Tải bản đầy đủ (.docx) (204 trang)

Thơ việt nam những năm đầu thế kỷ XXI​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.18 KB, 204 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ MINH TÂM

THƠ VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Lê Văn Lân

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
mình. Các số liệu, dẫn chứng sử dụng trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công
bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu một
cách trung thực, khách quan, phù hợp với đối tƣợng nghiên cứu. Các kết quả này
chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì nghiên cứu nào khác.

Nghiên cứu sinh

Trần Thị Minh Tâm


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Lê Văn Lân đã tận tình hƣớng


dẫn, chỉ bảo từ khi ngƣời viết làm luận văn thạc sĩ cho đến bản luận án này. Nếu
không có sự hƣớng dẫn tận tâm của thầy, bản luận án này chắc chắn không thể hoàn
thành.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã
hội & Nhân văn đã chỉ bảo, giúp đỡ ngƣời viết trong quá trình hoàn thành luận án.
Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ, động viên
để ngƣời viết hoàn thành luận án này./.


MỤC LỤC
Lời cam đoan ....................................................................................................................
MỤC LỤC................................................................................................................1
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................4
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................5
5. Đóng góp của luận án.......................................................................................7
6. Cấu trúc của luận án........................................................................................7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.............................................9
1.1. Những đánh giá chung về thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.......8
1.2. Những nhận định về đặc điểm thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI
.............................................................................................................................. 12
1.3. Những nhận định về tác giả, tác phẩm tiêu biểu....................................... 19
Chƣơng 2. KHÁI QUÁT THƠ VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
................................................................................................................................. 41
2.1. Lực lƣợng sáng tác...................................................................................... 41
2.1.1. Các thế hệ nhà thơ................................................................................. 41
2.1.2. Các hoạt động thơ của lực lượng sáng tác............................................ 46
2.2. Quan niệm thơ những năm đầu thế kỷ XXI.............................................. 49

2.2.1. Cách tân là vấn đề cấp thiết của thơ...................................................... 50
2.2.2. Sự vận động và đổi mới quan niệm nghệ thuật về thơ..........................53
2.3. Các khuynh hƣớng sáng tạo tiêu biểu....................................................... 62
2.3.1. Khuynh hướng bảo tồn các giá trị thơ truyền thống............................. 64
2.3.2. Khuynh hướng cách tân trên cơ sở truyền thống.................................. 68
2.3.3. Khuynh hướng cách tân thơ triệt để...................................................... 71
Chƣơng 3. NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG CỦA NỘI DUNG THƠ VIỆT NAM ĐẦU

THẾ KỶ XXI.......................................................................................................... 80
3.1. Cảm hứng dân tộc lịch sử............................................................................ 80
3.1.1. Biển đảo quê hương, chủ đề nổi bật nhất trong cảm hứng lịch sử dân tộc đầu thế kỉ XXI
...........................................................................................................................................................82

3.1.2. Lịch sử và truyền thống dân tộc............................................................. 86
3.2. Dòng thơ thế sự ngày càng chiếm vị trí chủ đạo.......................................91
3.2.1. Thơ phản ánh hiện trạng xã hội trong thời đại kỹ trị và toàn cầu hóa 92


1


3.2.2. Trở về với các giá trị truyền thống như một giải pháp chống lại sự tha hóa
..................................................................................................................................96

3.2.3. Niềm tin và hy vọng.............................................................................. 101
3.3. Tình yêu và khát khao nhục cảm.............................................................. 103
3.3.1. Tình yêu - chủ đề vĩnh cửu................................................................... 104
3.3.2. Khát khao nhục cảm............................................................................. 106
3.4. Đi tìm cái tôi............................................................................................... 108
3.4.1. Cái tôi cá thể......................................................................................... 109

3.4.2. Cái tôi bản thể....................................................................................... 112
3.5. Đi vào vùng mờ tâm linh, vô thức, đậm chất siêu thực...........................115
Chƣơng 4. ĐA DẠNG HÓA NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN...............................121
4.1. Mở rộng đƣờng biên thể loại.................................................................... 121
4.1.1. Cách tân thể thơ truyền thống.............................................................. 123
4.1.2. Tự do hóa hình thức thơ....................................................................... 127
4.2. Hệ thống ngôn ngữ..................................................................................... 133
4.2.1. Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hàm súc............................................... 134
4.2.2. Xu hướng gia tăng ngôn ngữ đời thường, trần tục.............................140
4.2.3. Thử nghiệm chất liệu biểu đạt ngoài ngôn ngữ................................... 143
4.3. Hệ thống hình ảnh..................................................................................... 149
4.3.1. Hình ảnh đời thường, trần tục............................................................. 150
4.3.2. Hình ảnh lạ hóa mang màu sắc siêu thực........................................... 152
4.4. Hƣớng tới đa giọng điệu........................................................................... 155
4.4.1. Giọng độc thoại – giãi bày chiếm vị trí chủ đạo................................... 155
4.4.2. Các giọng điệu khác............................................................................. 159
KẾT LUẬN........................................................................................................... 165
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN.............................................................................................................. 168
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 169
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 181

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thơ là thể loại có lịch sử lâu dài, trở thành hình thức nghệ thuật hầu nhƣ ai
cũng biết đến. Cho dù những năm gần đây thơ không đạt đƣợc thành tựu nhƣ tiểu
thuyết và cũng không đƣợc độc giả chào đón mặn nồng nhƣ trƣớc nhƣng thơ vẫn

là phƣơng tiện hữu hiệu nhất bộc lộ đời sống tâm hồn của con ngƣời thời nay, vẫn
là một thể loại không thể không quan tâm trong nghiên cứu, phê bình văn học.
Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đất nƣớc mở cửa hòa nhập với
thế giới; các lý thuyết, trƣờng phái thơ từ thế giới bên ngoài tràn vào khuấy động
nền thơ trong nƣớc tạo tiền đề cho sự phát triển một giai đoạn thơ mới. Bƣớc vào
thế kỷ XXI, bắt đầu từ năm bản lề năm 2000, một không gian văn học mới đƣợc mở
ra: không gian văn học mạng với nhiều website, blog văn học ra đời, việc truyền bá
cũng nhƣ tiếp cận tác phẩm trở nên dễ dàng. Môi trƣờng mạng còn là nơi gặp gỡ
giao lƣu giữa văn học trong nƣớc và ngoài nƣớc, là diễn đàn trao đổi học thuật sôi
nổi. Môi trƣờng văn hóa nhƣ vậy làm nảy sinh cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện
mới. Nhiều ngƣời làm thơ ấp ủ hoài bão sáng tạo và thử nghiệm những lối thơ khác
lạ. Vậy sau gần hai thập kỷ (tính từ năm 2000) thơ Việt đã có bƣớc phát triển nhƣ
thế nào, liệu có thể làm nên một cuộc cách mạng thơ nhƣ đầu thế kỉ trƣớc? Đó là
câu hỏi cần lời giải đáp.
Có một điều không thể phủ nhận: thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI phát triển
trong sự đa dạng, phức tạp. Một mặt, lối thơ trữ tình giàu nhạc tính vẫn đƣợc ƣa
dùng nhƣ một quán tính, mặt khác là những cách tân thơ quyết liệt từ thể tài đến
ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu. Các cuộc tranh luận thơ cách tân hay không cách
tân cũng gay gắt chẳng kém tranh luận thơ cũ, thơ mới ở đầu thế kỷ trƣớc. Ngay cả
giới phê bình cũng có những đánh giá trái chiều về sự phát triển của thơ giai đoạn
này. Một giai đoạn thơ đa dạng, phức tạp nhƣ vậy đáng đƣợc quan tâm nghiên cứu.
Mỗi chặng đƣờng thơ cần đƣợc tổng kết và đánh giá kịp thời để có cái nhìn
toàn cảnh và khách quan những thành tựu và hạn chế của nó. Gần hai thập kỷ của
thế kỷ mới đã trôi qua, cần có cái nhìn khái quát sự vận động của thơ giai đoạn này,

3


từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá nó với các giai đoạn thơ khác. Tuy nhiên nhận định
về một nền thơ đang lƣu chuyển là một việc mạo hiểm và nhiều thử thách. Mạo

hiểm là bởi có nhiều thứ chƣa đƣợc định hình, nhiều đặc điểm chƣa đƣợc ổn định
và còn tiềm tàng nhiều bất ngờ mà ngƣời nghiên cứu chƣa lƣờng đến. Thử thách là
bởi phạm vi quá rộng, nhất là trong thời kỳ bung nở ồ ạt tác phẩm thơ với rất nhiều
khuynh hƣớng, thử nghiệm. Việc đi sâu vào biện giải từng trào lƣu, khuynh hƣớng,
đánh giá thành tựu, hạn chế của giai đoạn thơ vẫn còn đang vận động, lƣu chuyển
này là việc làm rất khó, cần phải có thêm độ lùi thời gian. Chúng tôi chỉ đặt ra mục
tiêu bằng cái nhìn khách quan và bao quát, vẽ lên những nét cơ bản về diện mạo
cũng nhƣ khái quát một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật biểu hiện của thơ
Việt Nam đầu thế kỷ XXI (tính từ năm 2000 đến năm 2015).
2.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu

Thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ là một dòng thơ còn đang chuyển động,
do đó chƣa có nhiều đánh giá khách quan khái quát cũng nhƣ những nghiên cứu
chuyên sâu. Ngƣời viết đã khảo sát và bao quát một thực tiễn sáng tác rộng lớn để
phác thảo diện mạo cũng nhƣ đặc điểm của giai đoạn thơ này để bổ sung phần nào
vào chỗ trống trong nghiên cứu về thơ đƣơng đại trong tiến trình văn học sử. Qua
việc khảo sát, nghiên cứu diện mạo, đặc điểm thơ những năm đầu thế kỷ XXI,
chúng tôi có cơ sở so sánh thơ giai đoạn này với thơ các giai đoạn trƣớc đặc biệt là
giai đoạn đổi mới thơ cuối thế kỷ XX, để xem thơ những năm đầu thế kỷ XXI chỉ là
một vệt kéo dài của thơ cuối thế kỷ XX hay là đã có đƣợc những sự thay đổi đột
phá của một nền thơ mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cụ thể nhƣ sau: Khái
quát những nét chung của thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI qua việc khảo sát lực lƣợng
sáng tác và sự vận động của quan niệm nghệ thuật; tình hình đổi mới
thơ và những khuynh hƣớng sáng tạo chính của thơ giai đoạn này.

Tìm hiểu những đặc điểm nổi bật về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của thơ
Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

4


Từ đó đƣa ra những đánh giá khách quan những thành tựu cũng nhƣ những
hạn chế của thơ giai đoạn này.
3.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là phác họa diện mạo, nhận diện đặc
điểm thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI nhìn từ nội dung và nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Có thể nói chƣa có giai đoạn nào trên thi đàn lại xuất hiện đội ngũ ngƣời
làm thơ đông đảo nhƣ bây giờ; cùng với đó là số lƣợng tác phẩm thơ đƣợc in ra
cũng không thể thống kê hết, chƣa kể thơ trên báo, thơ trên mạng internet, do đó
việc khảo sát tất cả các tác giả, tất cả các tập thơ là điều không thể. Luận án chủ yếu
khảo sát các tác giả tiêu biểu và các tác phẩm tiêu biểu trong nƣớc trong khoảng 15
năm đầu thế kỷ XXI. Cụ thể, về tác phẩm luận án chủ yếu khảo sát các tuyển thơ đã
đƣợc tuyển chọn nhƣ Thơ trên Sông Hương (tuyển chọn 2003-2013) [133], Thơ
mười năm đầu thế kỷ XXI [134], các tập thơ nhận đƣợc các giải thƣởng văn học uy
tín, một số hiện tƣợng thơ gây chú ý trên thi đàn đầu thế kỷ. Bên cạnh đó luận án có
mở rộng đến tác phẩm không thuộc giai đoạn này để phục vụ cho việc so sánh các
giai đoạn thơ với nhau. Luận án không khảo sát thơ hải ngoại nhƣng tham khảo một
số trào lƣu có ảnh hƣởng khá đậm đến thơ trong nƣớc nhƣ thơ Tân hình thức.
Ngoài ra, luận án chỉ giới hạn tƣ liệu khảo sát ở mảng sáng tác dành cho ngƣời lớn,
không tìm hiểu về văn học thiếu nhi, một bộ phận quan trọng trong diện mạo văn

học nƣớc nhà.
Về tác giả, luận án tập trung vào những tên tuổi gây đƣợc dấu ấn nhất định
với giới nghiên cứu, phê bình cũng nhƣ độc giả thông qua những bài viết, nhận
định, đánh giá mà ngƣời viết tập hợp đƣợc. Tất nhiên, với một số lƣợng tác phẩm
đồ sộ và đội ngũ sáng tác đông đảo, việc lựa chọn tác phẩm, tác giả nào là tiêu biểu
để khảo sát là việc làm có tính chất tƣơng đối.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài của luận án là một vấn đề văn học sử, do đó chúng tôi chủ yếu sử
dụng các phƣơng pháp sau đây:

5


-

Phương pháp xã hội học

Phƣơng pháp xã hội học có nhiệm vụ tìm hiểu các mối quan hệ giữa văn
học với xã hội, giúp hiểu đƣợc những khía cạnh ngoại văn học có liên quan mật
thiết đến bản chất của hiện tƣợng văn học, từ đó hiểu rõ bản chất của hiện tƣợng
văn học hơn. Việc nghiên cứu diện mạo, đặc điểm thơ đầu thế kỷ XXI phải đƣợc
đặt trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nƣớc cũng nhƣ thế giới
thời kỳ này để lý giải các khuynh hƣớng vận động của các trào lƣu thơ.
-

Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thi pháp thể loại

Để đƣa ra đƣợc những đặc điểm của thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI, không thể không phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thi pháp thể loại.
-


Phương pháp hệ thống

Mỗi một tác phẩm, mỗi một thể loại hay mỗi một giai đoạn văn học đều là
một tiểu hệ thống cấu trúc thẩm mĩ có những logic sáng tạo riêng. Phƣơng pháp hệ
thống sử dụng trong luận án này nhằm nghiên cứu hệ thống đề tài, chủ đề, hệ thống
nghệ thuật biểu hiện trong thơ Việt Nam đầu thế kỉ XXI, mối quan hệ giữa các yếu
tố trong hệ thống, cũng nhƣ mối quan hệ giữa các hệ thống ấy.
Ngoài ra chúng tôi sử dụng các thao tác bổ trợ sau:
-

Thao tác thống kê

Thao tác thống kê cần thiết khi khảo sát các tuyển tập, các tập thơ trên
những tiêu chí nhất định để làm căn cứ khách quan khi đƣa ra những kết luận về
diện mạo, đặc điểm của giai đoạn thơ.
-

Thao tác so sánh

Diện mạo, đặc điểm của thơ đầu thế kỷ XXI chỉ có thể đƣợc làm rõ trong sự
so sánh với diện mạo và đặc điểm của các giai đoạn thơ trƣớc đó để thấy đƣợc đâu
là những đặc điểm có tính kế thừa, tiếp nối, đâu là những đặc điểm riêng có của thơ
giai đoạn này.
- Thao tác phân tích, tổng hợp
Để đƣa ra đƣợc những kết luận về diện mạo, đặc điểm của thơ Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XXI, không thể không phân tích các trào lƣu, khuynh hƣớng

6



tiêu biểu, những vấn đề về nội dung cũng nhƣ hình thức biểu hiện của thơ giai đoạn
này, từ đó tổng hợp, rút ra những nhận định khái quát.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu khái quát tổng thể giai đoạn thơ
Việt Nam đầu thế kỷ XXI, dựng lại tƣơng đối đầy đủ diện mạo và quá trình vận
động của giai đoạn thơ này.
Tìm ra đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ Việt Nam đầu thế kỷ
XXI, từ đó làm rõ thêm nhiều thành tựu của thơ giai đoạn mà cho đến nay vẫn chƣa
đƣợc đánh giá đúng mức
Những nhận định về diện mạo và đặc điểm của thơ Việt Nam đầu thế kỷ
XXI là tài liệu có tính chất tham khảo để những ngƣời quan tâm, nghiên cứu sâu
hơn về các tác giả, các trào lƣu thơ hiện nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận án đƣợc triển khai
qua bốn chƣơng:
-

Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

-

Chƣơng 2: Khái quát thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI

kỷ

Chƣơng 3. Những chuyển động của nội dung thơ Việt Nam đầu thế

XXI.
- Chƣơng 4. Đa dạng hóa nghệ thuật biểu hiện


7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Thơ đầu thế kỷ XXI đang vận động, do đó hầu nhƣ chƣa có công trình khảo
cứu chuyên sâu về nó. Có chăng, nó chỉ xuất hiện thoáng qua trong các công trình
nghiên cứu về thơ sau 1975 hoặc thơ sau đổi mới 1986. Tuy nhiên các tiểu luận, các
bài viết nhỏ bàn về thơ đầu thế kỷ XXI đăng trên tạp chí chuyên ngành, diễn đàn
văn nghệ, blog, website văn học lại vô cùng phong phú. Qua nghiên cứu tƣ liệu
chúng tôi thấy có 3 xu hƣớng nghiên cứu: thứ nhất là những đánh giá chung về thơ
giai đoạn này; thứ hai là những nhận định về một số đặc điểm nội dung, nghệ thuật
của giai đoạn thơ, và thứ ba là những nghiên cứu về tác giả hoặc tác phẩm cụ thể.
1.1. Những đánh giá chung về thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI
Đánh giá thơ đầu thế kỷ XXI cho đến nay còn có nhiều ý kiến trái chiều.
Trong kỷ yếu hội thảo Thơ Việt hiện đại nhìn từ miền Trung [124], nhiều ý kiến tỏ ra
bi quan “thơ đang có vấn đề và cần đổi mới nó” (Hữu Thỉnh), “tình trạng vè hóa
thơ, cũ hóa, văn xuôi hóa thơ” (Nguyễn Trọng Tạo), “thơ của chúng ta èo uột, làng
nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa” (Nguyễn Hoàng Đức), “Cái khó mà thơ lâm
phải hiện nay là thời kỳ giáp hạt tƣ tƣởng, sự khủng hoảng của nó cũng do đó mà
ra.” (Vũ Quần Phƣơng), “thơ đang mất chỗ đứng trong ồ ạt của cạnh tranh thị
trƣờng… Nhiều bài thơ nhợt nhạt, quanh quẩn, ngô nghê, đƣợc viết với một trạng
thái vô cảm… thơ Việt đang trong cơn bĩ cực trên cả hai phƣơng diện chủ quan và
khách quan” (Lê Thành Nghị), “Sự kiện thơ mất giá nhƣ thế diễn tiến qua nhiều
năm” (Nguyễn Chí Hoan). Nghĩa là diện mạo thơ nhợt nhạt, cũ kỹ, không có gì
đáng để bàn.
Nhƣng ở chiều ngƣợc lại, Đông Hà lại cho rằng thơ nói riêng và văn chƣơng
đầu thế kỷ XXI nói chung có diện mạo đa màu sắc: “nhìn một cách khái quát, văn
chƣơng Việt đang mang một diện mạo đa màu sắc. Có thứ văn chƣơng giải trí, văn

chƣơng giãi bày, văn chƣơng dƣỡng già, văn chƣơng phô diễn và văn chƣơng nghề
nghiệp” [dẫn theo Lê Minh Phong, 150]. Đồng quan điểm, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn
hóa Inrasara còn cho rằng thơ đƣơng đại đang vận động và phát triển không

8


ngừng, nhƣng phê bình hiện đại thì không theo kịp sự phát triển của thơ để làm
nhiệm vụ cầu nối giữa thơ và công chúng: “Các nhà thơ đƣơng đại không viết khi
đã xác định con đƣờng, hay nói theo giọng thời thƣợng - khi đã "tìm thấy mình",
mà vừa viết vừa tự khám phá chính mình… Họ viết - thế thôi. Liên tục chuyển động
và thay đổi. Không nhiều nhà phê bình nhận ra điều đó. Rất ít nhà phê bình theo kịp
sự chuyển động của họ. Không theo kịp, nhà phê bình mãi ở lại căn chòi mĩ học cũ
để nhìn về thơ đƣơng đại, nhận định và phán xét nó. Tiếc thay!” [71].
Về xu hướng phát triển thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI, nhiều ngƣời cho rằng,
thơ đang vận động với nhiều xu hƣớng, khuynh hƣớng với nhiều trào lƣu và trƣờng
phái. Trong bài viết Ba khuynh hướng vận động của thơ Việt Nam đương đại, Nguyễn
Thanh Tâm căn cứ trên những biểu hiện về mặt quan niệm thơ, cách kiến tạo thi ảnh,
các phƣơng tiện cấu trúc thi giới, những ứng xử với ngôn ngữ, những động hình của tƣ
duy và mỹ cảm... nhận định thơ Việt Nam sau 1975 vận hành theo ba khuynh hƣớng
lớn: Khuynh hƣớng bảo tồn những giá trị thơ truyền thống/ Khuynh hƣớng cách tân/
Khuynh hƣớng cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống. Khuynh hƣớng cách tân lại có
thể chia ra hai hƣớng chuyển động - cách tân về nội dung thể tài, thi hứng và cách tân
về hình thức ngôn ngữ thi ca. Nhƣng đồng thời Nguyễn Thanh Tâm cũng nhận thấy
việc chia thành ba khuynh hƣớng nhƣ vậy chỉ có tính chất tƣơng đối vì “tác giả của
khuynh hƣớng này có lúc, có chỗ lại giao thoa, thâm nhập vào khuynh hƣớng khác,
không phải là những khuôn hình cố định, bất biến”. Ngoài cách chia này, theo tác giả
còn có thể chia khuynh hƣớng phát triển của thơ theo nhiều tiêu chí khác nữa. Từ góc
độ thể loại, có thể thấy thơ Việt sau 1975 rẽ làm hai nhánh: phát huy thế mạnh của các
thể loại đã có/ sáng tạo hình thức thể loại mới. Từ phƣơng pháp sáng tác, thi pháp có

thể thấy sự hiện diện của thơ cổ điển, lãng mạn, tƣợng trƣng, siêu thực, tân cổ điển,...
Từ góc độ ngƣời tiếp nhận lại có thể nhận thấy hai hiện trạng: thơ dành cho đại chúng
(văn học phổ thông) và thơ chỉ dành cho những tầng lớp tinh tuyển - thơ khó. Từ lý
thuyết hệ hình lại có thể nhận ra dấu vết của kiểu thơ thuộc hệ hình Tiền hiện đại/ Hiện
đại/ Hậu hiện đại [174].

Inrasara nhìn ở góc độ các trào lƣu văn học thì chia thơ Việt đầu thế kỷ XXI
ra 5 trào lƣu chính: Thơ “cổ truyền”, thơ tân hình thức (new formalism poetry, thơ

9


nữ quyền luận, thơ thị giác (visual poetry) trong đó thơ trình diễn (poetry
performance) là một nhánh nổi bật, trào lƣu thơ hậu hiện đại” [70].
Trong các trào lƣu thơ đó, trào lƣu hậu hiện đại nhận đƣợc sự quan tâm của
đông đảo giới phê bình cũng nhƣ bản thân các nhà thơ. Sự xuất hiện của thơ hậu
hiện đại vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI khiến cho phê bình văn học sôi động
hẳn lên. Cuộc trao đổi - đối thoại về chủ nghĩa hậu hiện đại trên phƣơng diện lý
thuyết và biểu hiện thực tế của nó trong văn học Việt Nam tạo thành một sự kiện
đáng chú ý trên một số diễn đàn, gồm cả báo mạng internet và báo viết. Báo điện tử
Tổ quốc có các bài viết: “Câu chuyện về một kiểu cắt nghĩa xã hội” (Lã Nguyên),
“Văn chƣơng Hậu hiện đại, nhìn từ góc độ sáng tác” (Lê Anh Hoài), “Đối thoại về
con đƣờng đi vào văn chƣơng hậu hiện đại Việt Nam” (Inrasara), “Một cái nhìn về
thực tiễn văn chƣơng hậu hiện đại” (Phùng Gia Thế). Tạp chí Hồng Lĩnh cũng đăng
loạt bài: “Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại” (Hoàng
Ngọc Hiến), “Về lối viết hậu hiện đại trong văn học ta” (Hà Quảng). Bản tin Lý
luận phê bình văn học nghệ thuật số 10/2009 có bài: “Nhận biết về chủ nghĩa hậu
hiện đại trong nghệ thuật” (Hồ Sĩ Vịnh)... Đến cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ
XXI, nhận diện phê bình văn học hậu hiện đại (trong đó có nhận diện, phê bình thơ
hậu hiện đại) ở nƣớc ta tạo thành một vệt đậm và gây chú ý cả các tác giả ở hải

ngoại. Nhìn chung các ý kiến đánh giá về thơ hậu hiện đại có thể quy về ba nhóm.
Nhóm thứ nhất kịch liệt phản đối loại thơ này. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoà thì cho
rằng: “hậu hiện đại là một cái áo quá rộng cho một cơ thể còm” và đề xuất “hãy đi
hết hiện đại đã rồi hãy nghĩ đến hậu hiện đại” [58]. Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên thì
cho thơ cách tân (hiện đại, hậu hiện đại) chỉ là một mớ hỗn độn “nhân danh cách tân
nhiều ngƣời đã cho ra đời một thứ chẳng biết gọi là gì: văn nói, ghi chép, nhật ký,...
chỉ biết rằng nó giống nhƣ món “óc sống” khiến công chúng không thể nào tiêu hóa
nổi” [216]. Ở phía bên kia, Inrasara là ngƣời nhiệt thành ca ngợi thơ hậu hiện đại:
“Thơ hậu hiện đại là trò chơi địa phƣơng của những kẻ tự nguyện sáng tác ngoài lề
trong thời đại toàn cầu hóa. Với tinh thần phá chấp triệt để qua tầm nhìn rộng mở và
thái độ dân chủ tuyệt đối, thế hệ nhà thơ hậu hiện đại hôm nay là kẻ sáng tạo tiền vệ
đang đổi mới thơ Việt, đổi mới cách viết và cách đọc, qua đó thúc đẩy công cuộc

10


giải lãnh thổ hoá deterritorialize, giải quốc gia hoá denationalize và giải địa phƣơng
hóa delocalize văn học. Họ đang có đó, nhƣ một hiện tƣợng” [71]. Thậm chí
Inrasara còn kỳ vọng thơ hậu hiện đại có thể “làm một cuộc cách mạng cho thơ
Việt” [71]. Một số nhà nghiên cứu thì có cái nhìn toàn diện hơn, một mặt họ thừa
nhận những sáng tạo thơ theo lối hiện đại và hậu hiện đại là những nỗ lực đáng
đƣợc trân trọng trong hành trình cách tân thơ Việt, có những tác phẩm thực sự giá
trị; mặt khác họ phê phán những sáng tạo cực đoan đang phá hoại giá trị thẩm mĩ
của thơ ca. Nguyễn Thanh Tâm trong bài viết Bắt mạch thơ hiện nay một mặt “quả
quyết rằng thơ hiện nay có nhiều sự cách tân, và sự thật có nhiều cách tân có giá trị,
có không ít bài thơ, tập thơ hay đƣợc công chúng đánh giá cao” nhƣng mặt khác tác
giả cũng chỉ ra hiện trạng cũng còn nhiều ngƣời nhân danh sáng tạo, cách tân đẩy
thơ đến cực đoan, bế tắc “Có bài thơ nhƣ là tiếng chửi, tục tĩu không chịu đƣợc. Có
bài thơ ù lì, tăm tối nhƣ hũ nút, tịnh không một tín hiệu dẫn đƣờng nào đến ánh
sáng nghệ thuật. Nhân danh vô thức, tiềm thức, nhân danh sự tạo nghĩa của ngôn từ

trong những ngẫu hợp bất định, những tác giả này cho ra đời những văn bản “vô
nghĩa lý”, siêu hình hết mức. Lại có những bài thơ đầy tính hận thù, hậm hực với tƣ
tƣởng chính trị, văng đủ thứ trong thơ, lôi tuột tất cả ra vỉa hè, xuống lòng đƣờng
để tung hô thứ triết lý sống hết sức tầm thƣờng” [172].
Về lực lượng sáng tác, nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận vai trò của các nhà
thơ trẻ. Trong bài viết Cách tân nghệ thuật và thơ trẻ đương đại, Lƣu Khánh Thơ
nhận thấy nỗ lực làm mới của thơ trẻ: “Có thể thấy rằng thơ trẻ đang cố gắng để
khác các thế hệ đi trƣớc. Cái mạnh của lớp trẻ hôm nay là họ đang tạo ra một không
khí dân chủ trên thi đàn với nhiều giọng điệu, nhiều khuynh hƣớng. Họ đƣợc tự do
trong cảm xúc, trong các cách thể hiện. Hầu nhƣ đối với họ không có điều gì là cấm
kỵ, không có điều gì phải né tránh. Dễ nhận thấy một điều rằng, những ngƣời làm
thơ trẻ hôm nay hƣớng sự chú ý của mình vào việc khai thác tâm trạng cá nhân. Họ
tinh tế, nhạy bén với những cảm xúc riêng tƣ, đơn lẻ nhƣng ít khi mở ra, vƣơn tới
những vấn đề xã hội rộng lớn. Những vấn đề quan thiết của đời sống cộng đồng ít
có tác động đến những bài thơ của họ. Nhìn vào những ngƣời làm thơ trẻ hôm nay,

11


thấy rõ một điều là họ đang cố gắng tìm cách phô diễn những xúc cảm của mình
bằng những hình thức nghệ thuật có nhiều tìm tòi đổi mới.” [191]
Đồng quan điểm ấy, Yến Nhi trong bài viết Mỹ cảm nghệ thuật mới trong
thơ trẻ cũng khẳng định vai trò đổi mới thơ của các nhà thơ trẻ: “Thơ đƣơng đại có
nhiều thay đổi để tiến gần đời sống, cập nhật đời thƣờng với tâm lý con ngƣời bây
giờ. Trong không khí bộn bề của sự tìm tòi đổi mới, nhiều tác phẩm của tác giả trẻ
tạo những nét riêng khó nhầm lẫn, gây đƣợc nhiều ấn tƣợng sâu sắc với công chúng
yêu thơ, tạo một vẻ đẹp mới về cách xây dựng hình tƣợng.” [122]
1.2. Những nhận định về đặc điểm thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI

Nghiên cứu về thơ sau 1975 (trong đó bao gồm cả giai đoạn thơ đầu thế kỷ

XXI), một trong những vấn đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là chỉ ra những
đặc điểm nổi bật về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của thơ giai đoạn này. Tác giả
Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn toàn cảnh
chỉ ra các khuynh hƣớng nổi bật về nội dung, chủ đề của thơ Việt Nam sau 1975
nhƣ: Xu hƣớng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân
tộc/ Xu hƣớng trở về với cái tôi cá nhân, những lo âu của đời sống thƣờng nhật/ Xu
hƣớng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tƣợng trƣng, siêu thực/ Xu
hƣớng hiện đại (và hậu hiện đại). Về nghệ thuật, Nguyễn Đăng Điệp cũng chỉ ra sự
biến đổi về thể loại và ngôn ngữ trong thơ sau 1975. Thể loại biến đổi theo ba
khuynh hƣớng: Sự nới lỏng cấu trúc các thể thơ truyền thống; Thơ tự do và thơ văn
xuôi; Sự nở rộ của trƣờng ca. Về ngôn ngữ, tác giả khẳng định đã có những động
hình ngôn ngữ mới với một số loại hình ngôn ngữ nổi bật nhƣ: Ngôn ngữ đậm chất
đời thƣờng; Ngôn ngữ giàu chất tƣợng trƣng; Những trò chơi ngữ nghĩa trong thơ;
Ngôn ngữ thân thể trong thơ [35, tr.56 - 82].
Đặng Thu Thủy trong chuyên khảo Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỷ
80 đến nay những đổi mới cơ bản đã chỉ ra những đổi mới thơ trên những
phƣơng
diện cơ bản. Về quan niệm thơ, tác giả cho rằng các nhà thơ sau đổi mới đã nhận
thức lại về những giới hạn và tiềm năng của thơ ca. Thơ không còn những khả năng
kì diệu, những sứ mệnh cao cả, mà với các thi sĩ thời nay làm thơ nhƣ một cách để
giải tỏa tâm trạng, để phiêu lƣu trong cuộc chơi thú vị với ngôn từ hoặc thơ chỉ là

12


một trò chơi. Tác giả cũng chỉ ra sự đổi mới về cảm hứng thơ, đó là xu hƣớng nhận
thức lại về lịch sử xã hội từ góc nhìn phi sử thi, phản lãng mạn; nhận thức về những
giới hạn của xã hội nhìn từ “bề sau, bề sâu”; xu hƣớng trở về của cái tôi cá nhân, cá thể
với khát vọng hƣớng đến một tình yêu trần thế và xu hƣớng đi sâu khai thác thế giới
tâm linh, vô thức. Tác giả cũng chỉ ra những đổi mới về nghệ thuật nhƣ sự mở rộng

biên độ thể loại, kết cấu linh hoạt và hiện đại, ngôn ngữ dụng công và thả phóng; hình
ảnh cực thực, siêu thực, ẩn dụ và biểu tƣợng; tạo giọng và xóa giọng [195].
Lê Thành Nghị trong Thơ và công chúng thơ hôm nay thì cho rằng những thay
đổi của thơ hôm nay có thể gom lại trên ba hƣớng chính. Một là những tìm tòi thay đổi
nghiêng về mặt hình thức, cụ thể là nghiêng về ngôn ngữ biểu hiện, đó là những trò
chơi ngôn ngữ, không quan tâm đến ngữ nghĩa hoặc là sáng tạo những ngữ nghĩa mới
cho ngôn từ. Hai là những cố gắng đổi mới thơ về giọng điệu từ điệu ngâm, điệu hát
sang điệu nói. Ba là, xu hƣớng đƣa vào thơ những câu nói thƣờng [124].

Công trình nghiên cứu công phu nhất về thơ đầu thế kỷ XXI cho đến thời
điểm này, theo chúng tôi, có lẽ là tiểu luận Thơ cách tân và thi pháp nghệ thuật mới
của Nguyễn Vũ Tiềm đăng trên website của Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh.
Trong tiểu luận, tác giả nhận định thơ cách tân Việt đầu thế kỷ XXI đã hình thành và
từng bƣớc định hình trong 4 dòng chảy chính: Hiện thực đa chiều & huyền ảo; Phản
biện, dự báo & thức tỉnh; Chia sẻ nỗi đời & nỗi đau; Folklore – humor & ngoại
biên. Bên cạnh đó theo tác giả, thơ cách tân Việt đầu thế kỷ XXI có 10 đặc điểm sau
đây: Thơ cách tân tháo dỡ tất cả các khung hình cũ để chỉ còn khoảng trời mênh
mông trên trang giấy; thơ cách tân thể hiện bản chất cuộc đời nhƣ nó vốn có theo
cảm xúc và suy tƣởng của nhà thơ. Bút pháp trƣớc đây nghiêng về cảm xúc, tả chân
giờ nghiêng về ý tƣởng, suy tƣởng; Thơ cách tân, trừ lục bát, còn phần lớn thơ tự
do đã bỏ hết vần, chỉ còn nhịp điệu tiết tấu; Thơ cách tân dƣờng nhƣ không đáp
ứng yêu cầu dễ đọc, dễ thuộc và rất khó ngâm ngợi, chỉ dành cho nghĩ ngợi, nhiều
va đập và “sinh sự” phá vỡ vỏ bọc khô cằn bảo thủ; Chất văn xuôi cùng với nhiều
chi tiết đời sống tràn vào, ngôn ngữ đời thƣờng tham gia vào thơ nhiều hơn; Thơ
cách tân tạo nhiều khoảng trống, nhiều vụn vỡ tự nhiên; nhiều tình huống bất ngờ,
xác lập tƣơng quan mới trong kết cấu ngôn từ và kiến trúc hình ảnh, hình tƣợng,

13



biểu tƣợng; Ẩn dụ đơn, ẩn dụ kép sử dụng với mật độ cao hơn; Phản đề, nghịch lý
đƣợc sử dụng trong thơ cách tân nhiều hơn; Thơ cách tân thƣờng thiết kế đa tuyến,
phức điệu, đa cực hơn; Thơ cách tân không khuôn vào một hƣớng mà mở ra nhiều
hƣớng liên tƣởng, không chỉ có một mà nhiều cách cảm và hiểu [202]. Tuy nhiên,
tiểu luận của Nguyễn Vũ Tiềm chỉ bàn đến dòng thơ cách tân chứ không phải tất cả
các dòng thơ của giai đoạn thơ này. Mặt khác những nhận định của tác giả mới chỉ
là những gợi ý mang tính gợi mở chứ chƣa phải là những kết luận rút ra từ sự khảo
cứu chuyên sâu.
Hà Quảng trong bài viết Nghĩ về thơ Việt đương đại cho rằng mở rộng biên độ
cảm xúc và đối tƣợng thẩm mỹ là nhu cầu thiết yếu của thơ hiện nay. “Cái mới của thơ
trƣớc hết đó là cách cảm xúc mới của con ngƣời Việt Nam đƣơng đại, nổi bật là xúc
cảm của nhà thơ trƣớc cuộc sống hiện tại, một cuộc sống sôi nổi trong một đất nƣớc
độc lập đang trên đƣờng phát triển, hội nhập trong một thế giới không còn chia cách.
Từ cái xúc cảm mới mẻ này nó kéo theo những mới mẻ khác của đặc trƣng nghệ thuật,
của thi pháp mà truyền thống chƣa có”. Việc mở rộng biên độ cảm xúc trong thơ gắn
liền với việc mở rộng phạm vi đối tƣợng thẩm mỹ. Đề tài của thơ không còn độc tôn
cho những vấn đề thời sự chính trị, những vấn đề gắn với thông tấn báo chí, thơ có thể
đề cập đến mọi vấn đề của đời sống con ngƣời miễn là với “cái nhìn của thơ” để tái
hiện chân lý cuộc sống. Về nghệ thuật, tác giả khẳng định thơ đƣơng đại đang cách tân
về các hình thái tổng hợp thẩm mỹ, các thủ pháp nghệ thuật để nâng cao hiệu ứng cảm
xúc “Loại thơ thiên về thanh, vần, điệu về cái nhịp nhàng đƣa đẩy dần đƣợc thay bằng
những thi phẩm bộn bề tự do mang âm hƣởng đời sống. Hình tƣợng nghệ thuật thơ đa
dạng và mới mẻ. Nhà thơ ít chú ý đến các biện pháp đơn lẻ mà định hƣớng vào “hình
tƣợng tổng thể” của toàn bài thơ. Hình tƣợng thơ đƣơng đại thƣờng là một phức thể
kết hợp nhiều yếu tố, nhiều biện pháp, từ miêu tả hiện thực một cách cụ thể - lịch sử,
thể hiện cuộc sống nhƣ vốn có, tiến một cấp chấp nhận các yếu tố tƣợng trƣng, ƣớc lệ,
kỳ ảo, đến bây giờ các thủ pháp tổng hợp thẩm mỹ của văn học đặc biệt là thơ đã tiến
thêm một bƣớc vào địa hạt tâm linh, vô thức”. Về ngôn ngữ, thơ đƣơng đại nói chung
“lấy việc hoà nhập đời thƣờng làm tiêu chí, sử dụng vốn từ vựng không câu nệ bác học
hay dân dã, kể cả từ


14


địa phƣơng, từ tục”. Về cú pháp “các tác giả sử dụng các dấu chấm, phẩy, viết hoa,
sang dòng… rất phóng khoáng. Có khi cả bài là một câu, lại có khi nhiều câu trong
một dòng. Lối vắt dòng tạo đột biến trong cảm xúc, các khoảng lặng gây sự chú ý
kéo dài…”. Nhiều nhà thơ thử nghiệm lối viết hậu hiện đại nhƣ kết cấu đa tầng,
hình tƣợng kỳ ảo - huyễn tƣởng, cắt dán - lắp ghép, tục hoá và giễu nhại… Nhiều
thủ pháp tân kỳ mới nhập vào từ nền thơ phƣơng Tây, tuy chỉ tồn tại nhƣ những
khúc dạo đầu nhƣng cũng có nhiều hứa hẹn. [157]
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về thơ Việt Nam sau 1975 dƣới
những góc độ cụ thể. Lê Hồ Quang tìm hiểu về Tư duy thơ Việt Nam sau 1975 qua
sáng tác của một số tác giả thế hệ Đổi mới để thấy đƣợc sự thay đổi của cái tôi trữ
tình trong thơ thời kỳ này. Đó là cái tôi ấy luôn ý thức về mình trong tƣ cách kẻ
hành nghề sáng tạo; cái tôi luôn đƣợc ý thức nhƣ một thế giới tinh thần cá nhân hết
sức đa dạng, phong phú trong đó đặc biệt đề cao tiếng nói bản năng, vô thức, tâm
linh. Sự thay đổi đó kéo theo những thay đổi về hình thức biểu hiện, đó là việc phổ
biến kiểu kết cấu mở; sử dụng nhiều hơn các chất liệu đời thƣờng và các chất liệu
“siêu thực” [155].
Về nội dung, thể tài, nhiều ý kiến cho rằng, thơ đầu thế kỷ XXI thiên về
hƣớng nội, tiêu biểu nhƣ nhận định của Đoàn Ánh Dƣơng trong bài viết Văn học
trẻ: lịch trình và những định hướng: “Văn học trẻ từ đầu thế kỷ 21 ít cất lên tiếng
nói đại diện cho lý tƣởng tập thể, mà chủ yếu khẳng định cái tôi cá thể của mình, từ
nhu cầu xác lập căn cƣớc cho mình. Việc ít phải chứng nghiệm các hậu quả chiến
tranh và hòa nhập nhanh chóng vào quá trình toàn cầu hóa khiến cho những biểu
hiện văn học của giới trẻ Việt Nam ngày càng khác lạ với truyền thống văn học
đƣợc kiến tạo bởi ông cha họ. Màu sắc giáo huấn, phúng gián nhƣờng chỗ cho các
sắc màu khác, đƣợc dệt bởi những nhận thức và trải nghiệm mới, khi văn học hiện
diện nhƣ một sân chơi tinh thần mà luật chơi dân chủ của nó chấp nhận tất cả các ý

hƣớng dấn thân, ngẫu hứng, phá phách… của những cái tôi tự trị” [26].
Đồng quan điểm trên, Yến Nhi trong bài viết Thơ Việt trên đường hội nhập
cũng khẳng định đặc điểm của thơ hiện nay là thiên về hƣớng nội, tuy nhiên tác giả
nhấn mạnh thơ đƣơng đại Việt Nam thiên về hƣớng nội, không có nghĩa là nó chỉ

15


toàn hƣớng nội mà muốn giới thuyết ở phƣơng diện nó “mạnh” hơn, thành công
hơn phía kia - thơ hƣớng ngoại, thơ thông tấn, thơ tự sự… mà thôi. Bên cạnh đó,
tác giả cũng chỉ ra một đặc điểm mới về nội dung của thơ thời kỳ này đó là sự thay
đổi về cảm xúc: “Cảm xúc mới là động lực của cách tân. Lòng yêu nƣớc vẫn là một
nội dung quan trọng, nhƣng những chủ đề đạo lý, thế sự cũng nhƣ những vấn đề
riêng tƣ cá nhân ngày càng đƣợc lƣu ý. Thơ thời nay thể hiện đầy đủ, toàn vẹn tình
cảm con ngƣời, không có địa hạt bỏ qua hoặc né tránh, vẻ đẹp của Cái Tôi nhân bản
trong Thơ hiện đại cũng chính là vẻ đẹp của Cái Ta nhân loại” [123].
Hình thức nghệ thuật thơ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI cũng đƣợc nhiều
ngƣời quan tâm tìm hiểu. Trong bài viết Mỹ cảm nghệ thuật trong thơ trẻ, Yến Nhi
nhận định: “Về nghệ thuật, thơ đƣơng đại đang đổi mới trên hai phƣơng diện, một
về việc đổi mới thủ pháp xây dựng hình tượng, hai về sự đổi mới thể tài cùng kỹ
thuật tạo tác câu chữ”. Sáng tác một bài thơ, tác giả ít chú ý các biện pháp đơn lẻ
mà định hƣớng vào “hình tƣợng tổng thể” bao trùm toàn bài thơ. Hình tƣợng trong
thơ đƣơng đại ngoài việc vƣợt khỏi lối kết cấu tuyến tính duy cảm với những chi
tiết nặng tính cụ thể - lịch sử truyền thống, để biểu đạt trọn vẹn sâu sắc các chiêm
nghiệm, các suy tƣ, tình cảm về đời sống, thông qua các thông điệp mà tác giả gửi
tới bạn đọc, hình tƣợng thơ đƣơng đại thƣờng là một phức thể kết hợp nhiều yếu
tố, nhiều biện pháp cả thực lẫn ảo, từ ý thức đến vô thức, từ khả giải đến bất khả
giải…, những thủ pháp nghệ thuật mà trƣớc đây rất dè dặt. [122]
Trong luận án tiến sĩ Sự thâm nhập của chất văn xuôi vào thơ Việt Nam
đương đại, Nguyễn Thanh Tâm lại nghiên cứu thơ sau 1986 dƣới góc nhìn thi pháp

thể loại. Tác giả đã phân tích những biểu hiện của chất văn xuôi trên các phƣơng
diện: Hình thể câu văn xuôi trong thơ; Ngôn ngữ và giọng điệu văn xuôi trong thơ;
Kết cấu tự sự trong thơ; Nhân vật kiểu văn xuôi trong thơ và nghệ thuật lƣu giữ kí
ức thể loại và hiệu ứng thẩm mĩ của sự thâm nhập chất văn xuôi vào thơ đƣơng đại.
Từ những phân tích trên, tác giả rút ra kết luận sự gia tăng chất văn xuôi là một đặc
điểm của thơ Việt Nam đƣơng đại [133]. Đồng tình với quan niệm này, Nguyễn Chí
Hoan trong bài viết Thơ đương đại và sự trở lại của tính chất truyện kể nhận định:
“Cú pháp của thơ đƣơng đại đặc trƣng bằng tính chất truyện kể của các biểu tƣợng

16


và bằng tính phức tạp của các lớp ngữ nghĩa chồng chéo lên nhau – một tính phức
tạp rõ ràng phản ánh hay phản ứng tính phức tạp của từ vựng nền văn hóa hiện đại
chồng chất chủ nghĩa khoa học với chủ nghĩa thần bí-tâm linh, pha trộn tinh hoa và
đại chúng, bị ép chặt vào nhu cầu giải trí đồng thời buộc phải vƣơn vào tầng trí tuệ,
v.v.” [124].
Dƣới góc nhìn văn hóa học, Trần Ngọc Hiếu đã vận dụng lý thuyết trò chơi
để nghiên cứu một số hiện tƣợng thi ca đƣơng đại trong luận án Lý thuyết trò chơi
và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại. Tác giả đã chỉ ra trò chơi là một
khuynh hƣớng trong thơ Việt đƣơng đại đồng thời khảo sát một số mô hình trò chơi
trong thơ giai đoạn này nhƣ: Trần Dần và những biến hóa trên mô thức đồng dao;
Lê Đạt và sự kiến tạo thi pháp trên mô thức câu đố; Nói vè và chế nhại – trò chơi
carnival trong thơ đƣơng đại [56]. Trong một bài viết khác Cuộc nổi loạn của ngôn
từ trong thơ đương đại – ghi nhận qua một số hiện tượng, Trần Ngọc Hiếu chú ý
đến ngôn ngữ thơ nhận thấy có những sự thể nghiệm lớn trong việc sử dụng ngôn
ngữ trong thơ đầu thế kỷ XXI. Nguyên nhân của hiện tƣợng này là do “đến những
năm cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, ý hƣớng muốn vƣợt thoát cái khung đã trở
nên chật chội của Thơ mới đã trở thành một bức xúc, một “khát vọng khẩn thiết”
(chữ mƣợn của Hoài Thanh) ở nhiều cây bút trẻ. Nỗi bức xúc, khẩn thiết đó nhiều

khi đƣợc giải toả bằng những hành động sáng tạo có tính chất cực đoan”. Và hệ quả
là xuất hiện một cuộc nổi loạn về ngôn từ - chất liệu chính để tạo thơ. Đó là việc sử
dụng tràn lan những con số, kí hiệu thay cho từ ngữ cụ thể; hoặc ngôn từ phơi mặt
trên trang giấy, trơ tráo phô trƣơng sự vô nghĩa; ý nghĩa của từ, các quy tắc văn
phạm - những đơn vị nền móng để một cộng đồng ngôn ngữ thêu dệt nên những
huyền thoại của mình - bị giễu nhại không thƣơng tiếc; hay sử dụng ngôn từ thô
tục, bụi bặm, chợ búa,… [55]
Trần Quang Đạo trong Cấu trúc thơ trẻ sau 1975 tìm hiểu cấu trúc thơ trẻ
sau 1975 trên hai phƣơng diện câu thơ và bài thơ. Tác giả đã chỉ ra điểm khác biệt
về cấu trúc câu thơ của thơ trẻ sau 1975, đặc biệt là từ sau 1987 là câu dài ngắn
không theo trật tự của chữ, không viết hoa đầu dòng, không tuân thủ ngữ pháp

17


truyền thống (trật tự ngữ pháp bị đảo lộn); sử dụng nhiều động từ, giảm thiểu sử
dụng từ trung tính. Nhiều bài thơ có cấu trúc theo trật tự giấc mơ [28].
Trần Thiện Khanh thì tìm hiểu Cấu trúc nhịp thơ và quan hệ của nó với đổi
mới thơ. Ðối với thơ cổ điển tính thống nhất của cấu trúc nhịp điệu do thể loại qui
định, còn ở thơ hiện đại tính thống nhất của nó lại do cái nhìn, cảm xúc của nhà thơ
tạo thành. Thơ hiện đại tạo ra nhịp điệu của ngữ cảnh. Ngữ cảnh trữ tình đổi thay
thƣờng xuyên, nên nhịp thơ tất yếu biến đổi theo. Chỉ đến thơ hiện đại mới có nhịp
của chủ thể – biểu hiện cá tính của chủ thể. Thật khó xác định đƣợc mức độ tối
thiểu và tối đa của nhịp thơ hiện đại. Thơ hiện đại tự do trong cách tổ chức câu thơ,
tổ chức nhịp thơ. Nhịp thơ hiện đại với tƣ cách một hệ thống nguyên tắc tổ chức
dòng thơ luôn đƣợc biểu hiện thành các thao tác cấu trúc sinh động một tác phẩm
[75].
Nhận xét về nhịp điệu thơ đƣơng đại, Đoàn Ánh Dƣơng cho rằng thơ
đƣơng đại là sự hòa giải các kiểu thơ cổ và thơ lãng mạn “Thơ đƣơng đại do đƣợc
điều hoà bởi nhịp điệu nên mang trong nó cả mầm mống của thơ cổ và thơ lãng

mạn. Tuy vẫn có những đối lập gắt gao (nhƣ thơ cổ trọng vần còn thơ hiện đại thì
xoá nhoà vai trò của vần, thơ lãng mạn trọng sự phô bày thì thơ hiện đại thiên về
ngụ ý) nhƣng trong một cấu trúc thẩm mỹ khác, ít nhiều có thể coi thơ hiện đại là
một chỉnh hợp chập đôi của hai kiểu thơ đã có” [27].
Từ các nhận định về đặc điểm của thơ Việt Nam đầu thế kỷ XXI có thể thấy
phần nhiều các ý kiến còn tản mát, đề cập đến một hoặc một vài khía cạnh nội dung
hoặc nghệ thuật của thơ thời kì này. Tiểu luận của Nguyễn Vũ Tiềm đề cập tƣơng
đối toàn diện đặc điểm của thơ đầu thế kỷ XXI nhƣng sự khái quát không cao, phần
lớn các nhận định xuất phát từ chủ quan của tác giả chƣa có sự phân tích, lý giải
thấu đáo.
Những nhận định trong các công trình nghiên cứu trên có tác dụng gợi mở
hƣớng nghiên cứu về thơ đầu thế kỷ XXI. Nhƣng qua các công trình đó ngƣời ta
vẫn chƣa thấy đƣợc những nét riêng biệt về diện mạo, đặc điểm của thơ Việt Nam
đầu thế kỷ XXI; chƣa nhìn ra đƣợc những đặc sắc riêng chỉ có ở thơ giai đoạn này
so với giai đoạn cuối thế kỷ XX.

18


1.3. Những nhận định về tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Tuy chƣa có công trình khảo cứu chuyên sâu về Thơ Việt Nam đầu thế kỷ
XXI nhƣng công trình, bài viết nghiên cứu về tác giả, tác phẩm tiêu biểu của giai
đoạn này rất phong phú, tỉ lệ thuận với số lƣợng tác giả cũng nhƣ khối lƣợng tác
phẩm đồ sộ của giai đoạn này. Thống kê hết tất cả các bài viết, công trình nghiên
cứu về tác giả, tác phẩm thơ đầu thế kỷ XXI là điều không thể, do vậy chúng tôi sẽ
điểm qua những nhận định về các tác giả, tác phẩm gây đƣợc sự chú ý nhiều nhất
của dƣ luận cũng nhƣ giới phê bình.
Nguyễn Quang Thiều có lẽ là hiện tƣợng thơ tạo đƣợc nhiều dấu ấn nhất
từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại và
Nguyễn Quang Thiều (do Viện Văn học tổ chức ngày 28/6/2012) có nhiểu ý kiến

đánh giá cao vị trí của Nguyễn Quang Thiều đối với nền thơ đƣơng đại.
Nguyễn Đăng Điệp trong Đổi mới thơ Việt Nam đương đại nhìn từ trường
hợp Nguyễn Quang Thiều ca ngợi tinh thần sáng tạo tuyệt đối ở Nguyễn Quang
Thiều. “Có lẽ yếu tố đầu tiên tạo nên sự khác biệt trong thơ Nguyễn Quang Thiều là
ý thức khai tử những thói quen và thái độ đoạn tuyệt những diễn ngôn đã ngả màu
mòn sáo. Sự lựa chọn ấy nguy hiểm và cô đơn. Nhƣng bằng linh cảm nghệ thuật và
tinh thần dấn thân, Nguyễn Quang Thiều hiểu rõ, chấp nhận điều đó. Chỉ có thế, tất
cả mới THỨC DẬY ĐỂ CHÀO ĐÓN MỘT GIỌNG NÓI (tác giả viết hoa)”;
“Không cần cƣờng điệu, có thể khẳng định dứt khoát: tính đến thời điểm này,
những cách tân nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều vào những năm đầu 90 của thế
kỷ XX là những cách tân tạo đƣợc hiệu ứng nghệ thuật sâu đậm nhất trong thơ Việt
sau 1975”. Cội nguồn của sự cách tân đó là do xuất phát từ những cơn mơ hoang
tƣởng của Nguyễn Quang Thiều. Ngƣời đọc khó tiếp cận thơ Nguyễn Quang Thiều
là bởi nhà thơ ly khai sự độc sáng và chối bỏ những điểm nhấn. Cơ chế tạo thi ảnh
Nguyễn Quang Thiều là xây dựng liên tiếp các chuỗi ẩn dụ và trình hiện nó trong
hình hài của những câu thơ đậm chất văn xuôi mang tính hoán dụ. Về biểu tƣợng,
nổi bật nhất trong hệ thống biểu tƣợng trong thơ Nguyễn Quang Thiều là lửa, cánh
đồng, dòng sông và phụ nữ. [34]

19


Thi pháp Nguyễn Quang Thiều: Nhìn từ dòng thơ cần giải thích giá trị là
một tiểu luận công phu của Đỗ Quyên. Trƣớc hết tác giả khẳng định thơ Nguyễn
Quang Thiều là sáng tác “có vấn đề”, gây ám ảnh và âm ỉ, sự hiểu và cảm cần con
mắt thứ ba. Sở dĩ có nhiều ý kiến trái chiều về thơ Nguyễn Quang Thiều là bởi
nguyên nhân bên trong: Thơ Nguyễn Quang Thiều nhƣ một dạng nghệ thuật bấp
bênh, bấp bênh giữa quan niệm thẩm mỹ cổ điển và hiện đại; bấp bênh về thể loại
thơ và văn xuôi; bấp bênh về văn bản tác phẩm và dịch phẩm; bấp bênh về văn bản
tác phẩm và nhân thân văn học của tác giả. Về nội dung và thi pháp thơ Nguyễn

Quang Thiều, Đỗ Quyên cho rằng “nếu chỉ xét chung chung thì hệ thống chủ đề, nội
dung hiện thực và ý nghĩa tƣ tƣởng ở thơ Nguyễn Quang Thiều không đặc sắc” chỉ
dựa vào một số đề tài kinh điển: Thân phận con ngƣời; sự sống chết và tồn tại; hạnh
phúc và bất hạnh; hiện hữu và tƣơng lai… Cái đặc sắc của Nguyễn Quang Thiều
nằm ở phƣơng diện thi pháp. Nguyễn Quang Thiều không cách tân thể loại, mà biến
dạng thể loại đã có. Không có ranh giới hình thức thể loại là một đặc điểm nhận
thấy rõ ở các trang thơ, bài thơ, trƣờng ca; thậm chí trong mỗi đoạn, câu thơ. Thơ
Nguyễn Quang Thiều ít tứ nhƣng ngôn ngữ hình ảnh, với phƣơng tiện văn xuôi hóa
mang chở số lƣợng hình ảnh lớn và lạ. Về nhịp điệu, Nguyễn Quang Thiều và các
nhà thơ của bút pháp nhịp điệu đã văn xuôi hóa nhịp thơ tự do mà Nguyễn Đình Thi
và Thanh Tâm Tuyền khai phá, mở đƣờng. Về giọng điệu, giọng thơ trữ tình không
còn mang tính chủ quan nữa. Nó trần thuật hơn là kết luận. Nó giãi bày, thuyết phục
hơn là lôi kéo, động viên... [162].
Mai Văn Phấn trong tiểu luận Hiện tượng Nguyễn Quang Thiều và lộ trình
cách tân khẳng định Nguyễn Quang Thiều là một trong những thi sĩ tiên phong của
dòng chảy thơ cách tân đương đại trong nước. Nhận định ấy đƣợc minh chứng qua
nhiều luận chứng. “Bóng dáng thời đại và thi pháp là hai vấn đề lớn, mang tính
quyết định để định danh định tính thơ Nguyễn Quang Thiều trong lộ trình cách tân
thi pháp. Thơ ông (Nguyễn Quang Thiều) tỏa sáng và khuynh loát trong nhiều đề tài
với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc vƣợt khỏi phạm
vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực”. Không gian thơ Nguyễn Quang Thiều luôn
động chuyển, biến hóa bất ngờ. Mỗi câu thơ, hoặc đoạn thơ chỉ là một phần

20


nhỏ không hoàn thiện của thi ảnh Nguyễn Quang Thiều. Thơ Nguyễn Quang Thiều
ít chú trọng vào những điểm “nhói sáng” của cảm thức mà dần trải ra trong chiều
dài và độ sâu của thi ảnh. Những đứt gãy, rời rạc, nhƣ không có liên kết liên tiếp,
tạo ra độ giãn cách giữa những nhóm hình ảnh đƣợc làm sáng lên trong không gian

thẫm tối, tạo độ tƣơng phản rõ rệt, gây ấn tƣợng mạnh cho ngƣời đọc, trƣớc hết
dẫn dắt chính tác giả rồi tới vào trạng thái tê dại, nhƣ lạc mê cung. Hiện thực đời
sống trong thơ Nguyễn Quang Thiều hiện lên phức tạp và đa diện, từ mặt ngƣời,
mặt ma quỷ, mặt súc vật, mặt gỗ… [141]
Chu Văn Sơn lại khám phá ra cảm quan tôn giáo đậm nét dƣới lớp vỏ nghệ
thuật đậm tính sử thi trong thơ Nguyễn Quang Thiều trong tiểu luận Nguyễn Quang
Thiều và khuynh hướng sử thi tôn giáo. Thể chất sử thi, cảm quan tôn giáo “cả hai
dƣờng nhƣ song sinh, thậm chí, đồng thể trong cảm quan thơ Nguyễn Quang
Thiều… Trong cơ chế sáng tạo của Thiều, nếu phía này chi phối linh hồn, nhan sắc
của thi ảnh, hình tƣợng, thi tứ, thi liệu, thì phía kia chi phối tầm vóc, chiều kích,
biên độ của chúng để tạo nên từng sinh thể nghệ thuật nói riêng, toàn bộ thế giới
nghệ thuật Thiều nói chung.” [166]
Nguyễn Thị Hiền trong bài viết Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang
Thiều phát hiện ra cái tôi trữ tình trong thơ của Nguyễn Quang Thiều là cái tôi của
những đối cực nằm chông chênh trên đƣờng biên của tuyệt vọng cuối cùng và hy
vọng đầu tiên; là sự giằng xé giữa tinh thần và thể xác; đồng thời cũng là cái tôi
khát vọng kiếm tìm cái đẹp trong cả sự dung tục cũng nhƣ sự linh thiêng, tìm kiếm
đời sống trong cái chết, sự tái sinh từ trong lụi tàn [51].
Hồ Thế Hà lại đi tìm mẫu gốc trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đó là Làng
Chùa; là đất, đất đai hay châu thổ niềm sầu xứ (nostalgie) khôn nguôi, cứ kéo dài
mãi trên hành trình yêu thương và hoài vọng - cổ mẫu gợi nhiều ám ảnh; là nấm mộ
- biểu tượng về mặc cảm chết (complexe de mort) liên quan đến thế giới hiện sinh,
những ám ảnh về sự ra đi, sự tan rã vào đất đai, cây cỏ và hư vô [43].
Về tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều, Trƣờng ca Châu thổ (Nxb Hội nhà
văn năm 2010) là tập trƣờng ca gây nhiều chú ý, không chỉ ở kích thƣớc đồ sộ của
nó mà đây còn là tuyển thơ của hành trình sáng tác Nguyễn Quang Thiều – gƣơng

21



×