Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Truyền thuyết về tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ MAI

TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP VÀ LỄ HỘI CẦU
MƯA
Ở HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM


Thái Nguyên – 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ MAI

TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP VÀ LỄ HỘI CẦU
MƯA
Ở HƯNG YÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương




Thái Nguyên – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của do tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Hằng Phương – Nguyên Cán bộ
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích
dẫn tài liệu của luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả

Đỗ Thị Mai


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, em xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí- Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn
Hằng Phương – người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ,
động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả

Đỗ Thị Mai



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................
1.

Lý do chọn đề tài ...............................................................................................................

2.

Lịch sử vấn đề ....................................................................................................................

2.1.

Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên ........................

2.2. Lịch sử nghiên cứu lễ hội cầu mưa .................................................................................
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................................

3.1.

Đối tượng nghiên cứu .................................................................................

3.2.

Phạm vi nghiên cứu .....................................................................................

4.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................

4.1.

Mục đích nghiên cứu ....................................................................................

4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................

5.

Phương pháp nghiên cứu: ..................................................................................................

6.

Đóng góp của luận văn ......................................................................................................

7.

Cấu trúc của luận văn .........................................................................................................

NỘI DUNG ............................................................................................................................
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT HƯNG YÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VỀ TRUYỀN THUYẾT, LỄ HỘI ..........................................................................
1.1.

Một số vấn đề lý luận về truyền thuyết và lễ hội .........................................

1.1.1. Truyền thuyết ...............................................................................................................

1.1.2. Lễ hội .........................................................................................................................
1.2.

Tục thờ Tứ pháp của người Việt .................................................................

1.3.

Điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của tỉnh Hưng Yên .............................

1.4.

Truyền thuyết và lễ hội ở Hưng Yên ...........................................................

1.4.1.Truyền thuyết ở Hưng Yên ..........................................................................................
1.4.2. Lễ hội ở Hưng Yên .....................................................................................................
CHƯƠNG 2: TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP Ở HƯNG YÊN ...............................
2.1.

Tổng quan truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên .....................................


2.1.1. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Hưng Yên................................................................................... 29
2.1.2. Hệ thống truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên............................................................... 30
2.2. Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên nhìn từ phương diện nội dung........................... 33
2.2.1. Phản ánh sự hòa hợp của Phật giáo và những tín ngưỡng bản địa................................. 33
2.2.2. Phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân.................................................................... 40
2.2.3. Thể hiện sự tôn vinh với những người có công sáng tạo văn hóa.................................. 43
2.3. Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên nhìn từ phương diện nghệ thuật........................ 47
2.3.1. Cốt truyện truyền thuyết........................................................................................................... 47
2.3.2. Mô típ điển hình......................................................................................................................... 48

2.3.2.2.Mô típ người hóa đá
...................................................................................................................................................................

50
2.3.2.3.Mô típ chiến công phi thường
...................................................................................................................................................................

51
2.3.2.4.Mô típ hiển linh âm phù
...................................................................................................................................................................

53
2.3.3. Thế giới nhân vật....................................................................................................................... 55
CHƯƠNG 3: LỄ HỘI CẦU MƯA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TRUYỀN
THUYẾT VỀ TỨ PHÁP Ở HƯNG YÊN.................................................................................... 63
3.1. Lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên....................................................................................................... 63
3.1.1. Hội tổng Ôn Xá - Văn Lâm..................................................................................................... 63
3.1.2. Hội Tứ pháp huyện Yên Mỹ.................................................................................................... 65
3.1.3. Hội chùa Thứa và Thanh Xá................................................................................................... 66
3.1.4. Lễ hội cầu mưa ở Lạc Hồng.................................................................................................... 70
3.2.Mối quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên..................75
3.2.1.Sự hiện thực hóa của truyền thuyết về Tứ pháp qua lễ hội cầu mưa.
…………………………………………………………………75
3.2.2................Lễ hội cầu mưa - nơi lưu giữ và phát huy giá trị của truyền thuyết về Tứ pháp
79
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................ 84


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Kho tàng văn học dân gian là nơi lưu giữ và bảo tồn những giá trị bản sắc
văn hóa của dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu văn học dân gian ở bất cứ dân tộc
nào cũng luôn chiếm một vị trí quan trọng. Trong kho tàng văn học dân gian
thì truyền thuyết lại là một thể loại đặc biệt. Bởi những truyền thuyết dân gian
thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân truyền qua nhiều thế hệ
đã lý tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và
mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên
những tác phẩm văn học mà đời đời con người ưa thích. Nhưng không chỉ
dừng lại ở lịch sử, nghiên cứu truyền thuyết chúng ta còn thấy mối quan hệ
chặt chẽ giữa truyền thuyết và văn hóa đặc biệt là lễ hội.
1.2. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp là tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm
màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo du nhập từ Ấn Độ,
tồn tại phổ biến, rộng rãi ở Đồng bằng Bắc bộ. Đây là một trong những hình
thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ
thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Họ cầu mưa thuận gió hòa, cho cây cối tốt
tươi mùa màng bội thu. Chính vì vậy, Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện lần lượt được ra đời để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người lúc bấy
giờ. Tìm hiểu truyền thuyết về Tứ pháp là con đường tìm về với những tín
ngưỡng bản địa trong xu thế hội nhập với Đạo Phật. Hơn thế truyền thuyết
cũng là cây cầu để khám phá và lý giải những giá trị sâu sắc của lễ hội dân
gian nói chung và lễ hội cầu mưa nói riêng.
1.3. Mảnh đất Hưng Yên nơi không chỉ tự hào với Thứ nhất kinh kì thứ nhi Phố
Hiến mà còn là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng những giá trị văn hóa đặc trưng
của vùng Đồng bằng Bắc bộ. Một phần lãnh thổ của Hưng Yên xưa kia thuộc
trấn Kinh Bắc- trung tâm Phật giáo hàng đầu của cả nước, chính vì vậy



2

mảnh đất Hưng Yên có điều kiện tiếp biến đặc biệt với những đặc trưng văn
hóa Bắc Ninh. Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội ở Hưng Yên là một trường
hợp điển hình cho mối quan hệ đó. Nhưng trong quá trình tiếp nhận ảnh
hưởng, truyền thuyết và lễ hội đều có những thay đổi để phù hợp với đời sống
tinh thần và vật chất của nhân dân Hưng Yên. Chính vì vậy nghiên cứu truyền
thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên là một việc làm hết sức có ý
nghĩa để khám phá, tìm hiểu và khẳng định bản sắc văn hóa của địa phương
đồng thời làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của thể lại truyền thuyết đặt
trong mối quan hệ với lễ hội truyền thống. Mặc dù vấn đề đã được một số nhà
nghiên cứu đề cập nhưng chưa có công tŕnh nào nghiên cứu một cách hệ
thống để nêu bật đặc điểm và mối quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ
hội cầu mưa ở Hưng Yên.
1.4. Là một người con của mảnh đất Hưng Yên, chúng tôi luôn ý thức được
tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống trong cuộc sống hôm nay. Nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp và lễ
hội cầu mưa chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé để lý giải, để nhận
thức về một hiện tượng văn hóa độc đáo của địa phương và của dân tộc. Từ đó
góp phần hình thành những định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của tín
ngưỡng này trong bối cảnh hiện nay.
2.

Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên
Trong tâm thức người Việt, đặc biệt ở Bắc Ninh và Hưng Yên, tín
ngưỡng thờ Tứ pháp đã ăn sâu bám rễ. Đây là nơi phát tích cũng là nguồn gốc
sơ khai, nền tảng của hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp ngày nay. Sau đó tín
ngưỡng thờ Tứ pháp đã nhanh chóng lan tỏa vùng ảnh hưởng đến các tỉnh

thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Bởi vậy nên có rất nhiều nhà khoa học quan tâm,
nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Tứ pháp. Có thể kể tên một số công trình tiêu


3

biểu như: Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam;
Võ Thị Hoàng Lan, Về tục thờ Tứ pháp của người Việt (2012) - Tạp chí Di sản
văn hóa, số 2(39); Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Nguyễn Mạnh Cường (2000), Chùa Dâu
– Tứ Pháp và hệ thống các chùa Tứ pháp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm Linh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội;
Ngô Đức Thịnh, Trương Chí Long (2013), Văn hóa thờ nữ thần – Mẫu ở Việt

Nam và Châu Á bản sắc và giá trị, Nxb Thế giới; …
Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Tứ pháp còn thấy được đề cập nhiều trên các tạp
chí, báo mạng điện tử, nghiên cứu như: Tục thờ Tứ pháp – một hình thức tín
ngưỡng nông nghiệp cầu mưa, cầu tạnh của Lê Thị Kim Loan đăng trên Thông
báo Khoa học Đại học Văn Hóa, tập 3 – 1999; Tín ngưỡng thờ Tứ pháp tại đồng
bằng Bắc bộ của Trần Lan Chi đăng trên phapluanonline (tập san pháp luận số
09 ngày 05tháng 11 năm 2009); Luy Lâu và Tứ pháp – Mây Mưa Sấm Chớp” của
Phan Cẩm Thượng đăng trên tạp chí Tia Sáng (số 10/ 2013)…

Các công trình nghiên cứu trên đều chủ yếu đi sâu phân tích nguồn gốc,
các nghi lễ phụng thờ Tứ pháp. Các công trình nghiên cứu tập trung vào việc
sưu tầm, nghiên cứu về hệ thống các truyền thuyết về Tứ pháp ở khu vực Bắc
Ninh. Còn việc nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên như một đối
tượng nghiên cứu độc lập vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu khai thác.
Đáng kể nhất cho đến nay là khóa luận “Việc phụng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm
Hưng Yên trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(2014) của sinh viên

Lê Thị Thủy, trường Đại học Văn hóa - Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã lý
giải nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm- Hưng Yên; nghiên
cứu thực trạng của tín ngưỡng phụng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm trong bối cảnh
hiện nay đồng thời cũng nghiên cứu sự vận động và ý nghĩa của tín ngưỡng
này trong đời sống của nhân dân. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của công
trình mới chỉ dừng lại ở một khu vực nhất định đó là Văn Lâm – Hưng Yên.


4

Có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp đã
có những đóng góp quan trọng giúp chúng ta lý giải và trân trọng, lưu giữ một
di sản văn hóa của vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói chung và của mảnh đất Hưng
Yên nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu chưa khai truyền
thuyết về Tứ pháp dưới những góc độ của đặc trưng thể loại. Đây vẫn là một
tầng đất mới mẻ mà chúng ta có thể tiếp tục cày xới để mang đến những đóng
góp giá trị khi nghiên cứu đề tài này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu lễ hội cầu mưa
Trong tâm thức của người Việt, lễ hội truyền thống từ lâu đã trở thành một
sinh hoạt văn hóa không thể thiếu vì lễ hội chính là sự phản ánh phong tục tập
quán, tín ngưỡng và bản sắc của dân tộc. Với đặc thù là một đất nước sản xuất
nông nghiệp nên những yếu tố thời tiết nắng, mưa có ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống của nhân dân. Cũng chính bởi vậy nên nghi lễ cầu mưa trở thành nghi lễ
của rất nhiều dân tộc trên dải đất hình chữ S. Có thể kể đến một số lễ hội chủ yếu
sau: Lễ hội cầu mưa người Lô Lô ( theo báo điện tử vietbao.vn đăng ngày 05
tháng 9 năm 2008); lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) của
người Thái vùng Tây Bắc (theo vietbao.vn đăng ngày 03 tháng 10 năm 2008);
Phú Yên: Phục dựng lễ hội “Cầu mưa” của người dân tộc Êđê (theo báo điện tử
baovanhoa.vn đăng năm 2010 viết bởi Nguyễn Trần Vĩ ); lễ hội cầu mưa của
người Chăm Vân Canh, Bình Định (theo báo điện tử đăng

ngày 22 tháng 5 năm 2010); Lễ hội cầu mưa người Chăm ở Bình Thuận (theo
báo điện tử : đăng ngày 22 tháng 5 năm 2010). Độc đáo tục
rước Tứ Pháp cầu mưa của cư dân Đồng bằng sông Hồng (Báo mới. com đăng
ngày 15 tháng 12 năm 2015); Lễ hội cầu mưa – nét độc đáo trong tín ngưỡng tôn
sùng tự nhiên của cộng đồng dân của cộng đồng dân tộc Việt (Sùng A CảiLieenketviet.net ngày 15 tháng 5 năm 2016)…



Hưng Yên với ảnh hưởng của các truyền thuyết về Tứ pháp kết hợp

với tâm thức của những cư dân nông nghiệp trở thành mảnh đất mầu mỡ để


5

hình thành và phát triển lễ hội cầu mưa. Trong những năm gần đây nghi lễ cầu
mưa đã và đang được phục dựng lại một cách quy mô tại nhiều địa phương,
đặc biệt là khu vực phía Bắc của tỉnh. Cũng từ đó nghiên cứu lễ hội cầu mưa
ở Hưng Yên trở thành đề tài của các bài báo, luận văn, báo cáo.
Tiêu biểu là luận án tiến sĩ Lễ hội cổ truyền ở Hưng Yên sự biến đổi
hiện nay, của tác giả Hoàng Mạnh Thắng ( 2012). Đóng góp của công trình là
đã hệ thống, phân loại được hầu hết các lễ hội cổ truyền của Hưng Yên. Riêng
về lễ hội liên quan đến Tứ pháp, công trình đã nêu được nguồn gốc và mô tả
đặc điểm, ý nghĩa của lễ hội trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, mối quan hệ
giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa lại chưa được tác giả đề cập
đến một cách cụ thể.
Bên cạnh đó là bài báo: Độc đáo lễ hội cầu mưa ở Văn Lâm (Hương
Giang Báo Hưng Yên điện tử ngày 12/04/2013); Tục thờ Tứ pháp và lễ hội
cầu mưa (Minh Hiếu, Đời sống văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo- Báo điện tử)
…Các bài báo và công trình nghiên cứu trên đều đi sâu vào tìm hiểu về tín

ngưỡng thờ Tứ pháp và mô tả lễ hội cầu mưa dưới góc nhìn văn hóa, chưa có
công trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa lễ hội cầu mưa đặt trong mối
quan hệ với truyền thuyết về Tứ pháp. Vậy nghiên cứu lễ hội cầu mưa ở Hưng
Yên đặt trong mối quan hệ với hệ thống truyền thuyết của địa phương sẽ là
một hướng nghiên cứu mới mẻ để góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị của
những nét văn hóa đặc sắc của tỉnh Hưng Yên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài của luận văn là hệ thống truyền thuyết về
Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên.


6

3.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Hệ thống các truyền thuyết về Tứ pháp đã được lưu truyền ở Hưng Yên

từ bao đời nay, một bộ phận được ghi chép cố định trong các bản thần tích, hoặc
thư tịch; một bộ phận được lưu truyền nơi cửa miệng dân gian. Chính vì vậy khi
tiến hành nghiên cứu đề tài chúng tôi một mặt căn cứ vào các văn bản có sẵn,
một mặt căn cứ vào các văn bản tác phẩm đang lưu truyền trong đời sống dân
gian ở Hưng Yên. Cụ thể, qua khảo sát ở 25 điểm thờ Tứ pháp ở Hưng Yên,
chúng tôi sưu tầm được 5 bản truyền thuyết được ghi lại trong Lý lịch của các di
tích thờ Tứ pháp, 1 bản thần tích của làng Đặng Xá, huyện Ân Thi,
4
bản ghi chép từ lời kể của nhân dân xã Lạc Hồng- Huyện Văn Lâm (Phụ
lục).


-

Về lễ hội, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, khảo sát tất cả các lễ hội

cầu mưa ở Hưng Yên bắt nguồn từ truyền thuyết về Tứ pháp được ghi chép và
quan sát thực tế.
4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
-

Sưu tầm hệ thống truyền thuyết dân gian về Tứ pháp ở địa bàn tỉnh

Hưng Yên; khai thác những giá trị của những truyền thuyết đó trên nền tảng
đặc trưng thể loại;
-

Tìm hiểu về của lễ hội cầu mưa đặt trong mối quan hệ với truyền

thuyết về Tứ pháp.
-

Qua việc làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, luận văn góp phần bồi

dưỡng ý thức trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền, bồi dưỡng lòng tự hào
về mảnh đất, con người Hưng Yên từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy những

giá trị văn hóa tốt đẹp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



7

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên tập
trung làm giải quyết một số vấn đề sau:
-

Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đề tài

như: Các khái niệm truyền thuyết, lễ hội; các vấn đề thực tiễn về mảnh đất Hưng
Yên làm cơ sở cho đề tài như lịch sử, địa lý, văn hóa. Lý giải được nguồn gốc, ý
nghĩa của truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên.

-

Tập hợp, sưu tầm, khảo sát các truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên

trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
-

Khảo sát, mô tả các lễ hội ở Hưng Yên có liên quan đến truyền thuyết

về Tứ pháp.
Tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Tứ pháp ở
Hưng Yên.

5.


Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài Truyền thuyết về Tứ pháp và

lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên, chúng tôi phối hợp vận dụng các phương pháp
nghiên cứu như:
Phương pháp điền dã: phương pháp này được chúng tôi sử
dụng trong
quá trình sưu tầm hệ thống truyền thuyết trong dân gian và khảo sát các lễ hội
cầu mưa ở các địa phương trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
-

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích

các tài liệu lý luận về truyền thuyết, về lễ hội, phân tích mối quan hệ giữa
truyền thuyết và lễ hội. Từ đó tổng hợp các vấn đề nghiên cứu để đưa ra
đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu.
-

Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng

để so sánh đặc điểm về truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa với truyền


8

thuyết về Tứ pháp và lễ hội liên quan ở những địa phương nằm trong vùng
Đồng bằng Bắc bộ.
-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để có thể có thể đạt được mục


đích nghiên cứu của đề tài chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học như: Phương pháp nghiên cứu văn học, phương
pháp nghiên cứu văn hóa, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp
nghiên cứu địa lí ...
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu một cách hệ thống về truyền thuyết và lễ hội về Tứ
pháp ở

Hưng Yên, góp phần bổ sung, hoàn thiện tri thức về truyền thuyết và lễ hội ở
Hưng Yên và ở khu vực.
-

Góp tiếng nói để bảo tồn và phát huy những giá trị của truyền thuyết

về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên.
-

Kết quả của luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn hóa, cũng như nét tín ngưỡng thờ Tứ
pháp trong lễ hội cầu mưa ở tỉnh Hưng Yên. Góp phần cung cấp những cơ sở
khoa học cho việc hoạch định chính sách, chủ trương của chính quyền địa
phương về công tác văn hóa tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
7.

Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung

chính của luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về vùng đất Hưng Yên và một số vấn đề lý luận về
truyền thuyết và lễ hội.
Chương 2: Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên
Chương 3: Lễ hội cầu mưa trong mối quan hệ với truyền thuyết về Tứ pháp ở
Hưng Yên


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT HƯNG YÊN VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THUYẾT, LỄ HỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về truyền thuyết và lễ hội
1.1.1. Truyền thuyết
Các nhà folklore quan niệm truyền thuyết là một thể loại riêng biệt là
những truyện ngắn kể về những sự kiện trong quá khứ như: những sự kiện lịch
sử; những nhân vật lịch sử; những địa danh, những công trình văn hóa, danh
thắng; những hiện tượng thiên nhiên như: Sấm chớp, bão lụt….những câu

chuyện nêu trên không cần đảm tính chính xác về mặt lịch sử nhưng có cốt lõi
lịch sử trong đó. Với đặc điểm đó, truyền thuyết dân gian luôn tạo cho mình
một sức hấp dẫn đặc biệt so với các thể loại văn học dân gian khác.


Việt Nam truyền thuyết đã xuất hiện, tồn tại và phát triển như là sự

thay thế, sự hóa thân của thể loại sử thi dân tộc. Việc nghiên cứu về truyền
thuyết đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chỉ riêng khái niệm về
truyền thuyết cũng có rất nhiều kiến được đưa ra như:
Các tác giả nhóm Lê Qúy Đôn từ những năm 50 của thế kỷ XX, trong

Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, đã định nghĩa truyền thuyết như sau:
“Truyền thuyết là tất cả những truyện lưu hành trong dân gian có thật xảy ra
hay không thì không có gì đảm bảo. Như vậy có những truyền thuyết lịch sử,
mà có những truyền thuyết khác, hoặc dính dáng về một đặc điểm địa lí, hoặc
kể lại một gốc tích sự vật gì, hoặc giải thích những phong tục tập quán, hoặc
nói về sự tích các nghề nghiệp và tất cả những chuyện kỳ lạ khác”[10; 60]
Còn trong công trình Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đổng
Chi lại định nghĩa: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử và truyện lịch sử
chỉ có thể có khi con người đã có ý thức về lịch sử của mình”[4].


10

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi nhận định: “Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian mà chức
năng chủ yếu là phản ánh và lý giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh
hưởng quan trọng đối với một thời kỳ, một bộ tộc, một dân tộc, một quốc gia
hay một địa phương”[14].
Trong bài Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử, ông Phan
Trần cũng đã nêu lên định nghĩa về truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là
những truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân vật có liên
quan đến lịch sử. Những nhân vật và sự việc đó thường được phản ánh qua
trí tưởng tượng của con người, qua sự hư cấu của nhân dân”[41].
Trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian,
tác giả Kiều Thu Hoạch đưa ra một định nghĩa về truyền thuyết khá toàn diện;
“Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự
dân gian. Nội dung cốt truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải
thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Biện
pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng
những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích, thần thoại”[17].


Các khái niệm trên đều đã nêu được nội dung phản ánh và đặc trưng
trong nghệ thuật phản ánh của truyền thuyết xong chưa có tính khái quát.
Trong cuốn Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, nhóm tác giả Lê Chí Quế,
Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ đã đưa ra một khái niệm tương đối thuyết
phục và được phổ biến đó là: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự
sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa
hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ”[35]. Về cơ
bản, đây là một khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về thể loại truyền
thuyết. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn khái niệm này là cơ sở lý luận trong quá
trình nghiên cứu.


11

Như vậy qua các khái niệm truyền thuyết của các tác giả khác nhau đều
nhắc tới những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết đó là: có gắn bó
chặt chẽ với cốt lõi lịch sử, nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử nhất định, được
nhìn nhận qua lăng kính của nhân dân với sự hư cấu, kỳ ảo. Nó chính là một
thể loại kết hợp hài hòa giữa văn và sử. Đặc trưng này chính là một dấu hiệu
quan trọng để giúp ta phân biệt giữa truyền thuyết với các thể loại truyện dân
gian khác, đồng thời cũng làm nên nét độc đáo của thể loại truyền thuyết.
Thông qua hệ thống truyền thuyết dân gian của Việt Nam, các tác giả
dân gian đã tái hiện chân dung đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là sự lý giải
đầy tự hào về sự hình thành về nòi giống của dân tộc; tái hiện quá trình chinh
phục thiên nhiên, xây dựng nền văn hiến; thể hiện lòng tự hào, ngưỡng mộ với
các danh nhân văn hóa; ngợi ca nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quân
xâm lược…
Về việc phân loại truyền thuyết các nhà folklore thế giới có nhiều cách
phân loại, người chia làm 4 loại như cách chia của hội nghiên cứu văn học tự

sự dân gian quốc tế: truyền thuyết khởi nguyên; truyền thuyết lịch sử; truyền
thuyết thần thoại; truyền thuyết tôn giáo.


Việt Nam năm 1990, Lê Chí Quế trong Giáo trình văn học dân gian

Việt Nam đã chia truyền thuyết làm 3 loại: truyền thuyết lịch sử; truyền thuyết
anh hùng; truyền thuyết về các danh nhân văn hóa.
1.1.2. Lễ hội
Bên cạnh vai trò phán ánh lịch sử một cách độc đáo, truyền thuyết còn có
mỗi quan hệ đặc biệt với nghi lễ, hội lễ. Các nhân vật trong truyền thuyết là
những anh hùng dân tộc hay những danh nhân văn hóa được tái hiện bằng tình
cảm yêu mến và cảm phục của nhân dân. Họ đã bước ra khỏi những câu chuyện
để trở thành những nhân vật thiêng như Thành hoàng, ông tổ nghề, thần thiêng
bảo hộ cho các vùng đất. Hằng năm, để tưởng nhớ công lao và giáo dục truyền


12

thống cho thế hệ sau nhân dân tổ chức các nghi thức tế lễ. Do vậy, truyền
thuyết là cơ sở để giải thích và khiến cho lễ hội có nội dung thiêng, còn lễ hội
lại là mảnh đất để di dưỡng truyền thuyết trong đời sống dân gian. Đó là cở sở
hình thành mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội.
Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga M.Bachie
cho rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu
diễn, đó là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân
cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa,
liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng,
vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế
giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực

lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”.
(Dẫn theo />Ở

Việt Nam lễ hội – là một nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng của

cư dân nước Việt. Từ ngàn đời xưa lễ hội không chỉ là nơi lưu giữ những giá
trị tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa dân gian mà nó còn phản ánh tư duy, thái độ,
tình cảm của cư dân nông nghiệp một cách rõ nét. Tuy nhiên, định nghĩa về lễ
hội cũng có nhiều những quan niệm khác nhau như:
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê đã định nghĩa: “Lễ hội là
cuộc vui tổ chức chung có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền
thống của dân tộc”[38].
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, tác giả Huỳnh Bá Công đã nhận
định: “Lễ hội ở đây được nhìn tổng quát chỉ cả lễ tết và hội hè, trong đó lễ là
để dâng hương thần thánh, còn hội là để mua vui cho mọi người trong cộng
đồng, tất cả đều nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần, tâm linh của
con người”[4].


13

Trong cuốn Từ điển hội lễ Việt Nam, tác giả Bùi Thiết cho rằng: “Hội lễ
là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần, phản ánh
những tập tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một
cộng đồng làng xã nhất định”[47;2].
Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội là
một kho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn
hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc...lễ
hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ
lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”[33;53].

Từ những khái niệm như trên có thể thấy lễ hội bao gồm 2 phần chính:
phần lễ và phần hội, luôn đan xen, gắn liền, không tách rời, trong đó:
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con
người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước
cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Lễ xuất phát từ quan
niệm vạn vật hữu linh. Con người thực hiện phần lễ để thể hiện niềm tin vào
những lực lượng siêu nhiên, thể hiện niềm mong ước có một cuộc sống tốt đẹp,
mùa màng bội thu, nhân khang, vật thịnh, quốc thái, dân an.

“Hội là sự tập hợp đông người để thực hành diễn xướng, trình diễn các
phong tục, tín ngưỡng, các hình thức văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật, các sinh
hoạt tinh thần xã hội”(Dẫn theo Sau những nghi lễ
trang nghiêm, việc tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng này lại là lúc con
người được nghỉ ngơi, thư giãn nhằm thỏa mãn những nhu cầu về mặt tinh
thần của quần chúng.
Nguồn gốc hình thành lễ hội truyền thống của nước ta thường được lý
giải trên ba cơ sở chính: Thứ nhất là môi trường tự nhiên và hoạt động sản
xuất. Đất nước Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động, biến đổi tự


14

nhiên, địa lí, địa chất diễn ra cách đây hàng triệu năm. Cùng với địa hình thấp,
nhiều đồng bằng, hệ thống sông ngòi chằng chịt với lượng phù sa lớn được bồi
đắp hằng năm , khí hậu nhiệt đới gió mùa là những điều kiện phù hợp với gieo
trồng lúa nước. Chính vì vậy, trước hết, lễ hội truyền thống của người Việt là Hội
mùa, lễ hội nông nghiệp của những người nông dân. Bên cạnh những hoạt động
kỹ thuật do lao động cơ bắp của người nông dân như cày đất, gieo cấy, làm cỏ,
tát nước, chăm bón, thu hoạch trong nông nghiệp, những mốc đánh dấu các thời
đoạn sản xuất chính là những lễ thức, nghi lễ, hội hè diễn ra khi xuống đồng gieo

cấy, khi lúa ngậm đòng trỗ bông, lúc mùa màng thu hoạch…. Đó là

những hoạt động tâm linh của con người với mong muốn thỉnh cầu và tạ ơn
các lực lượng siêu nhiên trợ giúp mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà và đã
trở thành các hoạt động không thể thiếu tạo nên chỉnh thể của đời sống nông
nghiệp.
Thứ hai là môi trường xã hội: Hoạt động sản xuất nông nghiệp từ lâu đã
quy định hình thức quần cư của dân tộc thành các làng. Làng từ là điểm quần
cư dần đã trỏ thành không gian cư trú, không gian xã hội và không gian văn
hoá. Nơi đây đã trở thành nơi nhập thân và trao truyền các hoạt động văn hoá.
Chính vì vậy, lễ hội của người Việt là hội làng ngày hội cố kết cộng đồng,
biểu dương những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hoá
của cộng đồng.
Thứ ba là môi trường lịch sử - văn hoá: Là một đất nước với bề dày hàng
ngàn năm lịch sử, cùng với tiến trình lịch sử ấy dân tộc ta đã ít nhiều chịu ảnh
hưởng và tiếp thu những văn hoá đánh dấu bước phát triển của mỗi thời đại,
trong đó có những ảnh hưởng tôn giáo. Nếu không kể tới những ảnh hưởng khá
sớm, nhưng có phần mờ nhạt của Bà la môn giáo, Phật giáo từ Ấn Độ thì Phật
giáo đại thừa qua con đường Trung Quốc thâm nhập vào nước ta hoà quyện với
các tín ngưỡng dân gian tạo nên một thứ tôn giáo – tín ngưỡng độc đáo, đó là
Phật giáo dân gian. Đạo giáo nảy sinh vào cuối thế kỉ II trong phong trào khởi


15

nghĩa ở Trung Quốc. Khi vào nước ta, Đạo giáo hoà nhập với các tín ngưỡng
dân gian như đạo Sa man, tín ngưỡng nông nghiệp, thờ tổ tiên…cũng góp
phần tạo nên sắc thái đa dạng của lễ hội dân gian ở nước ta. Nho giáo du nhập
mạnh mẽ vào nước ta từ thời nhà Hán thông qua hệ thống giáo dục và thi cử,
để lại những dấu ấn rõ rệt trong việc thờ cúng Thành hoàng, các sinh hoạt

cộng đồng, nhất là hội hè, cúng lễ.
Ba yếu tố trên lại được lưu giữ phần lớn trong các truyền thuyết dân gian.
Cũng chính bởi vậy nên có một đặc điểm ít ai có thể phủ nhận đó là phần lớn các
lễ hội đều gắn liền với những truyền thuyết, huyền tích dân gian. Lễ hội vừa là
nơi bảo tồn truyền thuyết vừa là cây cầu để truyền thuyết ăn sâu bám rễ vào đời
sống tinh thần của quần chúng. Mỗi quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ
hội cầu mưa cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.

1.2. Tục thờ Tứ pháp của người Việt
Đầu công nguyên, Phật giáo du nhập vào nước ta trong bối cảnh bị
phong kiến Trung Quốc đô hộ (nước mất, văn hóa Đông Sơn bị tàn phá và
phải cưỡng nhận văn hóa phương Bắc). Trong điều kiện đó, Phật giáo truyền
trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam đã có một sự dung hợp kỳ diệu với các vị
thần nông nghiệp bản địa tạo nên một hệ thống tư tưởng giáo lý và thờ cúng
mang yếu tố riêng biệt. Thời gian đầu Phật giáo du nhập vào nước ta, văn hóa
bản địa đã thẩm thấu một cách nhanh chóng văn hóa Phật giáo, tiếp thu trọn
vẹn tinh thần bao dung và nhân từ truyền trực tiếp từ Ấn Độ và biến sự dung
hợp giữa hai nền văn hóa này lại thành một thứ vũ khí chống lại sự đồng hóa
một cách áp đặt của văn hóa Trung Quốc phương Bắc. Phật giáo, lúc đó đóng
một vai trò quan trọng trong sự nghiệp cứu nước, giữ gìn văn hóa Đông Sơn
và duy trì những tín ngưỡng bản địa.
Như vậy, người Việt đã tự tạo ra một vị Phật cho riêng mình, cũng như
hoàn chỉnh được tín ngưỡng Phật pháp. Các yếu tố bản địa (nội sinh) và


16

Ấn Độ (ngoại nhập) đã kết hợp tài tình với nhau để tạo nên một thể thống nhất
qua câu chuyện về nàng Man Nương. Sự tích Man Nương và tục thờ Tứ Pháp
được lưu truyền từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên, và đã được ghi chép trong

rất nhiều truyện sách cổ xưa như: Lĩnh Nam Chích Quái, Kiến Văn Tiểu Lục,
Văn Hiến Thông Khảo, An Nam Chí Lược... với những chi tiết khác biệt nhau.
Tuy nhiên, nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được ghi
lại trong truyện Man Nương - sách “Lĩnh Nam Chích Quái” (Trần Thế Pháp,
thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh - Kiều Phú, 1492) và vào giữa thế kỷ XVII mới được
in thành sách riêng. Hiện còn lưu lại qua bản “Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản
Hạnh Ngữ Lục” khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm thứ 13 niên hiệu
Cảnh Hưng (1752).
Từ địa bàn gốc Luy Lâu (Bắc Ninh) tín ngưỡng thờ Tứ pháp lan tỏa
sang các khu vực phụ cận như Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam…
Bảng 1: Bảng thống kê một số điểm thờ Tứ pháp ở khu vực
Đồng bằng sông Hồng
Tỉnh
(Thành phố)

1. Bắc Ninh


17

2. Hà Nội

3. Hà Nam

Những tư liệu trên cho thấy tín ngưỡng thờ Tứ pháp hầu hết đều tập trung


ở các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Các ngôi chùa Tứ Pháp thường tọa lạc trên
diện tích rộng, thoáng đãng, địa thế đẹp, tụ thủy. Kiến trúc mở để thu hút khách
thập phương gần xa và tổ chức các lễ hội. Giữa các khối nhà bố trí vườn hoa,



18

cây cảnh. Các khu vực nhà phụ làm nơi sinh hoạt của Tăng, Ni và thờ Tổ
thường được bố trí xung quanh ẩn nấp vào cây xanh tạo nên cảnh sắc thiên
nhiên giữa đạo với đời. Trong mặt bằng kiến trúc dàn trải như thế, có những
công trình kiến trúc mang tính đột khởi tạo thành điểm nhấn, ví dụ như tháp
Hòa Phong tại chùa Dâu (giờ còn lại là kiến trúc cao 3 tầng), gác chuông tại
chùa Đậu, gác chuông gác khánh trên nóc nhà Tiền đường của chùa Nành.
Nếu như với các công trình kiến trúc Phật giáo thờ các nhân thần như Không
Lộ thiền sư (Nguyễn Minh Không) thời Lý, Nguyễn Bình An thời Trần thì
thường tồn tại kiểu thờ “Tiền Phật hậu Thánh”, Thánh được thờ sau điện thờ
Phật… Thì ngược lại, trong các ngôi chùa thờ Tứ Pháp (những vị Thánh có
nguồn gốc tự nhiên) thì hệ thống tượng thờ kiểu “Tiền Thánh hậu Phật”, đẩy
hệ thống tượng Tứ Pháp lên trên hệ thống tượng Phật. Tuy nhiên, hiện nay,
các công trình được trùng tu lại đều được bố trí theo kiểu “Tiền Phật hậu
Thánh”. Vì vậy, ta gặp hầu hết các tòa cung cấm là nơi thờ Thánh, căn trước
thượng điện mới là nơi thờ Phật. Tượng trong hệ thống Tứ Pháp đều rất cao
lớn, (tư thế ngồi thiền cao khoảng 1,5m) thường tạc ở tư thế thân thẳng, tay
phải giơ lên, tay trái để trên đùi cầm chuỗi ngọc. Các pho tượng có tóc xoăn
màu đen, nhục khảo nổi cao, tai dài, tọa trên đài sen, gương mặt đẹp với
những nét thuần Việt, đức độ. Những pho tượng tạc từ thế kỷ XVI đầu XVII
mặc áo sát người (tượng Pháp Vân, chùa Dâu), còn muộn hơn thường để mình
trần mặc váy (tượng Pháp Vân, chùa Nành). Thường các tượng Tứ Pháp sơn
màu gụ bóng (tổng hợp màu đỏ của máu và màu đen của mây đen tượng trưng
cho nguồn sống và sự huyền bí.

1.3. Điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm Đồng bằng sông Hồng Việt Nam.

Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hưng Yên nằm cách thủ đô Hà Nội
64 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Dương 50 km về phía tây


×