Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 209 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DUNG

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG MỘT SỐ HOÀN CẢNH GIAO TIẾP
CỦAQUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT .................................................................................................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 7
1.1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở nước ngoài ............................ 7
1.1.2.Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở trong nước ............................ 9
1.1.3.Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ trong môi trường quân đội. .................. 12
1.2. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................. 16
1.2.1. Khái niệm giao tiếp ................................................................................ 17
1.2.2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ ................................................................... 21
1.2.3.Lý thuyết hội thoại .................................................................................. 28
1.2.4. Lịch sự và vấn đề nghiên cứu lịch sự giao tiếp của quân đội................. 39
Chương 2: NGÔN NGỮ HỘI THOẠI TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM ........................................................................................ 45
2.1. Dẫn nhập ........................................................................................................... 45


2.2. Tương tác hội thoại giao tiếp quân đội .......................................................... 46
2.2.1. Quyền được nói, lượt lời và hệ thống điều hành cục bộ ........................ 46
2.2.2. Chỗ ngừng, hiện tượng gối đầu và kênh phản hồi ................................. 50
2.3. Lượt lời và tham thoại giao tiếp quân đội ..................................................... 57
2.4. Hành vi ngôn ngữ trong tham thoại giao tiếp quân đội ............................... 70
2.4.1. Hành vi chào – chào ............................................................................... 71
2.4.2. Hành vi hỏi – trả lời................................................................................ 73
2.4.3. Hành vi mệnh lệnh – thực hiện mệnh lệnh ............................................. 77
2.4.4. Hành vi trần thuật – trần thuật ................................................................ 79
Chương 3: CẶP THOẠI TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM .............................................................................................................. 84
3.1. Dẫn nhập ........................................................................................................... 84
3.2. Cặp thoại giao tiếp quân đội ........................................................................... 86
3.2.1. Cặp thoại thi vấn đáp tốt nghiệp ............................................................. 86


3.2.2. Cặp thoại khám chữa bệnh ..................................................................... 91
3.2.3. Cặp thoại giao dịch ngân hàng ............................................................... 97
3.3. Vận động hội thoại trong giao tiếp quân đội ............................................... 102
3.3.1. Sự trao lời ............................................................................................. 102
3.3.2. Sự trao đáp ............................................................................................ 104
3.3.3. Sự tương tác .......................................................................................... 110
Chương 4: LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM ....................................................................................................................... 119
4.1. Lịch sự trong giao tiếp quân đội ................................................................... 119
4.2. Các nhân tố chi phối chiến lược lịch sự........................................................ 121
4.2.1.Khoảng cách xã hội (D)......................................................................... 124
4.2.2. Mức độ áp đặt (R)................................................................................ 125
4.3. Các phương tiện hỗ trợ hành vi ngôn ngữ giao tiếp quân đội ................... 127
4.3.1. Hành vi ngôn ngữ hỏi ........................................................................... 127

4.3.2.Hành vi ngôn ngữ bày tỏ ....................................................................... 128
4.3.3. Hành vi ngôn ngữ hứa hẹn ................................................................... 129
4.3.4. Hành vi ngôn ngữ cảm thán .................................................................. 129
4.3.5. Hành vi ngôn ngữ xin lỗi ...................................................................... 130
4.3.6. Dấu hiệu từ vựng – tình thái trong giao tiếp......................................... 130
4.3.7. Từ ngữ xưng hô .................................................................................... 131
4.4. Lịch sự trong hành vi hồi đáp ....................................................................... 132
4.4.1. Cơ sở xác định tính chất lịch sự trong hành vi hồi đáp ........................ 132
4.4.2. Một số chiến lược lịch sự trong hành vi hồi đáp ................................. 135
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 160


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Lượt lời và tham thoại giao tiếp quân đội ...................................... 70
Bảng 2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ ............................................................ 81
Bảng 3.1.Cấu trúc cặp thoại thi vấn đáp tốt nghiệp ........................................ 90
Bảng 3.2. Cấu trúc cặp thoại khám chữa bệnh................................................ 95
Bảng 3.3. Cấu trúc cặp thoại giao dịch ngân hàng........................................ 100
Bảng 3.4. Tín hiệu điều hành vận động trao - đáp giao tiếp quân đội…. ..... 116
Bảng 4.1. Cặp xưng hô trong tham thoại giao dịch ngân hàng..................... 142


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Dưới ánh sáng của Ngữ dụng học, đặc biệt của lý thuyết Hội thoại,
cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được đặc biệt chú ý, ở nhiều khía cạnh

khác nhau. Khi tham gia giao tiếp, các vai giao tiếp phải nói năng sao cho phù
hợp với chuẩn mực xã hội, đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp, đồng thời
phải phù hợp với chiến lược giao tiếp đã đặt ra. Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ là sự tiếp xúc giữa con người (nhóm người) với con người (nhóm
người), trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin (hiểu rộng), đồng thời thể hiện
thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của các nhân vật giao tiếp đối với nội
dung giao tiếp và ứng xử giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Đặc biệt đối
với người Việt, do ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử, văn hóa, xã hội, nên
cách sử dụng các đơn vị ngôn ngữ trong hội thoại khá đa dạng, linh hoạt và có
nhiều nét khác biệt tinh tế so với những ngôn ngữ khác.
Tìm hiểu hội thoại của giao tiếp xã hội ở những hoàn cảnh khác nhau
trong đó có giao tiếp trong Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể góp phần chỉ
ra đặc điểm ngôn ngữ của một cộng đồng hay một nhóm xã hội.
1.2. Ngôn ngữ hội thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của Quân đội
Nhân dân Việt Nam ( gọi tắt là giao tiếp quân đội ) hết sức linh hoạt. Hoạt
động giao tiếp quy thức ở ngữ cảnh hỏi thi tốt nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục
quân 1, là đơn vị quân đội chính quy, ngoài tính khuôn mẫu (theo quy định
điều lệnh), hội thoại mang đặc điểm ngôn ngữ hành chính quân sự thì chúng
cũng có cấu trúc, chức năng như hoạt động giao tiếp thông thường. Ở các
thoại trường giao tiếp khác như: giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân khám
chữa bệnh tại Bệnh viện108, giao tiếp giữa nhân viên với khách hàng trong
giao dịch ở một số chi nhánh Ngân hàng Quân đội Hà Nội, …lại là những
kiểu loại giao tiếp chứa đựng nhiều nét khác biệt: Đó là ngôn ngữ nói năng
trong giao tiếp không hoàn toàn theo khuôn mẫu quy định của điều lệnh mà
ngôn ngữ giao tiếp mang đặc điểm: Khoa học y học; chuyên ngành tài chính
ngân hàng; hành chính công vụ, thậm chí phảng phất bóng dáng ngôn ngữ sinh
hoạt đời thường.
1



Xét dưới góc độ Ngữ dụng học, những cuộc hội thoại giao tiếp quân
đội, dù ở thoại trường giao tiếp nào, vẫn mang những đặc điểm chung của
hoạt động giao tiếp thông thường, vẫn chịu sự tác động của các quy tắc hội
thoại, các nhân vật giao tiếp vẫn phải theo những chiến lược nhất định.
1.3. Trong ngôn ngữ học, nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại là mảng đề tài vô
cùng phong phú, từ trước đến nay được nhiều tác giả ngôn ngữ học nước ngoài và
trong nước đề cập tới. Trong thời gian qua có một số tác giả đã vận dụng lý thuyết
Ngữ dụng học vào việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác
nhau. Tuy nhiên, các công trình đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại bằng tiếng
Việt trong giao tiếp ở quân đội hầu như chưa có.
Hiện nay nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu đối
với đội ngũ cán bộ, nhân viên Quân đội Nhân dân Việt Nam phải có phẩm
chất, năng lực toàn diện. Trong đó việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp đạt hiệu
quả cao trong học tập và công tác, đã được các cơ quan, đơn vị trong quân đội
đặc biệt quan tâm, coi là một mục tiêu cần hướng tới. Việc tìm hiểu phân tích
đặc điểm hội thoại giao tiếp quân đội nhằm mục đích gián tiếp giúp cán bộ,
nhân viên, học viên trong môi trường này vận dụng ngôn ngữ vào thực tiễn
giao tiếp đạt hiệu quả cao, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ hội
thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam”
làm hướng nghiên cứu trong luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến mục đích là chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ hội
thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của quân đội ( Cụ thể hội thoại thi vấn
đáp tốt nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục quân 1Thị xã Sơn Tây;Hội thoại khám
chữa bệnh tại Bệnh viện 108 Quận Hai Bà Trưng; Hội thoại giao dịch tại một
số chi nhánh Ngân hàng Quân đội, các thoại trường Luận án lựa chọn khảo
sát thuộc Thành phố Hà Nội) dưới ánh sáng Ngữ dụng học, nhằm góp phần
chuẩn hóa ngôn ngữ và nâng cao hiệu quả giao tiếp trong học tập, huấn luyện,

công tác của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những nghiên cứu trước đây có liên quan đến đề tài,
những vấn đề lý luận được chọn làm cơ sở cho định hướng nghiên cứu đề tài.
- Thu thập, xử lý ngữ liệu, cụ thể các cuộc thoại ghi chép, ghi âm trong
ba hoàn cảnh giao tiếp nói trên của Quân đội Nhân dân Việt Nam để thống kê
phân loại theo các tiêu chí xác định.
- Phân tích, miêu tả các đơn vị hội thoại trong giao tiếp. Chỉ ra chức
năng của các hành vi ngôn ngữ thường dùng và tính tương tác của chúng
trong hội thoại giao tiếp quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong
giao tiếp ở các đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam, cụ thể là: 50 cuộc
thoại giao tiếp giữa giảng viên với học viên trong thi vấn đáp tốt nghiệp tại
Trường Sĩ quan Lục quân 1; 50 cuộc thoại giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân
trong khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân đội 108; 50 cuộc thoại giao tiếp
giữa nhân viên với khách hàng trong giao dịch tại một số chi nhánh của Ngân
hàng Quân đội Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Ngôn ngữ hội thoại trong giao tiếp ở các cơ sở thuộc Quân đội Nhân
Việt Nam rất đa dạng, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Luận án chỉ chọn
một số trường hợp nghiên cứu: 1/ Các cuộc thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp
địa điểm thao trường, giảng đường của Trường Sĩ quan Lục quân 1, thị xã
Sơn Tây; 2/ Các cuộc thoại trong khám chữa bệnh tại một số phòng khám của
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ( gọi tắt là Bệnh viện 108) quận Hai Bà
Trưng; 3/ Các cuộc thoại giao dịch tại một số chi nhánh (phòng giao dịch) của

Ngân hàng Quân đội. các thoại trường giao tiếp trên nằm trong phạm vi hành
chính Thành phố Hà Nội.
Ba thoại trường giao tiếp Luận án lựa chọn thuộc các lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội nói chung và quân đội nói riêng. Đối tượng chúng tôi
khảo sát là các thoại nhân thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam đang thực hiện
3


nhiệm vụ. Cụ thể: Giao tiếp giữa giảng viên với học viên trong thi vấn đáp tốt
nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, trong lúc các thoại nhân giao tiếp với
tư cách quân nhân; Giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân tại Bệnh viện 108,
trong lúc các thoại nhân có thể giao tiếp với tư cách quân nhân hoặc có thể
không phải quân nhân; Giao tiếp giữa nhân viên ngân hàng với khách hàng tại
một số chi nhánh giao dịch của Ngân hàng Quân đội Hà Nội, trong lúc các
thoại nhân giao tiếp không phải với tư cách quân nhân.
Trong hội thoại ở các thoại trường trên, ngôn ngữ của những thoại nhân
không phải cán bộ, nhân viên quân đội cũng được ghi nhận. Đó là nhân tố
giúp cho sự tương tác hội thoại trong những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Thời gian nghiên cứu: Nguồn dữ liệu sơ cấp được tác giả thu thập trong
khoảng thời gian 2015 đến 2018. Xử lý và bổ sung ngữ liệu từ tháng 12/2015
đến tháng 9/2019.
- Ngôn ngữ hội thoại giao tiếp ở các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội rất đa
dạng, xét về các phương diện của Ngữ dụng học. Tuy nhiên Luận án chỉ chọn khía
cạnh nghiên cứu liên quan đến lý thuyết Hội thoại, cụ thể: Các đơn vị tham gia
cấu tạo cuộc thoại: cặp thoại, ( lượt lời ) tham thoại; hành vi ngôn ngữ thường gặp;
Nguyên tắc lịch sự giao tiếp tại ba thoại trường giao tiếp nói trên của Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án này được thực hiện với các phương pháp và thủ pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích diễn ngôn

Phương pháp này nhằm mục đích phân tích các cuộc thoại giao tiếp đặt
trong mối quan hệ với ngữ cảnh và các yếu tố khác như quan hệ tương tác,
quan hệ liên nhân.
Luận án cũng sử dụng phương pháp này để chỉ ra đặc điểm về cấu trúc,
đặc điểm lời thoại của các thoại nhân, qua hình thức của các lời thoại tương
tác, đặc điểm của cặp thoại, tham thoại,…ảnh hưởng đến quá trình sử dụng
ngôn ngữ của các thoại nhân khi tham gia hội thoại trong một số hoàn cảnh
giao tiếp quân đội.

4


4.2. Phương pháp điều tra ngôn ngữ học xã hội
Phương pháp này được vận dụng khi khảo sát thực tế thu thập ngữ liệu
làm cơ sở dữ liệu cho luận án, gồm: ghi chép, ghi âm, chụp ảnh.
4.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được vận dụng khi phân tích và tổng hợp để xác định
đặc điểm lời thoại từng kiểu đơn vị hội thoại, qua đó xác định đặc điểm, vai
trò, cấu trúc, chức năng của chúng trong hội thoại.
Trong luận án, thủ pháp thống kê được dùng để chỉ ra quy luật xuất
hiện của các đơn vị tham gia cấu tạo nên các cuộc thoại: cặp thoại, (lượt lời)
tham thoại, đặc biệt là tham thoại dẫn nhập, tham thoại hồi đáp, các hành vi
chủ hướng, hành vi phụ thuộc, hỏi trực tiếp, hỏi gián tiếp,…
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Quân đội Nhân dân Việt Nam đến nay đã kinh qua hơn 70 năm xây
dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Nói đến Quân
đội Nhân dân Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến các vị tướng lĩnh tài ba, đến
những chiến công hiển hách, đến hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ”,…Vì vậy các
đề tài nghiên cứu về lịch sử quân sự Việt Nam hay các lĩnh vực khác của quân
đội rất đa dạng và phong phú. Từ đó, có thể rút ra những bài học bổ ích cho

“Nghệ thuật chiến tranh nhân dân”.Trong khi đó với ngành Việt ngữ học,
ngôn ngữ hội thoại giao tiếp ở các đơn vị thuộc quân đội vẫn chưa được
nghiên cứu một cách có hệ thống trên tinh thần của lý thuyết Hội thoại. Kết
quả nghiên cứu của Luận án chỉ ra những đặc trưng cơ bản, xác định được các
mô hình cuộc thoại trong ba hoàn cảnh giao tiếp của quân đội mà Luận án lựa
chọn ở trên. Đồng thời, Luận án hệ thống hóa chiến lược giao tiếp mà các
thoại nhân thường sử dụng, để xây dựng chiến lược giao tiếp đạt:“sự thông
minh, sáng tạo của nghệ thuật ứng xử trong giao tiếp quân đội”, hướng đến
sự chuẩn mực cho các thế hệ sau kế thừa phát triển trong quá trình học tập và
công tác giúp cho hoạt động giao tiếp ở môi trường quân đội luôn đạt hiệu
quả cao, đảm bảo nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của Luận án có thể góp phần làm sinh động, phong phú hơn
cho Ngữ dụng học, đặc biệt của lý thuyết Hội thoại, làm rõ hơn một số nội
dung của ngôn ngữ hội thoại qua nghiên cứu trường hợp giao tiếp ở các cơ
quan đơn vị do quân đội quản lý.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận án có tác dụng tích cực hướng đến tính
chuẩn mực về giao tiếp trong quân đội. Các kết quả nghiên cứu đạt được có
thể làm tư liệu tham khảo phục vụ cho các chuyên đề bồi dưỡng kỹ năng giao
tiếp, trong giáo dục, huấn luyện và công tác của cán bộ, nhân viên Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu bước đầu của Luận án còn
là tài liệu học tập, tham khảo hữu ích cho đồng nghiệp, học viên ở môi trường
quân đội nói chung và các lĩnh vực giáo dục, ngân hàng, y tế trong quân đội
nói riêng.

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của Luận án gồm
bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Ngôn ngữ hội thoại trong giao tiếp Quân đội
Nhân dân Việt Nam
Chương 3: Cặp thoại trong giao tiếp Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chương 4: Lịch sự trong giao tiếp Quân đội Nhân dân Việt Nam

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở nước ngoài
Cụm từ phân tích hội thoại xuất hiện sớm nhất trong tác phẩm của hai
tác giả nghiên cứu người Mĩ là Eving Gossman và Harold Gasinkel [102.tr.
403], trong đó nền tảng của lý thuyết hội thoại là những tư tưởng của bộ môn
phương pháp luận dân tộc học (ethnomethodology) trong nghiên cứu hội thoại
và quan điểm về trật tự tương tác của E.Gossman. Quan điểm của hai nhà
nghiên cứu trên cho thấy các thành viên trong xã hội xây dựng và nhận biết sự
vật, sự việc, hành động cũng như thấu hiểu nhau cần phải dựa vào các yếu tố
như phong tục, tập quán, tâm lý,… [102.tr.02]. Đồng thời hai tác giả chú
trọng nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ thường ngày mà theo họ chúng bị lãng
quên, đặc biệt là nghiên cứu các trường hợp tương tác xã hội, thông qua sự
phát triển phân tích hội thoại bằng các thiết lập mối quan hệ nhằm khảo sát
trật tự trong cuộc sống.
Những năm 70 của thế kỉ XX, nhờ công trình của Harvey Sackd và một
số cộng sự của ông là Emmamueal A. Schegloff, Gail Jefferson, phân tích hội

thoại tách ra khỏi ngành dân tộc học trở thành lĩnh vực riêng biệt với mục
đích nghiên cứu cấu trúc hoạt động của giao tiếp mà trước đây nó bị ảnh
hưởng bởi một số ngành khoa học liên nhân (Lerner, 2004).
Phân tích hội thoại được rút ra từ nghiên cứu dân tộc học, quan tâm đến
trật tự tạo ra như thế nào trong tương tác xã hội, với phương pháp thực
nghiệm dựa trên phân tích vi mô (Claymau và Maynard,1995).
Kế thừa thành tựu nghiên cứu về hội thoại của các bậc tiền bối, sau này,
các vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ lời nói được nhiều nhà ngôn ngữ học
quan tâm nghiên cứu như: N.Chomsky, J.Austin, J.Filmore, H.P.Grice, S.C.
Dik, C.K.Orechioni…Trong đó tác giả H.P.Grice là người có những đóng góp
7


quan trọng cho việc nghiên cứu lý thuyết hội thoại.Trong cuốn “Logic and
Conversation”, ông đã nghiên cứu để đưa ra nguyên lý cộng tác hội thoại,
tương tác hội thoại, logic với hội thoại cũng như việc phân chia các phương
diện liên kết hội thoại. G.Yule (1986) đề cấp đến vấn đề cộng tác và hàm ý
hội thoại, các đặc tính của hàm ý hội thoại trong mối quan hệ tương tác, hội
thoại và cấu trúc ưa chuộng [96. tr 35].
Đối thoại trong sự hình thành có quy định, chuyên nghiệp cũng được
nghiên cứu bằng cách mô tả nó hạn chế hoặc sửa đổi như thế nào so với tương
tác hội thoại (Drew và Heritage, 1992). Các nghiên cứu trong lĩnh vực này
thường tìm hiểu thể loại hoặc các loại hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể, ví
dụ, đối thoại (Atkinson và Drew, 1979), các cuộc gọi khẩn cấp (Whalen và
Zimmermann,1990), các cuộc họp (Boden,1994), cách nói tin tốt và xấu trong
bối cảnh lâm sàng (Maynard, 2003) và tin đồn (Bergmann, 1993).
Charles Goodwin nghiên cứu các đặc điểm tổ chức hành vi trong đối
thoại tương tác – không chỉ là vai trò của ánh mắt, cử chỉ và vị trí cơ thể, mà
còn sử dụng các công cụ và đặc điểm hình thành khác (Goodwin, 2000; xem
thêm các nghiên cứu tại nơi làm việc ở Heath và Luff, 2000). Goodwin (2003)

đưa ra tập hợp các nghiên cứu phân tích hội thoại về cách mà con người sử
dụng ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp thông thường (xem Institional
talk; Family speak; Computers in Lexicography).
Hơn nữa về lý thuyết phương pháp phân tích và phương pháp luận cơ bản
của lý thuyết hội thoại về sau được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau như: nghiên cứu lĩnh vực tương tác ngữ pháp, nghiên cứu
mối quan hệ giữa cấu trúc ngôn ngữ, tập quán ngôn ngữ, các tổ chức lượt lời và
các trình tự trong sự tương tác hội thoại. ( Ochs et al,1996; Selting và Couper –
Kuhlen năm 2001; Ford et al, 2002; Couper – Kuhlen và Ford, 2004 ).
Những thập niên đầu thế kỉ XXI các nhà nghiên cứu như Anthony
Liddicoat [101] Robin Wooffitt [103], đã cho ra mắt những công trình nghiên
cứu mang tính lý luận đại cương, trong đó đề cập đến các khái niệm trong
8


phân tích hội thoại như ngữ cảnh chuỗi, mở rộng và phân tích hội thoại,
khoảng trống hội thoại,…
Với kết quả thu thập được tình hình nghiên cứu về hội thoại ở nước
ngoài như trên cho thấy rằng phân tích hội thoại đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học. Về cơ bản các công trình nghiên cứu
mới đề cập đến phân tích hội thoại ở dạng đại cương, những công trình đi sâu
vào nghiên cứu ứng dụng của phân tích hội thoại trong các lĩnh vực giao tiếp
thông thường. Những lý thuyết trên cùng những nghiên cứu về hội thoại của
các tác giả đi trước tạo tiền đề cho chúng tôi tìm hiểu nghiên cứu đặc điểm
ngôn ngữ hội thoại giao tiếp quân đội.
1.1.2.Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở trong nước
Ngữ dụng học nói chung và Lý thuyết Hội thoại nói riêng so với các
chuyên ngành ngôn ngữ học khác xuất hiện ở trong nước muộn hơn. Tuy
nhiên, những thập niên đầu thế kỉ XXI, các nhà ngôn ngữ học đã công bố
nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề hội thoại.

Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn “Giao tiếp diễn ngôn và Cấu tạo
văn bản” (2009) ở chương 3 tác giả bàn về vấn đề phân tích hội thoại. Theo
tác giả, “Phân tích hội thoại” đến từ thực tế cuộc sống, và trong sự gặp gỡ
với lý thuyết dụng học, nó trở thành một đối hệ nghiên cứu hoàn chỉnh với hệ
thống các công cụ lý thuyết trọn vẹn, có sức mạnh giải thích thỏa đáng.
Một trong những tác giả đi tiên phong ở lĩnh vực này là Đỗ Hữu Châu
với hai công trình “Đại cương Ngôn ngữ học” (2002), “Cơ sở ngữ dụng học”
(2003). Ông được xem là một trong những người đầu tiên đề xuất một hướng
tiếp cận mới, một hướng nghiên cứu mới vào Việt Nam - đó là phân tích Hội
thoại trong sự hành chức của ngôn ngữ. Năm 1993, lần đầu tiên các vấn đề lý
thuyết hội thoại như: cấu trúc hội thoại, các quy tắc hội thoại, thương lượng
hội thoại, chức năng của các đơn vị hội thoại, đã được Đỗ Hữu Châu trình bày
trong cuốn “Đại cương Ngôn ngữ học”, Tập 2 [10]. Có thể coi đây là những
công trình chuyên sâu về ngữ dụng học nói chung và hội thoại nói riêng ở
9


Việt Nam. Mặt khác, hai công trình này cũng chính là những định hướng quan
trọng giúp người đọc bước đầu tiếp cận một lĩnh vực nghiên cứu mới, khó
nhưng cũng hứa hẹn nhiều điều thú vị.
Tiếp đến là tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn“Ngữ dụng học” (1998)
[13] dành toàn bộ Chương 3 để giới thiệu về phương pháp nghiên cứu hội
thoại, cấu trúc hội thoại, nguyên lý hội thoại và phép lịch sự.
Trong cuốn Dụng học Việt ngữ [27] năm 2000, tác giả Nguyễn Thiện
Giáp đã trình bày những vấn đề của lý thuyết hội thoại và phép lịch sự trong
giao tiếp bằng những dẫn chứng sinh động, cụ thể với cách viết ngắn gọn, súc
tích. Nhiều vấn đề khác như cấu trúc hội thoại, lời ướm trong hội thoại,
nguyên tắc hợp tác và hàm ý hội thoại, chiến lược giao tiếp trong hội thoại đã
được ông trình bày và lý giải một cách khá cụ thể rõ ràng.
Tác giả Vũ Thị Thanh Hương (1990), “Bước đầu tìm hiểu các hành vi

giao tiếp mở đầu tương tác bác sĩ - bệnh nhân”, (Tạp chí Ngôn ngữ - số 3 và
1992), “ Các hành vi giao tiếp kết thúc tương tác bác sĩ – bệnh nhân”(Hội
nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học).
Tác giả Nguyễn Văn Khang năm 1999 đã tiếp cận hội thoại từ góc nhìn
Ngôn ngữ học xã hội.Trong chương 8 [52], tác giả đi sâu vào ba vấn đề chủ
yếu của hội thoại là: cấu trúc hội thoại, chiến lược hội thoại và phong cách hội
thoại. Từ bình diện ngôn ngữ học xã hội, tác giả đã dành nhiều thời gian để
phân biệt năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp, những cấu trúc quan trọng
dùng để biểu đạt lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ.
Với tác giả Đỗ Kim Liên, năm 1999, cho ra đời cuốn “Ngữ nghĩa lời
thoại” [56]. Nếu như các tác giả trước đây khi nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại
thường xem xét câu hỏi, câu đáp một cách riêng lẻ thì lần đầu tiên, tác giả đã
quan tâm nghiên cứu sự tương tác giữa câu hỏi – câu đáp từ bình diện ngữ
nghĩa. Nếu như các tác giả trước đây khi nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại
thường xem xét câu hỏi, câu đáp một cách riêng lẻ thì lần đầu tiên, tác giả đã
quan tâm nghiên cứu sự tương tác giữa câu hỏi – câu đáp từ bình diện ngữ
10


nghĩa. Một điểm nữa là các tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Văn Khang trình bày các vấn đề và dẫn dụ được lấy từ nguyên mẫu
lời nói thì tác giả Đỗ Thị Kim Liên đã sử dụng các cuộc thoại trong tác phẩm
văn học viết để soi sáng các vấn đề của Lý thuyết hội thoại. Năm 2005, tác
giả Đỗ Thị Kim Liên tiếp tục công bố “Giáo trình Ngữ dụng học” [59. tr.25].
Trong công trình này, những nội dung cập nhật của lý thuyết hội thoại tiếp tục
được tác gỉa soi chiếu thông qua các tác phẩm văn học sau này.
Kế thừa và phát triển thành tựu các bậc tiền bối, các thế hệ tiếp sau đã
vận dụng Lý thuyết Hội thoại và các đơn vị hội thoại vào các nghiên cứu của
mình. Tác giả Phạm Văn Thấu (2000) [88] lại đi sâu nghiên cứu cấu tạo của
cặp thoại, các kiểu cấu trúc liên kết của cặp thoại bao gồm: liên kết phẳng,

liên kết lồng, liên kết đối xứng và liên kết móc xích. Tác giả Mai Xuân Huy
trong “Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp” [42] đã
dành một phần trong Chương 3 để bàn về cấu trúc hội thoại quảng cáo, cặp
thoại trong hội thoại quảng cáo và sự liên kết của các cặp thoại. Ngoài 5 cấu
trúc mà tác giả Phạm Văn Thấu đã đưa ra, Mai Xuân Huy còn bổ sung thêm
kiểu liên kết đồng quy hay còn gọi là liên kết hướng tâm.
Bên cạnh đó, lý thuyết hội thoại còn được quan tâm nghiên cứu dưới
góc độ ứng dụng vào những phạm vi giao tiếp cụ thể như giao tiếp mua bán,
giao tiếp đàm phán thương mại, hội thoại dạy học, hội thoại giữa tư vấn viên
tổng đài và người gọi điện thoại tư vấn,… Đặc biệt, riêng bình diện hội thoại
giữa người mua – người bán đã có tới gần sáu chục công trình đề cập đến vấn
đề này như [71,72],…. Nhìn chung, các tác giả đã tập trung chủ yếu vào
những vấn đề cụ thể của hội thoại và đã chỉ ra được cấu trúc cuộc thoại mua
bán, các đặc điểm của hội thoại mua bán ở chợ và các đơn vị cấu trúc hội
thoại. Điều đáng chu ý là tác giả Trần Thanh Vân đã đi sâu nghiên cứu những
khác biệt về giới tính thể hiện qua cuộc thoại mua bán ở chợ Đồng Tháp, từ
đó hướng đến việc làm rõ các kiểu dạng hoạt động ngôn ngữ đặc thù mang
đặc trưng văn hóa vùng biểu hiện trong ngôn ngữ hội thoại.
11


Ở bình diện ngôn ngữ hội thoại dạy học, có các công trình Quách Thị
Gấm (2010) [23],Vũ Thị Thanh Hương (2004) [55], Nguyễn Thị Dung (2011)
[15] Trần Thị Phượng (2015) [72]. Các công trình này đã đề cập khá đầy đủ
đến các vấn đề của hội thoại dạy học như cặp thoại dạy học, vai trò của cặp
thoại trong tổ chức của đoạn thoại và cuộc thoại, cấu trúc, chức năng của cặp
thoại dạy học, bước thoại và năng lực giao tiếp của giảng viên, giáo viên, sinh
viên, học viên, học sinh.
Trên cơ sở những tri thức nền tảng lý thuyết hội thoại trong và ngoài
nước, nhiều công trình đã tập trung nghiên cứu, mở rộng việc vận dụng lý

thuyết hội thoại vào thực tiễn giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm
văn học, văn bản quản lý nhà nước,… Tuy nhiên, cho đến nay, ngôn ngữ hội
thoại giao tiếp của cán bộ, nhân viên Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn là
mảng đề tài để ngỏ cần được tiếp tục khám phá.
1.1.3.Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ trong môi trường quân đội.
Quân đội Nhân dân hơn bảy mươi năm xây dựng chiến đấu, trưởng
thành mảng đề tài về lịch sử quân đội, về nghệ thuật chiến tranh nhân dân, về
anh bộ đội Cụ Hồ…được nhiều tác giả nghiên cứu. Bên cạnh đó mảng đề tài
về khoa học ngôn ngữ quân sự, theo tìm hiểu của chúng tôi đến nay có một số
công trình nghiên cứu cụ thể như sau:
Ngôn ngữ người lính được phân tích khá thú vị trong công trình “Văn
học Việt Nam 1945 -1954”, tác giả Mã Giang Lân đánh giá tổng quát về tiến
trình văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -1954 và bước đầu phân tích về mảng
đề tài người lính trong văn xuôi. Theo tác giả, người lính là những con người
mà khi tiếp xúc cho người ta “một cảm giác lạ lùng ở trong người: Người dân
quê bây giờ lạ lắm, họ không phải là người quê nữa, họ là những người giết
được giặc, có một tình cảm mãnh liệt, đẹp đẽ” [dẫn theo 4.tr.19]. Đó có thể là
một “Anh trung đội trưởng ra mệnh lệnh quan trọng bằng những lời nói ôn
tồn thân mật và trở nên ngập ngừng khi nói đến quyết tâm trả thù cho đồng
chí trung đội phó” [ dẫn theo 4.tr.19 ] hay đó là người lính dù rất nhớ quê hương,
12


gia đình nhưng khi nhắc tới vẫn giữ “một giọng vui nghịch ngợm”, ưa sử dụng
“những thành ngữ, lối ví von, những hình ảnh tạo nên sắc thái riêng” [ dẫn theo 4.
tr.20 ]. Các tác giả Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành (2003), Nguyễn Đình
Thi – tác giả và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục có giới thiệu bài viết của
Nguyễn Xuân Nam “ Đọc những tiểu thuyết viết về quân đội của Nguyễn
Đình Thi ”,… Như vậy, từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu
bước đầu xem xét, đánh giá ngôn ngữ người lính trong văn bản như một thủ

pháp khắc họa nhân vật.
Ở góc độ ngôn ngữ học tâm lý, các nhà khoa học khi nghiên cứu về
người lính đã chú trọng đi sâu vào mục đích chức năng ngôn ngữ của người
cán bộ chỉ huy.Tác giả Nhữ văn Thao cho rằng : “Cán bộ chỉ huy, cán bộ lãnh
đạo, bên cạnh ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày như mọi quân nhân còn thường
xuyên sử dụng ngôn ngữ chỉ huy và ngôn ngữ tuyên truyền giáo dục”
[84.tr.75 ]. Ngôn ngữ giao tiếp được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt và hoạt
động của mỗi cán bộ chỉ huy. Nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống và
hoạt động của các quân nhân, đặc biệt trong quan hệ đối xử với nhau để trao
đổi tình cảm, tăng cường hiểu biết, động viên cổ vũ lẫn nhau.‘Ngôn ngữ giao
tiếp của cán bộ chỉ huy trở thành phương tiện có hiệu quả để điều chỉnh tâm
lý, hành vi cấp dưới’ [ 84. tr.75 ].
Vai trò, vị trí của việc phát triển vốn ngôn ngữ trong tập thể người lính
cũng được các tác giả quan tâm và cho rằng: “Để phát triển trình độ ngôn ngữ
cho quân nhân, trong hoạt động quân sự cần tăng cường hoạt động, giao tiếp
giữa các quân nhân trong đơn vị: thường xuyên trau dồi thuật ngữ chuyên
môn, nắm vững các quy tắc ngữ pháp để phát triển trình độ ngôn ngữ nói và
viết; nâng cao trình độ ngôn ngữ thông qua đài, báo, tạp chí và các bài nói,
viết của các lãnh đạo; phát huy tính tích cực của bản thân trong học tập, rèn
luyện nâng cao trình độ ngôn ngữ” [ 84. tr.75 ].
Đặc biệt về góc độ giao tiếp có công trình khoa học: “Những vấn đề cơ
bản của tâm lý học xã hội, tâm lý học tập thể cơ sở quân nhân”, tác giả Hoàng
13


Đình Châu (1998), “Tâm lý học quân sự”, và công trình “Giao tiếp của bác sĩ
Quân y với người bệnh” của tác giả Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Hà [35].
Coi thuật ngữ quân sự là một mảng của thuật ngữ, các nhà nghiên cứu
tập trung tìm hiểu hệ thống thuật ngữ quân sự, xây dựng từ điển thuật ngữ
quân sự, từ điển bách khoa quân sự và so sánh, đối chiếu thuật ngữ quân sự

tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Có thể điểm qua một số công trình thuộc
hướng nghiên cứu này: Vũ Quang Hào (1994), “Hệ thuật ngữ quân sự tiếng
Việt”; Bộ Quốc Phòng (1996), “ Từ điển bách khoa quân sự”, Nguyễn Quỳnh
Nga (2002), “Khảo sát đặc điểm thuật ngữ quân sự trong phạm vi quân chế
tiếng Hán và tiếng Việt tương đương”; Nguyễn Văn Khánh (2013), “Nghiên
cứu đối chiếu thuật ngữ quân sự giữa tiếng Anh và tiếng Việt”… Về cơ bản,
các công trình nói trên mới dừng lại ở việc nghiên cứu từ loại (thuật ngữ)
chưa quan tâm đến toàn bộ hệ thống ngôn ngữ mà người lính sử dụng.
Vấn đề nghiên cứu liên quan đến Lý thuyết Hội thoại qua tư liệu là các
tác phẩm văn học được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: “Xưng hô
trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán”, của tác giả Phạm Thị
Hạnh phân tích các từ xưng hô theo hai mặt: hình thức và chức năng. Ở phạm
vi chức năng của từ xưng hô, tác giả phân tích các từ ngữ xưng hô theo
hướng: từ ngữ chuyên dụng, từ ngữ lâm thời; lý giải các nhân tố tác động đến
việc định vai giao tiếp và lựa chọn từ xưng hô như: mục đích giao tiếp, hoàn
cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp,… Tuy nhiên, tác giả mới xem xét đặc điểm
xưng hô, chưa quan tâm đến đặc điểm ngôn ngữ trong giao tiếp của người chiến
sĩ ở tác phẩm “Tuổi thơ dữ dội”. Cũng liên quan đến vấn đề nghiên cứu trên, có
thể kể đến: Tô Thị Phương Lan (1995), “Người lính trong văn xuôi viết về chiến
tranh của những nhà văn cầm súng”; Nguyễn Thị Thu Trang (2014) “Từ ngữ về
con người và chiến tranh trong Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”,…Nguyễn Thị
Dung dựa trên nền tảng lý thuyết Hội thoại với đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ
trong giao tiếp ở trường Đại học Quân sự Việt Nam (2011) đã đưa ra nhận
định: “Trong môi trường quân đội, ngôn ngữ giao tiếp cũng phải “thống
14


nhất” mang tính điều lệnh hóa” [15.tr.38]. Tác giả phân tích hoàn cảnh giao
tiếp và quan hệ vai giao tiếp. Quan hệ vai giao tiếp ở các cuộc thoại trong thi
vấn đáp chủ yếu là loại vai cao – thấp. Quan hệ vai cao – thấp là quan hệ giữa

cấp trên – cấp dưới, giữa những người có tuổi tác, địa vị, vị thế xã hội (giảng
viên), và những người trẻ tuổi (học viên). Mặc dù quan hệ về mặt xã hội
không bình đẳng nhưng quan hệ giao tiếp lại thể hiện sự bình đẳng [15.tr. 64].
Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 20/12/2010 có bài viết của tác giả Sơn Hà
với tựa đề "Kỹ năng giao tiếp mở ra cơ hội''. Qua bài viết, tác giả Sơn Hà
muốn nêu lên thực trạng nhiều sĩ quan trẻ học tập rèn luyện tốt nhưng những
sĩ quan trẻ này lại có hạn chế là chưa thực sự tự tin trong giao tiếp. Cũng
trong số báo này có ý kiến của tác giả Đinh Thị Thủy Bình về vấn đề:"Văn hóa
chào hỏi nét đẹp của người Quân nhân''. Tác giả cho rằng: Trong môi trường
quân đội, việc chào hỏi giữa các quân nhân không chỉ là thực hiện Điều lệnh
mà còn thể hiện tinh thần đồng chí , đồng đội, sự tôn trọng lẫn nhau, đồng
thời là nét đẹp văn hóa của người quân nhân cách mạng. Chào hỏi như thế nào
để vừa đúng Điều lệnh, vừa có văn hóa, đòi hỏi mỗi quân nhân phải có ý thức,
hiểu biết và hình thành cho mình thói quen. Nguyên tắc chung của việc chào
hỏi là: “Quân nhân gặp nhau phải chào, cấp dưới phải chào cấp trên trước,
người được chào phải chào đáp lễ....”( Sơn Hà (2010), Kỹ năng giao tiếp mở
ra cơ hội, báo Quân đội Nhân dân).Tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên với đề
tài:“Đặc điểm ngôn ngữ của người lính cụ Hồ thời kì chống Pháp, từ góc độ
vai giao tiếp” đã nhận định về vai giao tiếp của người lính cụ Hồ thời kì
chống Pháp có đặc điểm: “ Trong giao tiếp các cá nhân tự hình thành vai
giao tiếp từ việc xác lập quan hệ vai giao tiếp ứng với đối tượng và phù hợp
với: hoàn cảnh giao tiếp, chủ đề giao tiếp, mục đích giao tiếp,…Vai giao tiếp
đóng vai trò quan trọng, quyết định việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ. Môi
trường quân đội là môi trường sinh hoạt đặc thù với hai đặc trưng tiêu biểu:
Sự áp đặt các quy định có tính pháp quy và sự tự do trong sinh hoạt cá
nhân….” [ 4. tr. 55 ]. Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến ngôn
15


ngữ của người lính như một công cụ, thủ pháp nghệ thuật nhằm đạt mục đích

nghiên cứu riêng.
Ngôn ngữ giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam được nhìn nhận
như là những cái vốn có trong các bình diện nội dung và bình diện biểu hiện
(hình thức) của các thông điệp bằng ngôn ngữ giảng viên (GV) và học viên
(HV), bác sĩ (BS) với bệnh nhân (BN), nhân viên (NV) ngân hàng với khách
hàng (KH) trao đổi với nhau bằng lời nói hướng đến mục đích cả hai cùng
quan tâm. Có thể nói rằng đề tài nay đến nay vẫn khá mới mẻ đó là mục tiêu
có thể tìm hiểu nghiên cứu.
Như vậy có thể nói rằng các công trình nghiên cứu trên mặc dù tiếp cận
vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau nhưng là những nguồn tài liệu quý
báu.Thông qua các tài liệu đó tác giả luận án có thể tham khảo phương pháp
tiếp cận, biện pháp trình bày diễn giải vấn đề, cách thức tiếp cận những tri
thức lý luận chung nhất vấn đề được nghiên cứu, qua đó, tạo cơ sở cho việc
đề xuất và thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả giao tiếp trong thực tiễn
Quân đội Nhân dân Việt Nam.
1.2.Cơ sở lý thuyết
Đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học là các điều kiện của việc sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Cơ cấu và phạm vi của các điều kiện ấy là rất
rộng. Nó bao gồm các yếu tố ngoài ngôn ngữ liên quan đến giao tiếp: từ
những nội dung khái quát như hệ thống tri thức chung, hành động xã hội,…
cho đến các yếu tố như tình huống giao tiếp, tiền giả định, các yếu tố thuộc hệ
thống ký hiệu phi ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ,…). Theo Nguyễn Thiện Giáp,
“Ngữ dụng học nghiên cứu những cách thức con người dùng ngôn ngữ trong
hội thoại thực tế, tức là nghiên cứu ngữ cảnh đã giúp cho việc xác định một
phát ngôn nào đó là phù hợp hay không phù hợp, cũng như sự thay đổi ngữ
cảnh làm thay đổi nghĩa của câu như thế nào?… Giao tiếp ngôn ngữ là quá
trình tương tác lẫn nhau giữa người nói và người nghe, giữa lời nói này với
lời nói kia. Các phát ngôn lệ thuộc vào niềm tin và ý định của người nói, vào
16



sự chờ đợi, sự suy luận của người nghe, vào vốn hiểu biết chung giữa người
nói và người nghe”. [31. tr. 537, 538].
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp (Communication) là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một
cộng đồng để truyền đạt một thông tin nào đó. Xã hội loài người có thể giao
tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, trong đó phương tiện ngôn ngữ (bao
gồm cả ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết) là phương tiện quan trọng nhất. Giao
tiếp bằng ngôn ngữ là đối tượng thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu với
những mối quan tâm khác nhau.Trong luận án trình bày những cách hiểu theo
quan điểm của Berge 1994 thì giao tiếp được hiểu theo một số cách như sau:
Thứ nhất: hiểu một cách đơn giản và chung nhất, giao tiếp được hiểu là
quá trình thông tin diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau,
gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định. Định nghĩa này sát với
việc con người thực hiện các cuộc trao đổi bằng lời trong đời sống thường
nhật, nên nó liên quan đến xã hội học và cũng tiện dụng trong nhà trường.
Trong định nghĩa này cần chú ý ba yếu tố sau đây:
- Giao tiếp là một “quá trình trao tin ít nhất là giữa hai người giao tiếp
(communicators) trao đổi với nhau”, không nhất thiết phải là hai “con
người” tách biệt nhau, nghĩa là có thể một người tự trao đổi tin với chính
mình. Tuy vậy, trường hợp một mình mình nói một mình mình nghe không
phải là phổ biến, nếu hiện tượng này xảy ra đều đặn ở một người, thì đó là
một hiện tượng bệnh lý (ví dụ, người đó có thể bị bệnh tâm thần).
- Ý “(hai người giao tiếp) trao đổi với nhau” dùng chỉ sự “cộng tác” của
phía người giao tiếp thứ hai, nếu người thứ hai không cộng tác thì giao tiếp
không thể diễn ra, người thứ nhất sẽ “bị bỏ rơi”.
- Sự giao tiếp bao giờ cũng “gắn với một tình huống và một ngữ cảnh nhất
định”. Ngữ cảnh là tất cả những gì ở bên ngoài quá trình trao tin đó (kể cả
hoàn cảnh không gian, thời gian) có quan hệ với quá trình đó, ngữ cảnh là nơi
cung cấp đề tài, nhân vật, điều kiện cho giao tiếp diễn ra, và qua đó mà quy

17


định cả cách thức tiến hành cuộc giao tiếp. Tình huống được hiểu là cái khung
sự việc chung thường lặp đi lặp lại có thể hình dung như một kịch bản cho sẵn
(như bữa cơm gia đình, tiết học ở giảng đường, giao tiếp giữa người mua với
người bán ở chợ, cuộc thoại khám chữa bệnh,…).
Như vậy, cả ba yếu tố “quá trình trao tin giữa hai người”, “hai người
giao tiếp trao đổi với nhau”, “gắn với một tình huống và ngữ cảnh” đều cần
thiết cho cuộc giao tiếp được thực hiện.
Thứ hai, với cách hiểu có tính chất chuyên môn, giao tiếp được định nghĩa
như một thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp được phát ra trong
những ngữ cảnh và tình huống khác nhau. (Thông điệp (message) trong ngôn
ngữ học được hiểu là tin được mã hóa thành lời nói hoặc lời viết, được truyền
đi từ người phát đến người nhận). Trong cách hiểu này, giao tiếp được coi
như tên gọi của tất cả các kết quả của hành động xã hội bằng ngôn ngữ, chưa
phân biệt được các mục đích cụ thể, xuất hiện trong những hoàn cảnh không
gian thời gian khác nhau và trong những tình huống xã hội khác nhau (như
trong bữa cơm gia đình, trong cuộc trò chuyện trên đường đi,…).
Thứ ba, trong ngôn ngữ học, giao tiếp đôi khi được dùng như là từ đồng
nghĩa hoặc phần nào đồng nghĩa với những thuật ngữ như lời nói (trong sự
đối lập với “ngôn ngữ”), cách dùng (trong sự đối lập với “lược đồ”), hành vi
(trong sự đối lập với “mã”), hành năng (Anh: performance, tức là “năng lực
hiểu biết”). Thông qua những tên gọi đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “giao
tiếp” này, thì giao tiếp được nhìn nhận như là những cái vốn có trong thông
điệp ngôn ngữ: qua bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình thức) của
thông điệp bằng ngôn ngữ, người ta có thể hiểu tình huống, ngữ cảnh, và bản
thân những người trao đổi lời với nhau tự thể hiện mình. Các định nghĩa giao
tiếp như thế này được coi là cách định nghĩa có tính chất trung hòa, có quan
tâm đến những truyền thống khác nhau trong ngôn ngữ học, chẳng hạn như

truyền thống phân biệt giữa một bên là “ngôn ngữ” hay “hệ thống” với bên
kia là “lời nói” hay “hành vi” (behavior) [dẫn theo1,tr.18,19 ].
18


Trong quá trình giao tiếp, ngôn ngữ thực hiện hai chức năng quan trọng
nhất là chức năng giao dịch và chức năng liên nhân.
Chức năng mà ngôn ngữ học được dùng trong việc diễn đạt kinh nghiệm,
tức diễn đạt các “nội dung sự việc”, các “mệnh đề” được gọi là chức năng
giao dịch (transactional function), còn được gọi là chức năng biểu thị, quy
chiếu, quan niệm hay miêu tả. Chức năng của ngôn ngữ dùng trong việc diễn
đạt các quan hệ xã hội và thái độ của cá nhân có tên gọi là chức năng liên
nhân (interpersonal funcition), còn gọi là chức năng tương tác hay bộc lộ,
biểu cảm hay bộc lộ-xã hội. Sự phân biệt giữa hai chức năng này không loại
trừ nhau, tức là trong một phát ngôn (hoặc một văn bản). Cùng tồn tại hai
chức năng này.
Hội thoại giao tiếp thường nhật, ngôn ngữ được sử dụng trước hết với đặc
trưng của chức năng liên nhân. Việc sử dụng các phương tiện biểu thị tình
thái trong quá trình giao tiếp thể hiện chức năng liên nhân một cách rõ ràng.
Ví dụ: Khi hai người gặp nhau tại bàn ăn một đám cưới (chị Y và chị A)
những lời mở đầu như (1): “Chị ở bên nào vậy?” hoặc giả (2): “Ôi dào, hôm
nay mát trời chị nhỉ!”. Xét trong ngữ cảnh giao tiếp này, những lời mở đầu 1,
2 của hai người phụ nữ không quen biết nhau nhưng cùng góp mặt tại bàn ăn
của đám cưới thì đó là những lời bắt chuyện, làm quen chứ không phải là
những lời trao tin cần thiết đến người nghe. Chức năng liên nhân trong trường
hợp này có thể hiểu qua các chi tiết: Trước hết, là việc dùng đại từ nhân xưng
“chị” và cách diễn đạt của cả câu (không có những từ thưa gửi như khi nói
với người lớn tuổi để hỏi xem người ngồi cạnh mình là khách nhà trai hay nhà
gái). Người nói muốn đưa ra “sự thương lượng” về quan hệ vai với người
nghe, sự thương lượng về chiến lược giao tiếp “thân hữu”, “bằng vai”.

Sau mỗi phát ngôn có điểm kết thúc rõ rệt báo hiệu điểm cuối của lượt lời
người nói thứ nhất, để ngỏ lượt lời cho người nói thứ hai, đó là sự phân bố
lượt lời (tôi đã nói xong, đến lượt chị nói).

19


Tiếp đến, tính lịch sự trong lời diễn đạt cho thấy người nói có ý thức giữ
gìn thể diện cho người nghe và qua đó chứng tỏ rằng mình là người có văn
hóa giao tiếp, cũng có nghĩa là giữ thể diện cho chính mình. Thông qua bối
cảnh giao tiếp như trên, đối với câu hỏi (1) thì người trả lời cũng không nhất
thiết phải trả lời cụ thể và trực tiếp câu hỏi của người hỏi. Đối với câu (2),
người nói dùng quán ngữ “Ôi dào” nhằm bộc lộ cảm xúc của mình với hiện
tượng thời tiết nêu lên trong phát ngôn. Với sự xuất hiện của tiểu từ “nhỉ” ở
cuối câu, người nói mong muốn câu trả lời của người nghe đồng tình với
mình có nghĩa là người nói tìm kiếm sự đồng tình từ phía người nghe.
Giao tiếp xã hội, thuật ngữ “năng lực giao tiếp” (communicative competence),
theo quan điểm của Canale và Swain (1980) gồm bốn yếu tố cụ thể:
- Năng lực ngữ pháp (grammar competence): là tri thức về hệ thống các
quy tắc ngữ pháp, cú pháp, từ vựng và ngữ âm. Năng lực này giúp người học
ngôn ngữ có thể nắm vững cấu trúc và khả năng diễn đạt.
- Năng lực xã hội (sociolinguistic competence): là tri thức cần thiết giúp
cho việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp với ngôn cảnh, chủ đề và cả mối quan hệ
xã hội. Khả năng chọn lựa sử dụng từ tình thái làm sao phù hợp ngữ cảnh và
đối tượng giao tiếp.
- Năng lực diễn ngôn (discourse competence) là khả năng liên kết các ý
tưởng một cách logic, mạch lạc, thống nhất và cách dùng từ liên kết lời nói
hợp lý.
- Năng lực chiến lược (strategic competence): khả năng sử dụng các chiến
lược giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, nhận diện và giải quyết các tình

huống hiểu nhầm, phản ứng, bác bỏ, chất vấn,… Còn theo quan điểm của tác
giả Sauvignon (1997) thì “ năng lực giao tiếp là khả năng chọn đúng ý nghĩa,
khả năng kết hợp thành công kiến thức ngôn ngữ học và những quy tắc ngôn
ngữ học xã hội trong tương tác giao tiếp. Năng lực giao tiếp đề cập đến năng
lực ngữ pháp trên cấp độ câu, thể hiện sự tương tác xã hội giữa một người
nói và nhiều người nghe trong tình huống thực như việc giải thích, diễn đạt
20


và chọn ý nghĩa theo nhiều cách khác nhau”. Thuật ngữ năng lực giao tiếp
của Sauvignon được xem là linh hồn để rèn luyện kỹ năng giao tiếp của người
nói với việc người nói sử dụng các quy tắc ngôn ngữ như thế nào trong giao
tiếp để nâng cao khả năng diễn đạt, phản xạ về ứng xử giao tiếp trong đời
sống xã hội.
Căn cứ theo những cách hiểu vừa trình bày trên, thì ngôn ngữ giao tiếp
trong một số hoàn cảnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam không phải là
“ngôn ngữ trao đổi bằng lời trong cuộc sống thường nhật” cho tất cả các
hành động ngôn ngữ trong xã hội. Mặt khác, nội dung thông tin giao tiếp
trong một số hoàn cảnh giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam không
hoàn toàn là “một cái gì đó” mà người nhận chưa biết.
Với quan niệm như trên, trong luận án này có thể tạm thời đưa ra một
định nghĩa để làm việc về khái niệm giao tiếp như sau: “Giao tiếp được hiểu
là sự trao đổi thông tin qua lại bằng lời nói giữa ít nhất hai người với những
thông điệp bằng ngôn ngữ trong một ngữ cảnh nhất định”. Nhờ có giao tiếp
bằng ngôn ngữ mà con người có thể thuận lợi trao đổi thông tin, bày tỏ quan
điểm, cảm xúc, thiết lập hoặc gỡ bỏ những sợi dây liên hệ tình cảm.
Nói cụ thể hơn về giao tiếp ở môi trường quân đội, chúng ta cần thấy
rằng sự trao đổi thông tin qua lại giữa cán bộ, nhân viên với đối tượng giao
tiếp như học viên, bệnh nhân, khách hàng có những nét khác biệt hơn với giao
tiếp thông thường như: ngôn ngữ có tính điều lệnh hóa cao hơn, quy trình bài

bản hơn, ngôn từ lựa chọn chuẩn mực hơn,...
1.2.2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ
1.2.2.1. Hành vi ngôn ngữ theo quan điểm của Austin
Năm 1955, Austin – nhà Triết học người Anh đã trình bày 12 chuyên đề tại
Đại học tổng hợp Harvard. Những chuyên đề này đã được tập hợp lại và xuất
bản thành sách với nhan đề How to do things with words (những hành động
ngôn từ - trong Luận án dùng thuật ngữ hành vi ngôn ngữ) vào năm 1962.

21


×