch Wallace mang tên: Ben - Hur: A tale of the
Christ, một trong những cuốn sách bán chạy nhất vào thời điểm đó; Hoặc The
count of Monte Cristo (Bá tước Monte Cristo) do hai nhà đạo diễn Francis
Boggs, Thomas Persons thực hiện năm 1908, được chuyển thể từ tiểu thuyết

cùng tên của nhà văn Alexandre Dumas; Hay một bộ phim sử thi rất nổi tiếng
của đạo diễn D. W. Griffith có tên gọi: The birth of a nation (Sự ra đời của một
quốc gia, ban đầu còn được gọi là The Clansman), sản xuất năm 1915, được
chuyển thể từ tiểu thuyết và vở kịch “The Clansman: An historical romance of
the Ku Klux Klan” đều của tác giả Thomas Dixon Jr….
Cuối những năm 1920, những bộ phim có âm thanh và tiếng nói bắt đầu
được sản xuất. Năm 1930, tuyển tập kịch bản điện ảnh đầu tiên của điện ảnh Liên
xô được xuất bản, đã khẳng định vai trò của kịch bản văn học trong sản xuất tác
phẩm điện ảnh. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Iecgi Teplix trong cuốn sách
Lịch sử điện ảnh thế giới đã viết: “Điện ảnh với hình thức phổ biến nhất của nó
là phim truyện,…là giai đoạn hiện đại của sự phát triển nghệ thuật kể chuyện,…
là người kế thừa chủ yếu của tiểu thuyết” [32, tập 2, tr.9]. Trong


6

các giai đoạn phát triển của điện ảnh, người ta đều nhận thấy sự tác động tích cực
và tầm ảnh hưởng của văn học. Năm 1935, trong bài viết Văn học với điện ảnh,
nhà văn Maxim Gorky cho rằng nhà văn và đạo diễn là “hai lực lượng không thể
riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau” [63, tr.33]. Những phương thức cơ bản
khi xây dựng tác phẩm của các tác giả văn học là tiền đề và trở thành kinh nghiệm
quan trọng cho các tác giả điện ảnh vận dụng trong việc xây dựng kịch bản điện
ảnh, tái hiện những câu chuyện, nhân vật từ trang sách lên màn ảnh. Nếu như
ngôn ngữ văn học có thể tác động trực tiếp đến người đọc để mang lại cảm giác,
trí tưởng tượng về nhân vật một cách vật chất, thì những điều đó cũng là cơ sở
khởi nguồn để các nhà làm phim tạo dựng nên những nhân vật sống động trên
màn ảnh. Các tác giả điện ảnh đã kế thừa, tiếp nhận những yếu tố đặc sắc của tác
phẩm văn học nguồn như: cốt truyện, nhân vật, tình tiết vào phim chuyển thể,
nhưng bên cạnh đó, dựa những yếu tố đặc thù của nghệ thuật thứ bảy, họ còn sáng
tạo thêm những yếu tố mới cho đứa con tinh thần để gửi gắm nhân sinh quan, làm

nên dấu ấn cá nhân riêng biệt. Chính những sự sáng tạo này giúp một tác phẩm
điện ảnh hiện hữu trên màn ảnh mang một diện mạo hoàn toàn mới mẻ và đặc sắc.
Chúng ta có thể kể đến những tác phẩm xuất sắc trở thành kinh điển ngay cả khi
là tác phẩm văn học hay một bộ phim điện ảnh, như: Cuốn theo chiều gió, Ben
Hur, Bố già, Những người khốn khổ, Không gia đình, Đồi gió hú, Chiến tranh và
hòa bình, Sông Đông êm đềm, Cao lương đỏ...
Cho tới nay, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và vấn
đề chuyển thể điện ảnh từ văn học. Trong đó, có thể nói đến cuốn sách của David
Bordwell mang tên Lịch sử điện ảnh [4]; cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế giới [33]
của Georges Sadoul; hoặc sách Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) của Iecgi Teplix
[32]… với những thông tin, phân tích về sự hình thành và phát triển của điện ảnh
thế giới. Kế tiếp là những công trình về lý luận, phê bình, kiến thức chuyên
ngành… được coi là những giáo trình bắt buộc cho sinh viên, hoặc những người
yên thích nghệ thuật điện ảnh, học tập viết kịch bản phim, viết về phim


7

và nghiên cứu về phim của rất nhiều nhà lý luận, nghiên cứu điện ảnh, các nhà
làm phim nổi tiếng. Như cuốn sách kinh điển về lý luận về nghệ thuật điện ảnh
mang tên Nghệ thuật điện ảnh của nhóm tác giả David Bordwell và Kirstin
Thompson [3]; hoặc các cuốn sách của Timothy Corrigan: Hướng dẫn viết về
phim [8], Điện ảnh và văn học - Dẫn luận và nghiên cứu [7]; sách của tác giả
Warren Buckland: Nghiên cứu phim (Film Studies) [5]; hay một tác phẩm nghiên
cứu của Mác-xen Mác-tanh về Ngôn ngữ điện ảnh [25]; hoặc có thể nghiên cứu
kỹ hơn về chuyển thể văn học và điện ảnh qua cuốn sách A theory of Adaptation
(Lý thuyết chuyển thể) của Linda Hutch [17]… Những cuốn sách này đã đưa ra sự
trình bày hoàn chỉnh về những vấn đề dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, sản xuất,
phát hành phim… và phê bình một số tác phẩm điện ảnh kinh điển làm mẫu để
người đọc và người học có thể bước đầu tiếp cận nghệ thuật điện ảnh một cách dễ

dàng. Không chỉ vậy, trong đó còn có những phần dành cho việc tìm hiểu, nghiên
cứu về vấn đề chuyển thể, cải biên các tác phẩm văn học sang các tác phẩm điện
ảnh cả về lý luận, lý thuyết và thực hành.

Điện ảnh Việt Nam còn cách điện ảnh thế giới một khoảng khá xa. Tuy
nhiên, ngay từ khi ra đời, điện ảnh trong nước đã có được dấu ấn với nhiều bộ
phim được bạn bè quốc tế đánh giá cao, trong đó có nhiều bộ phim chuyển thể.
Cũng giống như điện ảnh thế giới, trong các chặng đường phát triển của mình,
luôn thấy mối quan hệ chặt chẽ của điện ảnh và văn học Việt Nam. Nhà văn
Nguyễn Khắc Phục từng nói: “Nền điện ảnh không thể hùng mạnh được khi
văn xuôi kém. Chính nền văn xuôi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngôn
ngữ, tạo dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong
phim ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ có giá trị” [75].
Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học đã cung cấp cho điện ảnh
những mẫu hình tượng nhân vật đa dạng, phong phú từ diện mạo đến tính cách.
Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đi sâu tìm hiểu con người Việt Nam qua
nhân vật trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện, gắn với lịch sử thăng


8

trầm của dân tộc. Cải biên, chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm điện
ảnh là một vấn đề luôn được đề cập đến khi nghiên cứu về văn học và điện ảnh.
Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, bài báo đi sâu vào tìm
hiểu vấn đề này ở nhiều phương diện. Đáng chú ý, có một số công trình nghiên
cứu về chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh ở các khía cạnh
khác nhau. Đó là công trình nghiên cứu Chuyển thể văn học - điện ảnh (Nghiên
cứu liên văn bản) của tác giả Lê Thị Dương xuất bản năm 2016. Đây là chuyên
luận được phát triển từ Luận án Tiến sĩ của tác giả, nghiên cứu hiện tượng chuyển
thể từ góc độ liên văn bản, tức nghiên cứu tác phẩm văn chương trong mạng tác

phẩm nguồn cũng như tác phẩm cải biên (cải tác). Tác giả cho rằng: “Sự dịch
chuyển từ văn bản viết (thể kể) sang văn bản trình diễn đòi hỏi sự thay đổi
phương tiện biểu đạt, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong “tầm đón đợi” của khán
giả” [9, tr.92]. Ở một mức độ khác, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể văn học và
điện ảnh theo lý thuyết cải biên, tác giả Đào Lê Na qua tác phẩm Chân trời của
hình ảnh (Từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurosawa Akira) đã tìm
hiểu cải biên học trong sự phức hợp của các lý thuyết: liên văn bản, giải kiến tạo,
văn hóa học và phiên dịch học. Cải biên là một bộ phận của liên văn bản, từ đó
cho thấy sự dịch chuyển các ký hiệu từ văn bản nguồn là tác phẩm văn học đến
văn bản đích là tác phẩm điện ảnh. Hoặc tác giả Phan Bích Thủy cũng có những
nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này với luận án tiến sĩ Từ tác phẩm văn học đến tác
phẩm điện ảnh (Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện văn học thành phim
truyện điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam) [48] và luận văn thạc
sĩ Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh [47]. Trong
công trình luận án, tác giả đi theo hướng tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và
điện ảnh, đặc biệt các tác giả - chủ thể sáng tạo phim chuyển thể điện ảnh từ văn
học. Còn trong công trình luận văn, tác giả chủ yếu nghiên cứu hình tượng nhân
vật đã có trong văn học và điện ảnh, bước đầu hệ thống những đặc trưng giống và
khác nhau trong việc xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học và
điện ảnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp


9

cụ thể là một tác phẩm chuyển thể cụ thể thì số lượng các công trình nghiên
cứu chuyên sâu có số lượng không nhiều. Như công trình luận văn của tác giả
Phạm Thị Thu Hương “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh (dưới góc
nhìn Tự sự học) [46] và luận văn Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học
sang điện ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng
và Cánh đồng bất tận) [45] của tác giả Trần Thị Dung lại đi theo hướng tìm

hiểu về Tự sự học điện ảnh và vận dụng Tự sự học vào nghiên cứu hiện tượng
phim chuyển thể nói riêng và nghiên cứu điện ảnh nói chung.
Ngoài ra, trên báo chí cũng có rất nhiều bài báo tâm huyết như: Tiểu Quyên
với bài: Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh [70]; Lê Cẩm Lượng với bài:
Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [66]; hay bài viết của Thi Thi:
Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị [73]; hay Đỗ Ngọc Yên có bài:
Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương [77]; Huyền Thanh với bài: Tác phẩm
chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [72]… đã trao đổi các quan điểm về lý luận
và thực tiễn, phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh qua các bộ phim
truyện chuyển thể. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi vào phân tích cơ hội của văn
học và điện ảnh Việt khi kết hợp với nhau để tạo nên những tác phẩm có giá trị
xứng tầm, đáp ứng được mong mỏi của những người yêu nghệ thuật. Bài viết của
Hoài Hương: Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện ảnh Việt [61]; hay bài viết
của Như Thủy: Phim Việt: Lương duyên giữa văn học và điện ảnh [74]…. đều cho
rằng, “hầu hết các bộ phim điện ảnh và truyền hình

có kịch bản chuyển thể hoặc dựa theo tác phẩm văn học đều ít nhiều tạo được
ấn tượng tốt và chạm được tới cảm xúc của người xem, góp phần nâng cao
chất lượng của phim Việt Nam” [74]. Trong thực tế, mối duyên văn học - điện
ảnh đã cho ra đời nhiều tác phẩm điện ảnh đáng giá, thực sự là tài sản quý của
bộ môn nghệ thuật thứ bảy như: Vợ chồng A Phủ, Mẹ vắng nhà, Bến không
chồng, Người đàn bà mộng du, Thời xa vắng, Mùa len trâu, Trăng nơi đáy
giếng, Chuyện của Pao, Đừng đốt, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh…


10

2.2. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên
Nguyễn Huy Tưởng khởi nghiệp bằng những tác phẩm viết về đề tài lịch sử
như: Vũ Như Tô, An Tư, Đêm hội Long Trì, đăng trên tạp chí Tri tân, đã gây được

ấn tượng mạnh cho người đọc bởi một lối viết, lối khai thác, tiếp cận vấn đề mới
lạ, sâu sắc. Với vốn tri thức rộng và sâu, trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng,
quá khứ dân tộc, lịch sử đất nước hiện lên thoạt như là những lát cắt, song ẩn
chứa trong đó cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với nhiều biến cố, thăng trầm,
“lịch sử bao giờ cũng là sự kết nối từ quá khứ đến hiện đại, đó là sự song hành
hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền, của
những rối ren và náo động của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp bênh
của những số phận, những cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con người,
trong đó chiếm vị trí trung tâm là người trí thức”[20, tr.97].
Đêm hội Long Trì không phải là tác phẩm đầu tiên của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng (trước đó, ông đã viết kịch Vũ Như Tô), nhưng là tác phẩm sớm nhất
đưa ông đến với văn đàn. Tác phẩm hình thành từ năm 1942, đăng trên Tri tân (từ
24/11/1942 đến 12/08/1943) và được in thành sách năm 1944. Tuy nhiên, những
trăn trở của tác giả về cuốn tiểu thuyết còn kéo dài đến những năm sau này
(1945), điều đó còn được ghi lại trong nhật ký của nhà văn [55]. Không bao giờ tự
hài lòng với mình, luôn cầu tiến, vươn tới sự hoàn thiện, đó chính là cá tính và
nguyên tắc sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Đêm hội Long Trì là dấu ấn mở đầu
để nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ghi dấu tên tuổi của mình trên văn đàn. Người
đọc nhận thấy ở Nguyễn Huy Tưởng một ngòi bút có khuynh hướng lịch sử khác
biệt. Trong bức thư phúc đáp của ông chủ bút Tri tân gửi nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã khẳng định văn tài và phong cách riêng của ông: “Thấy ngài, vì cảm
tình với Tri tân, ngỏ ý muốn gửi lên cho truyện Đêm hội Long Trì để đăng vào
trang tiểu thuyết, tôi rất hoan nghênh, một vì truyện ngài viết đó là tiểu thuyết
lịch sử rất hợp với tôn chỉ của Tri tân; hai vì cái văn tài của ngài trong những bài
như Diên Hồng hội nghị và Ý nghĩa việc thiên đô của Lý Thái


11

Tổ trong lịch sử Việt Nam đã làm cho độc giả Tri tân bấy nay vẫn nhắc nhở

mến phục. Bây giờ lại có thiên tiểu thuyết do chính ngài viết ra thì chắc sẽ làm
bạn đọc hài lòng lắm” [38; tr.167-168].
Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng, tiểu
thuyết Đêm hội Long Trì luôn được nhắc đến như một dẫn chứng về tài hoa và
khuynh hướng của nhà văn. Có thể kể đến như: Chuyên luận Nguyễn Huy
Týởng (1912-1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất
bản năm 1966 [10]; Bộ sách Nguyễn Huy Týởng toàn tập (5 tập) do Nhà xuất
bản Văn học ấn hành năm 1996 [36]; Nguyễn Huy Týởng khát vọng một đời
văn (Phýõng Ngân tuyển chọn và biên soạn) [27]; Hay bộ 3 tập Nhật ký
Nguyễn Huy Týởng [37] đýợc Nhà xuất bản Thanh niên cho ra mắt năm
2006… Hầu hết đều có những dòng, những phần nhắc đến tác phẩm Đêm hội
Long Trì. Trong cuốn sách Nguyễn Huy Týởng về tác gia, tác phẩm (Bích Thu,
Tôn Thảo Miên tuyển chọn giới thiệu), Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: “Tác
phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của Nguyễn
Huy Tưởng, tác phẩm dựa trên những tư liệu được đề cập đến trong Hoàng Lê
nhất thống chí và Việt Lam Xuân Thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan
hệ giữa chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Nguyễn
Huy Tưởng không chỉ muốn dừng sự việc lại ở đó. Anh muốn tìm đến một bàn
tay dũng cảm vừa thể hiện tinh thần công lý phù hợp với ý dân, vừa phải hợp
với chân lý của lịch sử để trừng trị kẻ tàn bạo” [39, tr.61].
Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì đã được nhiều người
yêu thích và cho đến hôm nay, vẫn là một trong các tác phẩm được biết đến nhiều
nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã được chuyển thể sang chèo, cải lương
và đặc biệt, năm 1989, đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết lên màn ảnh rộng
càng góp phần phổ biến tác phẩm. Bộ phim đã trở thành tác phẩm kinh điển của
điện ảnh Việt Nam, không chỉ về mặt nội dung, nghệ thuật, mà còn được đánh là
một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước


12


đến nay. Rất nhiều bài viết đã nhắc đến thành công vang dội của bộ phim như:
Bài viết Đêm hội Long Trì trên màn ảnh của Hà Minh Đức [57]; bài Đêm hội
Long Trì - Một bộ phim thành công của Đinh Trọng Tuấn [76]; hay bài viết của
Thư Sinh “Đêm hội Long Trì” - nỗi lòng hậu thế gửi gắm đến ngàn xưa [71];
Huy Minh cũng có bài Đêm hội Long Trì - một lát cắt không thuộc về lịch sử [67];
hoặc bài phê bình Nhân xem phim “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối tiếp cận
lịch sử [52] của Lại Nguyên Ân… đã phân tích, đánh giá những điểm mới, lạ và
hấp dẫn của bộ phim trên nền tác phẩm văn học gốc là tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân viết: “Nhưng xin trở lại với phim Đêm hội…
Ngoài mọi điều khác, ta còn có thể cảm ơn các nhà làm phim đã cho chúng ta
được dịp cảm nhận một phần thế giới của Nguyễn Huy Tưởng, xem cách ông bày
các nhân vật lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của ông ra sao và qua đó nghĩ ngợi
thế nào về các nguyên nhân của tiến trình lịch sử” [52].
Sau khi tham khảo những cuốn sách, công trình khoa học, luận văn của
nhiều tác giả và các bài viết báo chí, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài: Đêm hội
Long Trì - Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh là một đề tài hay, có giá
trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đó là nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long Trì
và bộ phim điện ảnh cùng tên một cách đầy đủ từ văn bản văn học đến phim
chuyển thể. Luận văn của chúng tôi được thực hiện sẽ góp thêm một nghiên cứu
có tính hệ thống và sâu sắc về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên. Từ đó, khẳng định rõ hơn mối quan
hệ giữa văn học và điện ảnh trong dòng chảy nghệ thuật nước nhà.

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh Đêm hội Long


Trì trên hai phương diện: từ văn bản truyện đến kịch bản phim và những yếu tố
làm nên thành công của cả hai tác phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu


13

Phạm vi tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát trong luận văn này là:
1/ Tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì, Nhà xuất bản Kim Đồng, 167
trang, năm 2016. Tác giả: Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
2/ Tác phẩm điện ảnh Đêm hội Long Trì, Hãng Phim truyện Việt Nam,
tập 1 (thời lượng 95 phút), tập 2 (thời lượng 77 phút), năm 1989.
Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh;
Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm.
Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu thêm một số trường hợp
chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh Việt Nam để có điều kiện so sánh,
đối chiếu, từ đó có được cái nhìn bao quát hơn.
4.

Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
-

Tìm ra những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật

của tác phẩm Đêm hội Long Trì từ văn bản truyện đến kịch bản phim.
-


Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về những yếu tố làm nên

thành công của tác phẩm ở cả hai loại hình nghệ thuật.
-

Xác lập mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, cũng như những vấn đề

lý luận và thực tiễn trong việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm
điện ảnh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Khảo sát tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh cùng tên.
-

Chỉ ra những đặc sắc trong chuyển thể từ văn bản truyện đến kịch bản

điện ảnh và những yếu tố tạo nên thành công.
-

Thấy được những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và đạo

diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh, biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm đối
với nền nghệ thuật nước nhà. Đồng thời, chỉ ra sự gắn kết giữa văn học và điện
ảnh.
-

Ngoài ra, người viết luận văn còn nghiên cứu một số tác phẩm có cách

thức cải biên tương tự để làm cơ sở lý thuyết cho đề tài.



14

5.

Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn này được nghiên cứu bằng một số phương pháp khoa học như:

Phương pháp nghiên cứu liên ngành; Phương pháp so sánh; Phương pháp tổng
hợp và một số phương pháp khác…
Các kiến thức chủ yếu được sử dụng trong luận văn là các lý thuyết về
liên văn bản giữa văn học và điện ảnh, phân tích điện ảnh và phân tích văn học
dựa trên các hướng tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, chúng tôi có sử dụng các
kiến thức, khái niệm của lĩnh vực văn học và điện ảnh trong quá trình phân
tích, tìm hiểu vấn đề.
Luận văn cũng sử dụng một số thao tác khoa học cụ thể khi tiến hành
nghiên cứu như: Đối chiếu, so sánh; Tổng hợp; Phân tích và lý giải... nhằm chỉ
ra các yếu tố được kế thừa và sáng tạo trong phim chuyển thể so với tác phẩm
văn học và lý giải một cách đầy đủ, khoa học.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được xây
dựng thành 3 chương:
- Chương 1: Cốt truyện trong tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì và
tác
phẩm điện ảnh cùng tên.
- Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì

và phim dã sử cùng tên.
- Chương 3: Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ điện ảnh trong Đêm hội Long

Trì.

7.

Đóng góp của luận văn:
- Luận văn là công trình đầu tiên đánh giá tác phẩm văn học Đêm hội
Long

Trì và bộ phim cùng tên một cách toàn diện về hình thức nghệ thuật và nội dung,
cũng như những yếu tố làm nên thành công. Từ đó, góp phần khẳng định và làm
nổi bật vị trí, vai trò của tác phẩm ở 2 loại hình nghệ thuật và các tác giả: Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng; Đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh; Biên kịch Lê Phương
và Hoàng Nhuận Cầm trong nền văn học và điện ảnh nước nhà.


15

-

Luận văn còn là nguồn tư liệu hữu ích cho bạn đọc, học sinh, sinh viên

tham khảo khi nghiên cứu về văn học và điện ảnh Việt Nam.


16

NỘI DUNG
Chương 1
CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI LONG TRÌ
VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN
1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì
1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh

1.1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học
Ngành Tự sự học coi vấn đề cốt truyện trong các truyện kể là một trong
những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc và kết cấu của tác phẩm văn xuôi. Các
nhà nghiên cứu đã xây dựng nhiều hướng tiếp cận các tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ qua hệ thống cốt truyện, nhằm tìm ra phong cách riêng của nhà văn.
Đa số đều cho rằng, cốt truyện được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn
học thuộc thể loại tự sự và kịch.
Được coi là người đặt nền móng xây dựng lý thuyết nghiên cứu cốt
truyện, trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca, với quan điểm “nghệ thuật là sự mô
phỏng”, Aristote cho rằng: “Sự mô phỏng hành động là cốt truyện. Cốt truyện
là sự kết hợp các sự kiện, tính cách là cái cho ta biết tính chất nhân vật hành
động, còn tư tưởng là cái mà qua đó người nói muốn chứng minh một điều gì
đó, hay đơn thuần là bày tỏ ý kiến của mình” [1, tr.35], hay nói một cách khác,
“cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới đến các tính cách” [1,
tr.37]. Theo Aristote, cốt truyện là một hệ thống các sự kiện xung đột, hoặc
phát triển những sự kiện ấy theo trình tự tự nhiên của thời gian. Ông cũng nhấn
mạnh việc cần phải sắp xếp, bố trí một cách khéo léo các sự kiện theo trình tự
phát triển, có cái bắt đầu và cái kết thúc để tạo ra hiệu quả thẩm mỹ. Sau này,
các nhà nghiên cứu A.N.Veselovski, G.N.Pospelov, L.I.Timofeep, E.Dobin,
Kojikov, B.Tomachevski, V.Shklovski, P.Cobley, J.Culler, J.Lotman... khi thực
hiện các công trình nghiên cứu của mình đã đưa yếu tố cốt truyện vào khảo sát
hoặc đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau.


17



Việt Nam, yếu tố cốt truyện cũng được đề cập đến trong nhiều công


trình nghiên cứu lý luận văn học, thi pháp học. Trong cuốn sách Lý luận văn
học, Hà Minh Đức ( chủ biên) đã nêu quan điểm: “Cốt truyện là một hệ thống
các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là những xung
đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó, các tính cách hình thành và phát triển
trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng và chủ
đề tác phẩm” [11, tr.29]. Những sự kiện của một câu chuyện nào đó diễn ra
theo một cách thức riêng, được gọi là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật
tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý
đồ chủ quan của người kể, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo
sức hấp dẫn tối đa tới người đọc. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “Cốt truyện
(tiếng Anh: plot, tiếng Nga: siujet, tiếng Pháp: sujet): Hệ thống sự kiện cụ thể,
được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc các loại tự sự và kịch” [13, tr.99]. Theo đó, cốt truyện hàm chứa những
yếu tố, những khả năng để có thể tạo ra tính tư tưởng, tính nghệ thuật (tính
văn) cho một tác phẩm văn học, từ đó thể hiện dụng ý của nhà văn.
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có mối liên hệ chặt chẽ với kết cấu. Cốt
truyện nhằm để chỉ yếu tố nội dung, gồm những sự kiện, biến cố, hành động trong
tác phẩm tự sự và kịch được thể hiện theo một hệ thống cụ thể nhằm làm rõ mối
quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định. Còn kết
cấu nhằm để chỉ hình thức tổ chức, sắp xếp các chất liệu bên trong và bên ngoài
tác phẩm theo một trật tự, một quy định nào đó để chuyển tải nội dung nghệ thuật.
Nếu như cốt truyện có vai trò tổ chức hệ thống các tính cách, gợi mở đặc điểm
từng tính cách, đồng thời trình bày hệ thống các xung đột xã hội nhằm thu hút độc
giả, thì kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm
văn học. Trong tác phẩm Tự sự học: Mấy vấn đề lý luận và lịch sử (do Trần Đình
Sử chủ biên), tác giả đưa ra nhận định: “Cốt truyện là một chuỗi các



×