Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Tình yêu đôi lứa trong tơ dân tộc thiểu số việt nam hiện đại (qua thơ y phương và lò ngân sủn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.02 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HIÊN

TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG THƠ DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(QUA THƠ Y PHƯƠNG VÀ LÒ NGÂN SỦN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HIÊN

TÌNH YÊU ĐÔI LỨATRONG THƠ DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (QUA THƠ
Y PHƯƠNG VÀ LÒ NGÂN SỦN)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CAO THỊ HẢO


THÁI NGUYÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Công
trình có sự hỗ trợ khoa học từ giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Cao Thị Hảo. Các
nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và
chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ HIÊN

i


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn và tình cảm chân thành, em xin trân trọng cảm ơn: Khoa
Ngữ văn, Phòng Đào tạo, các thầy cô giáo trường Đại học sư phạm Thái
Nguyên đã giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi giúp em trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Cao Thị Hảo,
người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, Ban Giám Hiệu và
các đồng nghiệp tại trường PT Vùng Cao Việt Bắc đã động viên, giúp đỡ và tạo
điều kiện về thời gian trong quá trình em hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2019
Tác giả luận văn


NGUYỄN THỊ HIÊN

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan................................................................................................................................................ i
Lời cảm ơn................................................................................................................................................... ii
Mục lục........................................................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................................... 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................... 11
6. Đóng góp của luận văn....................................................................................................................... 12
7. Cấu trúc của luận văn......................................................................................................................... 12
NỘI DUNG............................................................................................................................................... 13
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG THƠ DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH THƠ CỦA Y PHƯƠNG
VÀ LÒ NGÂN SỦN.............................................................................................................................. 13
1.1. Khái quát về tình yêu đôi lứa trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại..................... 13
1.1.1. Khái niệm về thơ tình yêu.......................................................................................................... 13
1.1.2. Thơ viết về tình yêu đôi lứa của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại .

16

1.2. Hành trình thơ của Y Phương và Lò Ngân Sủn........................................................................ 30
1.2.1. Nhà thơ Y Phương với bản sắc văn hóa Tày.......................................................................... 30
1.2.2. Nhà thơ Lò Ngân Sủn với bản sắc văn hóa Giáy.................................................................. 36

Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG THƠ
CỦA Y PHƯƠNG VÀ LÒ NGÂN SỦN.......................................................................................... 43
2.1. Tình yêu say đắm, nồng nàn, mãnh liệt và nỗi nhớ thương da diết................................. 43
2.1.1. Tình yêu say đắm, nồng nàn, mãnh liệt................................................................................... 43
2.1.2. Nỗi nhớ thương da diết dạt dào cảm xúc trong tình yêu..................................................... 47
2.2. Yêu với con tim chân thành, trân trọng ngợi ca người mình yêu..................................... 49
2.2.1. Yêu với con tim chân thành....................................................................................................... 49
2.2.2. Trân trọng ngợi ca người mình yêu.......................................................................................... 51
2.3. Những khát khao cháy bỏng về hạnh phúc lứa đôi.............................................................. 53
2.4. Những dự cảm cô đơn khắc khoải, buồn đau xót xa trong tình yêu............................... 56
2.4.1. Những dự cảm cô đơn khắc khoải............................................................................................ 56

iii


2.4.2. Những buồn đau xót xa trong tình yêu.................................................................................... 59
2.5. Tình yêu giàu yếu tố phồn thực.................................................................................................. 64
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TÌNH YÊU
ĐÔI LỨA TRONG THƠ Y PHƯƠNG VÀ LÒ NGÂN SỦN.................................................. 70
3.1. Thể thơ............................................................................................................................................... 70
3.1.1. Thơ tự do không cố định về số câu số chữ............................................................................. 70
3.1.2. Thơ tự do không cố định về số lượng câu nhưng lại cố định về số lượng chữ..............72
3.2. Ngôn ngữ thơ................................................................................................................................... 75
3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị....................................................................................................... 76
3.2.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh mang tính tạo hình.......................................................................... 78
3.2.3. Ngôn ngữ mang màu sắc văn hóa............................................................................................. 83
3.3. Giọng điệu thơ................................................................................................................................. 87
3.3.1. Giọng điệu thiết tha, rạo rực, nồng nàn, say đắm................................................................. 88
3.3.2. Giọng điệu ngợi ca....................................................................................................................... 89
3.3.3. Giọng điệu xót xa, day dứt, trăn trở......................................................................................... 91

3.3.4. Giọng điệu trầm tư, ngậm ngùi, triết lý................................................................................... 94
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................... 99

iv


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
1.1. Tình yêu từ lâu đã trở thành khởi nguồn của sự sống, đặc biệt tình yêu đôi

lứa luôn là bản tình ca muôn điệu với những nốt nhạc vang lên du dương xao xuyến
lòng người. Nhờ có tình yêu, cuộc đời con người được nuôi dưỡng thêm nồng nàn,
cuộc sống thêm xuân sắc. Vì thế, tình yêu là bản nhạc làm muôn triệu trái tim con
người say đắm. Nó là sức mạnh vô hình cứu rỗi cả thế gian, là khu vườn đầy hương
sắc ngọt ngào của cuộc đời. Chính vì vậy, tình yêu là đề tài bất tận, vĩnh cửu trong thi
ca xưa và nay. Tình yêu trong thơ ca hướng người ta đến những khao khát, ước vọng
tốt đẹp trong cuộc sống, giúp con người ta vượt qua những trắc trở, éo le và vượt lên
những khó khăn của cuộc đời. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, tình yêu hiện hữu với
nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc. Tùy từng thời điểm, nó khoác lên mình
những bộ cánh khác nhau, khi thì say đắm thiết tha cuồng nhiệt, khi thì giản dị chân
thành mộc mạc, lúc lại quẫy đạp, bứt phá, khát khao cháy bỏng, khi lại mãnh liệt trào
dâng bất tận và có lúc lại đắng đót, nhức buốt trái tim.
1.2. Trong lịch sử thơ ca nước nhà, tình yêu đã trở thành cảm hứng chủ đạo
trong sáng tác của các nhà thơ. Trong văn học dân gian, những câu ca dao mềm mại,
uyển chuyển giàu tính nhạc, đã tạo nên những bản tình ca thiết tha rạo rực với những
nỗi lòng thổn thức khi yêu, làm đắm say lòng người. Những câu ca dao đó, diễn tả
bao lời hò hẹn nhớ nhung, những trạng thái cảm xúc của cha ông ta thuở trước. Đến

văn học thời trung đại, thơ tình yêu xuất hiện với những trạng thái khác nhau, khi thì
kín đáo, nhuần nhị, e lệ, nhưng có những lúc mạnh bạo, thiết tha, rạo rực, khát khao
cháy bỏng về hạnh phúc lứa đôi. Những cung bậc cảm xúc đó đã được thể hiện phần
nào trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Hồ
Xuân Hương.... Đến với văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta phải kể đến những
tiếng thơ tình say đắm lòng người như: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Bính, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Nguyễn Mỹ, Vũ Cao..…Các nhà thơ để lại cho dòng thơ tình những áng thơ xúc
động, đi vào lòng người. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, được ghi dấu
bởi sự xuất hiện của những thi sĩ, với những vần thơ tình ngọt ngào, nóng bỏng, mang

1


đậm sắc màu văn hóa. Chúng ta có thể kể tới các thi sĩ: Mai Liễu, Dương Thuấn, Bàn
Tài Đoàn, Triệu Kim Văn, Triều Ân, Cầm Biêu, Triệu Lam Châu, Ma Trường
Nguyên, Lò Cao Nhum, Dư Thị Hoàn, Nông Thị Ngọc Hòa, Hoàng Thanh Hương,
Bùi Tuyết Mai, Inrasara, Nga RiVê, Thanh Pon, Nông Minh Châu, Chu Thùy Liên….
Trong số đó, chúng ta phải kể đến hai cây bút viết về đề tài tình yêu mang những nét
đặc sắc riêng đó là Y Phương và Lò Ngân Sủn.
1.3. Thơ tình của Y Phương và Lò Ngân Sủn, như những nhành hoa dại nhưng
ngát hương thơm của núi rừng. Thơ tình của họ, thể hiện rõ bản sắc văn hóa độc đáo
cũng như tâm hồn của người miền núi. Ta có thể tìm thấy trong tiếng thơ đó bản thể
tình yêu của chính mình. Trái tim yêu tồn tại muôn màu, khi thì mãnh liệt dạt dào đến
cuồng nhiệt, khi lại sống hết mình cho tình yêu dâng hiến đến cháy bỏng đắm say đến
tận cùng, khi thì trầm lắng, cô đơn lo âu khắc khoải, khiến trái tim ta trở về với miền
thương nhớ với những nhịp đập khắc khoải của con tim. Thơ tình yêu của họ gắn với
vẻ phồn thực khỏe khoắn nhưng cũng ngọt ngào, quyến rũ, lãng mạn đến vô ngần.
Thơ tình yêu của Y Phương và Lò Ngân Sủn đã có sự đóng góp nhất định vào mảng
thơ tình của đời sống thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tiếng thơ tình yêu

của họ góp phần làm đa dạng, phong phú cho thơ tình hiện đại Việt Nam. Đặc biệt, họ
thể hiện tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Với trái tim yêu thương
mãnh liệt, hai nhà thơ đem đến cho dòng thơ tình Việt Nam một màu sắc lạ, tiếng nói
mới, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Hai nhà thơ đại diện cho hai dân tộc khác nhau
nhưng khi viết về đề tài tình yêu giữa họ đều có sự đồng điệu, và những điểm riêng
thể hiện phong cách riêng của mỗi nhà thơ. Qua đó, chúng ta khẳng định được vai trò,
vị trí của họ trong dòng chảy văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tiếng thơ
tình yêu của hai nhà thơ góp phần tạo ra những giá trị vô cùng to lớn đặc sắc về nội
dung cũng như nghệ thuật, mang dấu ấn riêng đậm đà bản sắc dân tộc, đại diện cho
thơ tình dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
1.4. Khi nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ, chúng tôi đã lựa chọn
mảng thơ viết về đề tài tình yêu đôi lứa, nhằm tôn vinh giá trị đóng góp của hai nhà
thơ vào dòng thơ tình của đời sống thơ ca dân tộc thiểu số. Vì thế, chúng tôi chọn đề
tài này, mong muốn tìm hiểu về tình yêu đôi lứa trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam

2


hiện đại qua những cung bậc cảm xúc tình yêu trong thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn.
Từ đó, chúng ta có thể đánh giá toàn diện hơn về thành tựu thơ tình của các nhà thơ
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đồng thời khẳng định vị trí của Y Phương và Lò
Ngân Sủn ở mảng thơ viết về tình yêu trong dòng chảy văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại. Công trình hoàn thành sẽ bổ sung tài liệu tham khảo cho nền văn học
dân tộc thiểu số hiện đại Việt Nam.
2.

Lịch sử vấn đề
Hai nhà thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn nhận được sự quan tâm chú ý của rất

nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Theo khảo sát ban đầu của chúng tôi đã có những

công trình và bài nghiên cứu, phê bình về hai nhà thơ như sau:
2.1. Y Phương là nhà thơ có nhiều tác phẩm nổi tiếng được công bố và nhận
được nhiều giải thưởng lớn của trung ương và địa phương. Nhiều tác phẩm của ông
đã để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc. Y Phương đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
cây bút nghiên cứu phê bình. Tên tuổi của ông được nhắc đến trong một số công trình
nghiên cứu về thơ dân tộc thiểu số như: Văn học các dân tộc thiểu số mười năm qua
với vấn đề truyền thống và hiện đại (1986) của Đinh Văn Định; Văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1985) của Lâm Tiến, Tiếng nói các nhà văn dân tộc
thiểu số của nhiều tác giả (Nxb văn hóa dân tộc Hà Nội); Tuyển tập văn học thiểu số
miền núi (Nxb Giáo Dục 1998) do Nông Quốc Chấn chủ biên. Phạm Quang Trung
với Thổ cẩm dệt bằng thơ (phê bình - 1990). Lò Ngân Sủn Hoa văn thổ cẩm, tập 2
(1999, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội). Ngoài ra còn các cuốn: Một mình trong cõi
thơ (Nxb văn hóa dân tộc 2000) của Hoàng Quảng Uyên; Nét đẹp văn hóa trong thơ
văn và ngôn ngữ dân tộc 3 tập (2003-2008) của TS Hoàng An; Song thoại với cái
mới (2008) của Inrasara. Hương sắc miền rừng (2008) của Mai Liễu......
Đặc biệt, tên tuổi của Y Phương xuất hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu
chuyên sâu của các tác giả là các nhà nghiên, cứu phê bình yêu quý và say mê văn
chương dân tộc thiểu số như: Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại (2010) của PGS.TS Trần Thị Việt Trung (chủ biên); Văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (2011) do PGS.TS Trần Thị
Việt Trung Và PGS .TS Cao Thị Hảo Đồng chủ biên; Thơ ca dân tộc HMông -

3


truyền thống và hiện đại (2014) của TS Nguyễn Kiến Thọ; Những người tự đục đá
kê cao quê hương (2015) của tác giả Lê Thị Bích Hồng. Gần đây, tên tuổi Y Phương
xuất hiện trong các công trình nghiên cứu khá quy mô dày dặn hàng nghìn trang đó là
cuốn: Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - truyền thống và hiện đại (2015) của hai
tác giả Trần Thị Việt Trung và Nguyễn Đức Hạnh (Đồng chủ biên). Trong các cuốn

sách phê bình này, Y Phương đều được nhắc đến như một đại diện tiêu biểu cho thơ
Tày. Thơ ông trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn như: Bản sắc Tày trong thơ Y Phương và DươngThuấn của học viên
Nguyễn Thị Thu Huyền, (Đại học Thái Nguyên, 2009); Sùng Thị Hương (Đại học
Thái Nguyên) với đề tài Đặc sắc tản văn Y Phương (2013); Luận văn thạc sĩ của học
viên Hoàng Thị Huệ Dinh với đề tài Thơ song ngữ Y Phương (2016). Tên tuổi và sự
nghiệp của ông cũng trở thành một phần nội dung trong Luận án Tiến sĩ của các
nghiên cứu sinh Đỗ Thị Thu Huyền (Viện văn học); Hà Anh Tuấn (Đại học Thái
Nguyên). Thơ Y Phương cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm của nhiều độc giả,
nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học như: Tế Hanh, Phạm Hổ, Chu
Văn Sơn, Nguyễn Hữu Tiến, Trúc Thông, Hồng Diệu, Tạ Duy Anh, Đỗ Trung Lai, Bế
Kiến Quốc, Nguyễn Trọng Hoàn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Đức Hạnh, Lê Thị Bích
Hồng.... Nhà nghiên cứu lý luận phê bình Nguyễn Đức Hạnh đã nhận xét về thơ
Y Phương: “Thơ Y Phương giản dị như suối nguồn trong và sâu, nhìn xuống đáy thi
thoảng gặp những hạt vàng lấp lánh - đó là biểu tượng độc đáo có tính mơ hồ đa
nghĩa. Người tri ân gọi đó là vàng mười. Người vô tình gọi đó là hạt cát. Nhưng
chính biểu tượng ấy là minh chứng cho tính hiện đại và cá tính sáng tạo, độc đáo của
nhà thơ, bên cạnh tính truyền thống biểu hiện trong đề tài quen thuộc, trong hệ thống
thi ảnh đậm sắc thái văn hóa miền núi nói chung, văn hóa tày nói riêng”[39; tr.259].
Trong tất cả những bài viết, các tác giả đều đánh giá rất cao tài năng của Y Phương.
Họ thể hiện sự ngưỡng mộ, đồng cảm, với những vần thơ viết về tình yêu quê hương,
đất nước và con người miền núi của nhà thơ.
Thơ viết về tình yêu, là mảng thơ góp phần tạo nên giá trị to lớn trong sự
nghiệp sáng tác thơ ca của Y Phương. Ngay từ khi ra đời, thơ tình của ông đã nhận
được nhiều tình cảm yêu quý của nhiều độc giả. Tập thơ Vũ khúc Tày (Tủng Tày) ra

4


đời, đánh dấu sự thành công trong mảng đề tài viết về thơ tình của Y Phương. Tập thơ

viết về tình yêu đôi lứa, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày trên tất cả các
phương diện thể hiện về nội dung, nghệ thuật cùng với những cung bậc cảm xúc
mang hơi thở đời sống, tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Nhà văn
Lê Thị Bích Hồng cho rằng: “Người nặng trái tim yêu như Y Phương luôn vịn vào
thơ và tình yêu như chính quan niệm về thơ. Thơ cũng giống như tình yêu. Không có
sự run rẩy thì không có thơ...Y Phương luôn xoắn bện thơ với tình yêu thành cặp như
anh với em, như cây với đất, như bến với thuyền....anh cho rằng đến như thời gian 12
tháng vận chuyển “Bướm ong còn làm bạn với hoa” huống chi con người đầy cảm
xúc lại thiếu vắng tình yêu ”[39; tr.9].
Khi đọc thơ tình của Y Phương, tác giả Phạm Quang Trung đã phân tích cái hay,
nét đặc sắc trong trong cung bậc cảm xúc thơ tình yêu của Y Phương và nhận xét:
“Nếu không là Y Phương thì chúng ta đã không thể có những bài thơ thắt lòng vì tha
thiết yêu mà không thể sống cùng nhau, song vết thương lòng thì chừng như không
lành theo năm tháng. Cứ nhức nhối hoài. Mỗi khi trái gió trở trời và cả những khi
trời yên biển lặng...Tội nghiệp quá! Đúng là tâm thế của một kẻ tử vì Đạo - Đạo yêu”.
Nhìn chung, các bài viết mới chỉ tập trung nói về những nội dung phản ánh cuộc
sống con người, quê hương làng bản, phong tục tập quán, một số nét đặc trưng về
nghệ thuật trong các tác phẩm của Y Phương. Qua đó khẳng định vai trò, đóng góp
của Y Phương với nền thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu về thơ tình của Y Phương, mới chỉ có những nhận xét bước đầu. Xuyên
suốt toàn bộ sáng tác của Y Phương và Lò Ngân Sủn, chúng tôi thấy thơ tình yêu của
hai nhà thơ chưa được nghiên cứu kết hợp, cụ thể, hệ thống. Những ý kiến đánh giá
của những tác giả đi trước, là tiền đề gợi ý vô cùng quý báu cho việc triển khai hướng
nghiên cứu đề tài của chúng tôi. Thơ tình yêu đôi lứa là mảng sáng tác thành công,
quan trọng, đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương. Thơ tình yêu của ông rải
rác ở một vài tập thơ, có khi ở câu thơ, có khi ở bài thơ, nhưng tập trung nhiều nhất
trọn vẹn trong tập thơ song ngữ Vũ khúc Tày. Tập thơ thể hiện tình yêu bằng ngôn
ngữ dân tộc, bằng cách cảm cách nghĩ của người dân tộc. Vì vậy, chúng

5



tôi đã lựa chọn đề tài tình yêu đôi lứa trong thơ Y Phương cùng và Lò Ngân Sủn
trong dòng chảy thơ tình của các dân tộc thiểu số Việt Nam làm đề tài nghiên cứu, từ
đó, khẳng định những giá trị đặc sắc về mặt nội dung và nghệ thuật trong thơ tình của
Y Phương và Lò Ngân Sủn. Đề tài góp phần vào việc bảo tồn giá trị văn học dân tộc
thiểu số trong tiến trình phát triển văn học nước nhà.
2.2. Cũng như Y Phương, Lò Ngân Sủn đã để lại sự nghiệp sáng tác thơ văn
phong phú và đồ sộ về khối lượng. Thơ ông mang một vẻ đẹp núi rừng hoang sơ, mây
ngàn gió núi vùng cao Bát Xát, Lào Cai. Trong bài viết Mỗi bài thơ là một kỷ niệm
ông đã trải lòng mình “Ước mơ của tôi là sao có được những bài thơ thật đẹp, thật
hay, có sức lay động sâu sa và âm vang sống động trong lòng người đọc(.....) Nhưng
tôi lại đang say sưa như điếu đổ nên tôi sẽ còn làm thơ. Tôi thở bằng thơ của tôi, tôi
thở bằng thơ của mọi người, tôi thở bằng hơi thở của cuộc sống Tôi làm việc bằng
cái đầu, sống bằng thơ và bay lên bằng niềm mơ ước”. Lò Ngân Sủn cũng đưa ra
quan niệm sáng tác của mình: “Không sống chết với thơ, thì thử hỏi làm sao có thơ
hay cho được. Cho nên tôi cứ ngĩ: Nếu còn có người dám sống chết với thơ, tâm
huyết với người, với đời thì sẽ có thơ hay, thơ để đời”[19; tr.504]. Vì thế trong suốt
cuộc đời cầm bút của mình, Lò Ngân Sủn đã sáng tác với bầu nhiệt huyết tuôn trào,
như con ong chăm chỉ cần mẫn dâng cho đời mật ngọt. Ông đã để lại cho đời 14 tập
thơ, 2 tập truyện ký, 10 công trình tiểu luận, các bài nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch,
và nhiều bài thơ được phổ nhạc đi vào lòng người, trong đó có bài thơ Chiều biên
giới là bài ca đã “đi cùng năm tháng”. Bài ca ấy mãi đọng lại trong trái tim trong tâm
hồn muôn triệu người con đất Việt. Nguyễn Nhã Tiên đã từng nhận xét: “Với tôi, bài
thơ Chiều biên giới là bản tuyên ngôn bằng thơ của một người đàn ông dân tộc Giáy
về chính cái bản nhỏ bé của mình. Cũng như ông, mỗi chúng ta đều có một bản tuyên
ngôn về ngôi nhà của mình, về làng mình với những gì thân thuộc mà thiêng liêng
nhất”[19; tr.451].
Khi nghiên cứu về các sáng tác thơ của Lò Ngân Sủn, nhiều nhà văn, nhà thơ,
nhà lí luận nghiên cứu phê bình đã bày tỏ thái độ yêu mến, ngưỡng mộ đối với ông.

Thơ Lò Ngân Sủn mộc mạc, chân thành, giản dị, như suối nguồn trong trẻo quê
hương ông. Thơ ông ẩn chứa cái tình, cái hồn của người miền núi, chứa đựng trong

6


đó không ít những suy tư, triết lý, chiêm nghiệm về sự sống, cuộc đời. Đặc biệt, trong
phần nghệ thuật biểu hiện như thể thơ, cấu tứ, giọng điệu, ngôn ngữ trong thơ ông
cũng vô cùng độc đáo. Chất liệu trong thơ ông, gắn với đời sống thường nhật của
đồng bào dân tộc quê hương. Trong bài viết Thơ với tuổi thơ, Vũ Quần Phương đã
nhận định về thơ Lò Ngân Sủn: “Cấu tứ thoáng, câu gọn chữ nhưng để bài thơ không
bị giản lược hoặc sơ sài trong cảm xúc, trong nghĩ ngợi ông cần mở ra, tung tẩy, mơ
mộng hơn. Điều này ông đã làm được trong một số bài thơ tình yêu”[19; tr.438]. Đọc
thơ Lò Ngân Sủn, chúng ta thấy được cảnh sắc thiên nhiên, bức tranh đời sống, nét
đẹp trong sinh hoạt văn hóa tuyệt đẹp. Tác giả Sần Cháng đã thể hiện tình cảm yêu
mến với thơ Lò Ngân Sủn bằng những nhận xét xác đáng: “Thơ Lò Ngân Sủn thường
có núi, có cây, có hoa, có suối, sông, có nước mạch, có mây, có mưa, nắng ,rừng,
trăng, thung lũng....là hình ảnh nằm trong kho tàng dân ca dân tộc Giáy và Lò Ngân
Sủn đã từ trong dóng suối dân ca đó mà cất cánh. Tôi còn thấy thơ Lò Ngân Sủn có
nhịp nhanh của kèn Pí Lè, có sự chậm rãi, thướt tha của “Vườn Giáy”(dân ca), có
nhấn, có trầm bổng của then làng....”[19; tr.439-440]. Mỗi một bài thơ của Lò Ngân
Sủn là một kỷ niệm, là cả một ân tình, cả một tình yêu thương vô bờ bến mà cả cuộc
đời cầm bút ông đã dành cho quê hương làng bản của mình. Ẩn chứa trong mỗi bài
thơ câu thơ, ý thơ là tình yêu quê hương nồng nàn tha thiết sâu đậm. Hình ảnh con
người, làng bản, quê hương, đất nước, văn hóa đều được ông chắt chiu thể hiện trong
thơ với vẻ đẹp tự nhiên, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong các mảng sáng tác thơ của Lò Ngân Sủn, thơ viết về tình yêu đôi lứa có lẽ
là đặc sắc nhất. Tình yêu trong thơ ông chứa đựng sự chân thành, mộc mạc, giản dị
nhưng vô cùng cuồng nhiệt, táo bạo, thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách tư duy của
người dân tộc. Thơ tình của ông mang màu sắc riêng, đậm chất núi rừng. Thơ tình

yêu của ông đã đọng lại trong lòng nhiều độc giả, nhà văn, nhà thơ, nhà lí luận phê
bình. Họ đã dành cho thơ tình yêu của ông những tình cảm yêu mến và quan tâm sâu
sắc. Trong bài viết Người con của núi tác giả Hoàng Quảng Uyên đã nhận xét: “Cái
thật trong thơ Lò Ngân Sủn là cái thật hoang sơ, anh không ngần ngại ví mình là con
hổ, con gấu, có trái tim người: Yêu đắm say, yêu đến tận cùng, cách nói về tình yêu
của anh cũng rất riêng, nếu nói về bản sắc thơ anh, tốt nhất để anh tự bạch...Trong

7


một cuộc vui, tôi bảo: Tình yêu trong thơ ông cứ phải là thứ ăn được, uống được! Lò
Ngân Sủn gật gù”[19; tr.429]. Khi đọc tập thơ Lều nương của Lò Ngân Sủn, trong
bài viết Thơ tình của Lò Ngân Sủn tác giả Đỗ Đức đã nhận xét: “Cả tập thơ...chứa
đậm nỗi nuối tiếc, nỗi khát tình yêu hoang dã. Cái tình ngọt ngào như mật chứa trong
cây, như sắc long lanh của giọt sương ban mai, như nét tinh vi trong màu thổ cẩm,
như mùi ngầy ngậy của thắng cố, như vị thơm ngon thanh tao của bắp ngô non, cái
huyền ảo của cỏ cây và sương khói...”[19; tr.447]. Trong cuốn sách Nghiên cứu, phê
bình về văn học dân tộc thiểu số của nhà lí luận nghiên cứu phê bình Trần Thị Việt
Trung, tác giả đã nhận định: “Đọc thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn, như đang được
chiêm ngưỡng, được chứng kiến “Bữa tiệc tình yêu” linh đình, phong phú và tươi
tắn, rực rỡ về màu sắc, giàu có về các món ăn vốn là “đặc sản” và tinh hoa của núi
rừng, cùng với hương vị ngọt ngào, thơm phức, đậm phong vị miền núi đầy hấp dẫn;
Và được gặp gỡ chủ nhân của “bữa tiệc” đặc biệt ấy - những người con của núi:
mạnh mẽ, mãnh liệt, hào hoa, xinh đẹp, tràn đầy sức sống”[59; tr.298-299]. Thơ tình
yêu của Lò Ngân Sủn chứa đựng nhiều nét mới mẻ, đặc sắc. Ông có sự tiếp thu chọn
lọc nét đẹp văn hóa dân tộc góp phần tạo cho thơ ông có một phong cách riêng độc
đáo. Thơ viết về tình yêu của ông bắt nguồn từ cảm xúc yêu lành mạnh cường tráng,
cháy bỏng, đam mê, táo bạo, chứa đựng yếu tố phồn thực. Nhà thơ Mai Liễu đã có sự
phát hiện vô cùng tinh tế về điều đó: “Thơ Lò Ngân Sủn chứa đựng những yếu tố
phồn thực, nhất là những bài thơ nói về tình yêu nam nữ. Đó là một thái độ vui sống

chân thành, si mê, hồn nhiên, táo bạo, bất ngờ, hoang dã và đầy ám ảnh....Đó là bản
năng sống, bản năng thơ rất riêng của Lò Ngân Sủn. Đó là một loại “hương rừng
quấn quýt” của một đời thơ Lò Ngân Sủn”[19; tr.484]. Dù viết về đề tài nào, Lò Ngân
Sủn cũng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, bởi ông luôn dùng những ngôn từ
đặc trưng, gần gũi của người miền núi khiến người đọc cảm thấy thú vị có ấn tượng
mạnh. Ông có khả năng quan sát, khái quát, chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, thơ
ông luôn mang một dấu ấn và phong cách riêng. Nhận xét về điếu đó Lê Thiếu Nhơn
đã viết : “Ngoài giọng điệu đặc thù của một nhà thơ dân tộc thiểu số, Lò Ngân Sủn có
khả năng biến hóa những quan sát ngả sang màu chiêm nghiệm. Những chiêm
nghiệm rời rạc đưa vào thơ thì thường đơn điệu và hơi nhiều lời. Khi và chỉ khi ông

8


dùng phương pháp quy nạp chiêm nghiệm thì mới có những bài thơ đóng dấu chất
lượng “thương hiệu” Lò Ngân Sủn”[19; tr.461]. Đây là nhận định vô cùng tinh tế và
chính xác.
Lò Ngân Sủn là nhà thơ có phong cách độc đáo. Khi nói về phong cách sáng tác
của ông, trong cuốn Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc (tập 2
Hương sắc núi rừng), Nxb Văn hóa dân tộc (2003), Hoàng Văn An có nhận xét về tài
năng và nghiệp viết của nhà thơ dân tộc thiểu số Lò Ngân Sủn qua tập thơ Người
trên đá. Bài viết không đi sâu vào khái niệm phong cách, nhưng tác giả đã phân tích
một số ví dụ tiêu biểu để người đọc nhận ra biểu hiện và nét đẹp trong phong cách thơ
Lò Ngân Sủn. Trong cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số đời và văn Nxb văn hóa dân tộc,
Hà Nội (2003), các tác giả trong hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam có giới thiệu về quá trình công tác, các tác phẩm và các giải thưởng của Lò
Ngân Sủn kèm theo bài viết Khi kẽ tay người nở hoa của Trần Mạnh Hảo. Trong bài
viết này lấy cảm hứng từ bài thơ “Người đẹp” bài thơ “Nàng” và một số bài thơ khác.
Trần Mạnh Hảo đã đánh giá như sau: “Có lẽ trong thi ca sở trường của Lò Ngân Sủn
là thơ tình, thường là bài thơ ngắn và có tứ, lại khá hiện đại trong lối viết, không câu

vần vèo bằng trắc”[19; tr.418]. Trong cuốn Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại khu vực phía Bắc Việt Nam, Nxb ĐH Thái Nguyên
(2005), các tác giả có viết về Lò Ngân Sủn, những trang viết đó đã chỉ ra vẻ đẹp ngôn
ngữ giàu chất tạo hình trong việc miêu tả thiên nhiên con người miền núi trong sáng
tác của Lò Ngân Sủn. Đây cũng chính là những nét đặc sắc trong tiếng thơ, nghệ
thuật thơ của hai nhà thơ miền núi này. Trong cuốn Văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (2011) do Trần Thị Việt Trung và Cao Thị
Hảo Đồng chủ biên, các tác giả đã có những nhận xét đánh giá mang tính định hướng
về nội dung, hình ảnh, các biện pháp tu từ của các nhà thơ dân tộc thiểu số trong đó
có Lò Ngân Sủn. Trong cuốn Nghiên cứu phê bình về văn học (Nxb ĐH Thái
Nguyên, 2016), PGS.TS Trần Thị Việt Trung đã dành hơn mười trang nói về Bữa tiệc
tình yêu trong thơ Lò Ngân Sủn, từ đó khẳng định thế mạnh, sức hấp dẫn cuốn hút
trong thơ tình Lò Ngân Sủn khi viết về tình yêu. Đây cũng là những gợi ý quý báu
cho việc

9


triển khai hướng nghiên cứu của chúng tôi để làm sáng tỏ hơn nữa nét đặc sắc trong
thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn.
Qua những ý kiến nhận xét đánh giá của các tác giả cũng như các bài viết trong
các cuốn sách, chúng ta thấy Lò Ngân Sủn có một vị trí nhất định trong nền thơ ca
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Thế nhưng các công trình nghiên cứu , phê bình
về thơ Lò Ngân Sủn lại rất khiêm tốn chưa xứng đáng với sự nghiệp thơ ca mà nhà
thơ để lại. Theo khảo sát bước đầu, ngoài những bài viết, ý kiến nhận xét đánh giá
trên thì chỉ có hai công trình luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ ông: Tính tạo hình
trong ngôn ngữ thơ Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn (2010) của Nguyễn Phương Ly và
Thơ Lò Ngân Sủn (2017) của Phạm Thị Cẩm Anh. Tuy nhiên họ chưa đi sâu vào
mảng đề tài viết về tình yêu trong thơ Lò Ngân Sủn. Đây là mảng đề tài đặc sắc, nhất
tinh túy nhất cần đi sâu hơn nữa để thấy được sự đóng góp của ông đối với thơ tình

yêu dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói
chung.
2.3. Như vậy, qua việc khảo sát khái quát các công trình nghiên cứu, những
nhận xét đánh giá phê bình của các tác giả cùng với những bài viết về thơ tình Y
Phương và Lò Ngân Sủn, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã có những nghiên cứu
bước đầu về thơ tình yêu của Y Phương và Lò Ngân Sủn. Điều đó đã gợi ý cho việc
triển khai hướng nghiên cứu về thơ tình yêu đôi lứa trong văn học dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại qua thơ tình của Y Phương và Lò Ngân Sủn. Từ đó tìm ra được nét
đặc sắc về mặt nội dung, nghệ thuật trong thơ tình yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại. Qua đó, ta khẳng định vị trí của hai nhà thơ dân tộc miền núi
trong việc đóng góp vào dòng thơ tình văn học dân tộc thiểu số nói riêng và văn học
hiện đại Việt Nam nói chung với những thành tựu đáng trân trọng.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu thơ viết về tình yêu đôi lứa của hai nhà thơ Y

Phương và Lò Ngân Sủn với những đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật, từ đó góp
phần làm sáng tỏ thơ viết về tình yêu đôi lứa của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại.

10


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Một số tập thơ viết về tình yêu của các nhà
thơ dân tộc thiểu số cùng với toàn bộ các tập thơ tình yêu của hai nhà thơ Y Phương
và Lò Ngân Sủn. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo thơ viết về tình yêu đôi lứa của
một số nhà thơ Việt Nam hiện đại khác để đối chiếu so sánh.

4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về tình yêu đôi lứa trong thơ các nhà thơ dân tộc thiểu số, và thơ

tình yêu của Y Phương và Lò Ngân Sủn chúng tôi nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn
những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật trong sáng tác thơ tình của hai nhà thơ
miền núi. Từ đó, chúng ta có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về những đóng góp của
hai nhà thơ cho mảng thơ tình các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Qua việc nghiên cứu, đề tài góp phần thể hiện nét đẹp trong đời sống tâm hồn,
tình cảm của con người miền núi, khẳng định những đóng góp quan trọng của hai nhà
thơ trong quá trình phát triển thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, nhất là sự
đóng góp trong mảng thơ tình yêu, góp phần tạo nên sự phong phú trong dòng chảy
thơ tình Việt Nam hiện đại.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
Luận văn khảo sát đặc điểm chung của thơ tình yêu dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại nói chung và vị trí của hai nhà thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn trong dòng
chảy thơ tình dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Chỉ ra được những đặc điểm nổi bật về nội dung trong thơ tình yêu của Y
Phương và Lò Ngân Sủn.
Làm rõ những phương diện nghệ thuật như thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu trong
thơ viết về tình yêu của hai nhà thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại để tập hợp những sáng tác thơ viết về


tình yêu của hai nhà thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn.

11


Phương pháp phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ các đặc điểm nội dung cũng
như nghệ thuật thể hiện trong thơ viết về tình yêu của hai nhà thơ Y Phương và Lò
Ngân Sủn.
Phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được sự giống nhau khác nhau trong nội
dung cũng như nghệ thuật thể hiện tình yêu trong thơ của Y Phương và Lò Ngân Sủn
với các nhà thơ dân tộc thiểu số và nhà thơ Việt Nam khác. Từ đó lí giải nguyên nhân
của sự khác biệt đó.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học...) cùng với các
phương pháp khác, để thấy được những nét đặc sắc trong văn hóa, văn học của các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
6.

Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về đề tài tình yêu

trong thơ Y Phương và Lò Ngân Sủn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định
những đóng góp của hai thi sĩ cho thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đồng thời
bổ sung những tài liệu tham khảo cho nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
hiện đang được nhiều tác giả nghiên cứu và quan tâm.
7.

Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội

dung của luận văn gồm ba chương.

Chương 1: Khái quát về tình yêu đôi lứa trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại và hành trình thơ của Y Phương và Lò Ngân Sủn
Chương 2: Những biểu hiện của tình yêu đôi lứa trong thơ của Y Phương và Lò
Ngân Sủn
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện tình yêu đôi lứa trong thơ Y
Phương và Lò Ngân Sủn

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
TRONG THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
VÀ HÀNH TRÌNH THƠ CỦA Y PHƯƠNG VÀ LÒ NGÂN SỦN
1.1. Khái quát về tình yêu đôi lứa, trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
1.1.1. Khái niệm về thơ tình yêu
1.1.1.1 Khái niệm về thơ
Thơ là thế giới tâm hồn đầy tình cảm của loài người, đã có nhiều định nghĩa
khác nhau về thơ. Theo nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh
cuộc sống thể hiện tâm trạng những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc giàu
hình ảnh và nhất là có nhịp điệu.”[12; tr.309]. Định nghĩa đã đưa ra khái niệm về thơ
một cách đầy đủ cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật. Định nghĩa đã giúp
chúng ta phân biệt được ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ của các thể loại văn học khác
như văn xuôi, kịch. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ hàm xúc, biểu cảm và có tính nhạc.
Điều này đã được thể hiện rõ trong các bài thơ như: Chân quê, Mưa xuân, Tương
tư, Cô hàng xóm...của Nguyễn Bính, Sóng, Thư tình cuối mùa thu, Hoa cỏ may của
Xuân Quỳnh...
Bàn về thơ Sóng Hồng có viết “Thơ là một hình thức nghệ thuật cao quý tinh vi,

người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng, nhưng
thơ là tình cảm lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí
trí ấy diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên
nhạc điệu khác thường”[12; tr.309]. Thơ là sản phẩm của quá trình sáng tạo nghệ
thuật của người nghệ sĩ. Thơ diễn tả sự rung động mãnh liệt, nồng cháy, của thi sĩ với
cuộc sống. Mỗi sự vật hiện tượng trong đời sống, đều được phản ánh sinh động trong
thơ, mỗi nhà thơ khi viết về một đề tài là một cái nhìn cảm xúc tâm trạng khác nhau.
Như viết về đề tài mùa thu, các thi nhân xưa và nay đã có biết bao thi phẩm đặc sắc

13


về thi liệu này. Bích khê có viết trong bài Tỳ bà: “Ô! Hay! Buồn vương cây ngô
đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông”. Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu lại viết:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng/ Đây mùa tu
tới mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới ).
Tùy theo yêu cầu nghiên cứu có thể chia thơ theo những tiêu chí khác nhau.
Dựa vào phương thức phản ánh có thể chia ra thơ tự sự và thơ trữ tình. Xét về mặt
gieo vần có thể chia ra thơ có vần và thơ không vần. Cũng có thể người ta phân chia
theo thời đại như: Thơ Đường, thơ Tống, thơ Lý Trần......Ngoài ra còn phân chia thơ
theo nội dung, đề tài như: thơ tình yêu, thơ triết lý, thơ chính trị, thơ đời thường. Thơ
tình yêu là một bộ phận hữu cơ của thơ trữ tình. Thơ tình yêu lại có một đời sống
riêng, sức hấp dẫn riêng trong lòng nhân loại. Có lẽ chưa một người nghệ sĩ nào lại
chưa cầm bút viết về tình yêu, một thứ tình cảm thiêng liêng cao đẹp giàu tính nhân
văn này. Dường như đề tài tình yêu ở thời kỳ văn học nào cũng có, nó xuất hiện với
nhiều dạng thức khác nhau với những mức độ và vẻ đẹp khác nhau khiến thơ tình trở
thành dòng chảy liên tục và bền bỉ trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
1.1.1.2 . Khái niệm về thơ viết về tình yêu
Tình yêu lứa đôi là thứ tình cảm mạnh mẽ, đặc biệt được hình thành và nảy sinh
từ tâm hồn của hai người mong muốn gắn bó, chia sẽ và động điệu với nhau. Đó là

tình cảm khác về cường độ so với tình cảm thích thú đơn giản đối với một người.
Tình yêu bao gồm sự đam mê, đồng điệu và chia sẻ, mong muốn được yêu thương và
gắn kết với ngừoi mình yêu thương. Cũng có khi, tình yêu chỉ xuất phát từ một phía
nên có tình yêu đơn phương. Thơ viết về tình yêu đôi lứa đã phản ánh những cung
bậc trạng thái tình cảm đặc biệt này.
Thơ tình yêu là một bộ phận không thể thiếu trong mạch nguồn sự sống loài
người. Qua thơ tình, ta khám phá được những cung bậc cảm xúc tinh tuý của con
người. Thơ tình yêu hướng con người đến chân, thiện, mỹ, ra đời giữa những vui
buồn của loài người và trở thành bầu sữa tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời
mỗi chúng ta. Con người tìm đến thơ tình như tìm về chốn nương náu bình yên nhất
của tâm hồn, có người lại dùng thơ tình như một sự giải thoát. Ai đó tìm đến thơ tình
như một sự sẻ chia, thấu hiểu. Với sức mạnh của mình, thơ ca viết về tình yêu có khả

14


năng chữa lành, băng bó vết thương, làm hồi sinh, thức tỉnh những trái tim khô héo
lụi tàn. Phải chăng, thơ tình yêu đã trở thành bầu rượu thế gian, để tiêu đi những trái
ngang tình sầu, nỗi sầu vạn kỷ của con người giữa trần thế? Thơ tình yêu là nơi thổ lộ
tình cảm mãnh liệt, đã được con người ý thức. Thơ viết về tình yêu đôi lứa, vẫn mãi
có sức hút ngàn đời với thế gian.
Thơ tình yêu của loài người xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ văn học khởi thủy với
những câu ca dao, dân ca yêu thương tình nghĩa diễn tả những cảm xúc đôi lứa yêu
nhau, qua đó thể hiện khát vọng về một tình yêu đôi lứa chân thành, đằm thắm, sâu
kín thiết tha, da diết, đến mãnh liệt như bài Khăn thương nhớ ai. Đến thời kỳ văn
học trung đại thơ viết về tình yêu xuất hiện nhiều các tên tuổi cùng với tiếng thơ tình
yêu tha thiết, thể hiện khát vọng lứa đôi của con người, tiêu biểu như: Lý Ngọc Kiều,
Lê Ỷ Lan, Ngô Chi Lan, Nguyễn Thị Lộ.....Đến văn học thế kỷ XVIII- XIX thi đàn
được dậy sóng bởi các áng thơ tình chấn động tâm hồn, chưa bao giờ người ta thấy
nỗi niềm khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc lứa đôi lại mãnh liệt đến như thế

với tên tuổi các nhà thơ: Đoàn thị Điểm, Đoàn Thị Lệ Khương, Đặng Tiểu Thư, Lê
Thị Ngọc Hân, Hồ xuân Hương. Bước sang giai đoạn văn học hiện đại đầu thế kỷ XX
đến 1945, trên thi đàn xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà thơ viết về đề tài tình
yêu đôi lứa. Trong đó nổi bật là các tên tuổi của phong trào Thơ mới với những thi
phẩm nổi tiếng, diễn tả đầy đủ những cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Xuân Diệu
say đắm nồng nàn trong tình yêu với Vội vàng, Thơ duyên, Xa cách...; Hàn Mặc Tử
với Mùa xuân chín, Trường tương tư....; Nguyễn Bính với Chân quê, Mưa xuân,
Tương tư......Huy Cận với Vạn lý tình, Áo trắng..., Vũ Hoàng Chương với Say đi
em;.... Đến giai đoạn sau đó có Xuân Quỳnh với Sóng, Thuyền và biển....; Lâm Thị
Mỹ Dạ với Một mình, Tặng nỗi buồn riêng, Khoảng trống....; Đoàn Thị Lam Luyến
với tiếng thơ yêu đơn phương mãnh liệt, nhưng vô cùng day dứt trăn trở vị tha: Lỡ
một thì con gái, Đi tìm, Tình yêu, Chồng chị chồng em, Huyền thoại một tình
yêu....Ngoài ra còn nhiều cây bút thơ tình khác như Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Vũ
Cao, Nguyễn Mỹ, Hữu Loan.....
Đặc biệt sau năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một
mối. Lúc này, cái tôi cá nhân trong thơ ca được quan tâm hơn bao giờ hết. Thơ tình

15


yêu xuất hiện những tên tuổi các nhà thơ viết về tình yêu đôi lứa vô cùng đặc sắc.
Bên cạnh những nhà thơ quen thuộc của dân tộc Kinh, chúng ta thấy xuất hiện nhiều
nhà thơ là người dân tộc thiểu số viết về tình yêu để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng
bạn đọc như: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Bàn Tài Đoàn, Nông
Viết Toại, Triều Ân, Inrasara, Nga Rivê, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông Thị Ngọc Hòa,
Hoàng Thanh Hương, Chu Thùy Liên, Vương Anh, Mã A Lềnh, Vy Thùy Linh...đặc
biệt là hai nhà thơ tiêu biểu là Y Phương và Lò Ngân Sủn.
Nhìn chung, thơ tình yêu trước hết là thơ trữ tình viết về tình yêu nam nữ, thể
hiện diễn tả cảm xúc yêu đương mà trạng thái cảm xúc ấy bắt nguồn sâu xa hoặc trực
tiếp từ một người khác giới. Thơ tình không nhất thiết là chuyện tình cảm, tình yêu

của bản thân tác giả, có khi nó là tư tưởng nghệ thuật của người viết, cũng có khi là
tình cảm của tác giả được khúc xạ qua nhân vật văn chương. Trong thơ tình, chúng ta
thấy có tình yêu trai gái cũng có tình yêu vợ chồng, tình yêu nồng nàn từ hai phía,
nhưng lại có những mối tình đơn phương, có tình yêu đầu mơ mộng cũng có tình yêu
cuối trắc trở, éo le, cũng có những tình yêu vị tha cao cả, hay những tình yêu vị kỷ
tầm thường.
1.1.2. Thơ viết về tình yêu đôi lứa của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại

1.1.2.1 Giai đoạn trước năm 1975
Đây là giai đoạn nước ta phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến oanh liệt và
hào hùng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chưa bao giờ lòng yêu nước và tinh
thần đoàn kết lại sục sôi như vậy. Vì thế, văn học thờ kỳ này có nhiệm vụ chính là
phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Thời kỳ này, thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và
thơ ca Việt Nam nói chung phát triển một cách mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu
vượt bậc. Cảm hứng thơ ca thời kỳ này chủ yếu là cảm hứng yêu quê hương đất nước,
phản ánh lòng căm thù giặc sâu sắc, niềm tự hào tự tôn dân tộc, ca ngợi hai cuộc
kháng chiến yêu nước vĩ đại. Hòa chung không khí sục sôi yêu nước ấy, nền thơ ca
dân tộc thiểu số xuất hiện nhiều gương mặt tiêu biểu gắn liền với những tác phẩm thơ
như: Nông Quốc Chấn với Việt Bắc đánh giặc (1948), Dọn về làng (1950), Nói với
các anh (1953), Thư lên Điện Biên (1954). Nông Minh Châu với Đêm ba khe
(1952), Người thanh niên giữ đèo giàng, Gửi anh bạn Triều Tiên (1953). Cầm Biêu

16


với Vợ lính ngụy mong chồng (1949), Gái thời giặc (1950), Mường muối yên vui
(1954). Dặn vợ, dặn con (1940), Mừng thủ đô giải phóng (1954). Mã A Lềnh với
Rừng sáng, Vương Anh với: Hoa trong mường, Tình cồng, tình chiêng...
Các tác phẩm thơ ca dân tộc thiểu số lúc này tập trung đề tài viết về hai cuộc
kháng chiến thần thánh, viết về tình yêu quê hương đất nước, con người, thiên nhiên

núi rừng. Cảm hứng thơ ca của các nhà thơ dân tộc thiểu số là cảm hứng trữ tình
chính trị, cảm hứng trữ tình đời tư đan xen kết hợp hài hòa với nhau. Một số bài thơ
đã đề cập đến tình yêu đôi lứa, tuy nhiên số lượng chưa nhiều và chủ yếu đan xen
trong tình yêu đất nước, quê hương, bản làng.
Thời đại nào cũng vậy, tình yêu luôn là đề tài bất tận trong thi ca, bất kỳ nhà thơ
nào cũng đều viết về thơ tình. Tình yêu lúc nào cũng được nhen lên trong lòng người
thi sĩ. Tuy nhiên, mảng thơ viết về tình yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại ở giai đoạn trước năm 1975 chưa có nhiều thành tựu đáng kể. Tình yêu đôi
lứa lúc này đã được hòa chung với tình yêu quê hương đất nước, tình yêu luôn gắn
với nhiệm vụ chính trị. Cái tôi trong thơ ca dân tộc thiểu số lúc này chưa được chú
trọng thể hiện, những nỗi niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu của con người
chưa được bộc lộ. Tình yêu đôi lứa chỉ được ẩn hiện trong mỗi ý thơ hay câu thơ một
cách sâu kín và ý nhị. Cái tình trong thơ ca dân tộc thiểu số giai đoạn này, có thể cảm
nhận được đó là nỗi buồn man mác, gắn với nỗi nhớ, niềm thương vì sự xa cách trong
chiến tranh, tình yêu gắn liền với những nhiệm vụ chính trị, bảo vệ quê hương đất
nước. Tình yêu chứa đựng sự khao khát được yêu, được sống trong tình yêu, kín đáo,
nhẹ nhàng, trong sáng, thiết tha...
Bài thơ Chiếc khăn của Vương Trung đã gửi gắm một tình yêu thầm kín, sâu
lặng. Trong hoàn cảnh đất nước thời đó họ đã biết hy sinh tình yêu cá nhân cho tình
yêu lớn lao với Tổ quốc. Nói như Nguyễn Mỹ trong bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ
“Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Bài thơ đã đem đến cho ta một sự cảm nhận
về nỗi buồn xa cách trong tình yêu thời chiến. Ẩn chứa trong đó là sự khao khát tình
yêu và hạnh phúc lứa đôi. Vì nhiệm vụ đánh giặc cứu nước, anh phải gạt tình cảm
riêng tư, để lên đường chiến đấu:
Vừa bắn máy bay đứt đầu nát đuôi

17


Ánh lửa hồng chưa nguôi

Anh lại sắp xa em đi bộ đội
(Chiếc khăn)
Trong thơ Bàn Tài Đoàn, tình yêu đã được đơm hoa kết trái từ những câu hát
đối đáp, giao duyên. Đó là tình yêu kín đáo nhưng cũng không kém phần táo bạo,
dám bộc lộ qua cách ướm hỏi đầy hình ảnh ẩn ý được thể hiện trong bài thơ Đẽo cày.
Trong bài thơ Dặn vợ dặn con, nhà thơ Bàn Tài Đoàn thể hiện tình cảm sâu sắc, trìu
mến, của mình dành cho gia đình khi tham gia cách mạng. Ẩn chứa trong đó là tình
yêu vợ chồng, khát vọng về hạnh phúc lứa đôi: “Anh lìa em đi cứu nước/ Em khắc ở
nhà trông đứa con thơ”.
Nhà thơ Triều Ân cũng có những vần thơ thể hiện nỗi nhớ da diết trong tình
yêu. Nỗi nhớ được ví von với hình ảnh thiên nhiên, thể hiện nỗi niềm sâu lắng, kín
đáo trong tình yêu:
Xa cách lâu em mong
Buồn như cành lá trụi
Nếu tóc anh điểm sương
Lòng em buồn lá úa
(Triều Ân)
Như vậy, thơ viết về tình yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại giai đoạn này đã có những bước đi đầu tiên thể hiện tình cảm chân thực của con
người miền núi. Tuy nhiên đề tài về tình yêu chưa được các nhà thơ tập trung chú ý
sáng tác, có chăng cũng chỉ là những yếu tố còn khá mờ nhạt, hòa quyện vào những
bài thơ trữ tình chính trị của một số tác giả tiêu biểu. Bởi vậy, thơ tình yêu thời kỳ
này không để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Tuy nhiên, giai đoạn quan trọng này đã
tạo bước đệm hé mở một đề tài mới cho các nhà thơ dân tộc thiểu số về sau, tạo ra
bước ngoặt to lớn cho sự nở rộ về đội ngũ nhà thơ sáng tác về đề tài tình yêu đôi lứa
ở giai đoạn sau năm 1975.
1.1.2.2 Giai đoạn từ sau 1975 đến nay
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng non sông vẹn toàn một dải. Tuy
nhiên chúng ta vẫn phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài chống phá đất nước.


18


Những năm 70 - 80, thơ ca dân tộc thiểu số một lần nữa sục sôi không khí bảo vệ
biên cương của Tổ quốc thiêng liêng. Tiếp nối mạch nguồn giai đoạn trước, thơ ca
dân tộc thiểu số phát triển một cách mau lẹ. Đội ngũ nhà thơ đông đảo, các tác phẩm
thơ đạt được nhiều thành tựu cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những tên tuổi
trước đó thì nay đã xuất hiện hàng loạt các cây bút trẻ với ngòi bút sáng tác đầy nhiệt
huyết. Họ cho ra đời hàng trăm tập thơ với nhiều nội dung, phong cách khác nhau để
lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Giai đoạn này ngoài những đề tài quen thuộc
trước đó, thì đề tài viết về tình yêu của các nhà thơ đã được chú ý sáng tác và đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ. Hoàn cảnh đất nước đã thay đổi, tâm trạng, tâm tư tình
cảm của các nhà thơ đã khác trước, thơ tình yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số đạt
được nhiều thành tựu hơn trước. Thơ tình của các nhà thơ dân tộc thiểu số đua nhau
khoe sắc: Vương Anh có Cơm mường vó, lúa mường vang. Pờ Sảo Mìn với Thị
Trấn đôi ta; Lâm Quý với Tình em đêm hát ví, Nếu em bỏ chồng, Thêu cả bốn
mùa; Dương Thuấn với Em người xa lạ, tháng nào cũng giống em, Cực tình; Triệu
Kim Văn có Lời mùa Xuân; Y Phương với Mùa hoa, Em-cơn mưa rào ngọn
lửa...Tập thơ song ngữ Vũ khúc tày; Lò Ngân Sủn với các tập thơ với những bài thơ
tình đặc sắc Đầu nguồn cuối nước, Bữa tình yêu, Nơi mặt trăng mặt trời gặp nhau,
Tôi là một ngọn gió...; Lương Định với Ngẫu hứng đêm hội; Vi Thùy Linh với
Không thanh thản, Người dệt tầm gai...; Lối nhỏ, Tan vỡ... của Dư Thị Hoàn; Mai
Liễu với Lúc lắc; Bùi Thị Tuyết Mai với Tình Núi, Mưa Xuân, Hơi Thở nhẹ...; Em
loài nắng hạ của Inrasara, Thương lắm nhớ nhiều của Nga Rivê; Lò Cao Nhum với
Vòng xòe, sàn trăng; Thuận tình của Thanh Pôn.... Bế Phương Mai
với Cộng em vào mùa đông, Định nghĩa, Bến đợi, Chờ ai, Vời vợi. Thu tàn, Em
chưa nói lời yêu, Tình yêu, Hẹn...
Tình yêu luôn là khát vọng sâu sắc, mãnh liệt và vĩnh cửu của nhân loại. Tình
yêu ở thời đại nào cũng đều tồn tại muôn sắc màu với những cung bậc cảm xúc làm
đắm say lòng người. Con người cũng không ngừng khao khát đấu tranh để có được

một tình yêu trọn vẹn viên mãn. Thơ tình yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số giai
đoạn này là sự nối tiếp mạch nguồn thơ ca viết về tình yêu của giai đoạn trước. Với
dòng thơ tình tuôn chảy không ngừng, các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại

19


×