Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Chính sách đông nam á của hoa kỳ trong nhiệm kỳ tổng thống donald trump

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

Đỗ Mạnh Tú

CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA HOA KỲ
TRONG NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG DONALD TRUMP

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

Đỗ Mạnh Tú

CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA HOA KỲ
TRONG NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG DONALD TRUMP

Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TSKH. Trần Hiệp

Hà Nội - 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ “Chính sách Đông Nam Á
của Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Những số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực được chỉ rõ
nguồn trích dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào từ trước đến nay.
Hà Nội, tháng 6 năm 2020
Học viên thực hiện

Đỗ Mạnh Tú


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi xin trân thành cảm ơn các thầy,
cô giáo Khoa Quốc tế học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy
hướng dẫn TSKH Trần Hiệp đã luôn tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động
viên để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, người thân, bạn bè đã tạo điều
kiện giúp đỡ, góp ý, động viên trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2020
Học viên thực hiện
Đỗ Mạnh Tú


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á

9

CỦA CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG DONALD TRUMP

1.1. Bối cảnh tình hình thế giới, Đông Nam Á

9

1.2. Tình hình nước Mỹ

21

1.3. Vai trò cá nhân Donald Trump

27

Chương 2. NỘI DUNG VÀ SỰ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM

36

Á CỦA CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG DONALD TRUMP


2.1. Nội dung chính sách Đông Nam Á của chính quyền

36

tổng thống Donald Trump
2.2. Sự triển khai chính sách Đông Nam Á của chính quyền

45

tổng thống Donald Trump
2.3. Chính sách của chính quyền tổng thống Donald Trump đối

59

với Việt Nam
Chương 3. TÁC ĐỘNG, TRIỂN VỌNG VÀ KIẾN NGHỊ

74

3.1. Tác động

74

3.2. Triển vọng

78

3.3. Kiến nghị cho Việt Nam

82


KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

89

PHỤ LỤC

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
I. VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
CA-TBD

Châu Á - Thái Bình Dương

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

ĐNA


Đông Nam Á

KHCN

Khoa học công nghệ

LHQ

Liên Hợp Quốc

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

II. VIẾT TẮT TIẾNG ANH
AFTA

ASEAN Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN

APEC

Asia - Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương

ASEAN


Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ARF

ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN

BRI

Belt and Road Initiative
Sáng kiến Vành đai và Con đường

CPTPP

Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific
Partnership
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

FOIP

Free and Open Indo-PacificStrategy
Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở

NSS

National Security Strategy
Chiến lược An ninh Quốc gia


TPP

Trans-Pacific Partnership Agreement
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

USAID

United States Agency for International Development
Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ

2


MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đông Nam Á là khu vực có giá trị chiến lược cực kỳ quan trọng trong
chiến lược bành trướng của các nước lớn. Lịch sử hàng ngàn năm qua minh
chứng, dưới thời Phong kiến, các nước ĐNA là đối tượng bành trướng đô hộ
của thế lực Đại Hán, và là địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa thế lực Đại Hán
từ phía Bắc và thế lực Đại Ấn từ phía Tây. Đến thời Cận đại, các nước ĐNA
là đối tượng xâm lược và nô dịch của Thực dân cũ phương Tây, trong Chiến
tranh Thế giới lần thứ 2, ĐNA lại bị phát-xít Nhật xâm lược. Thời kỳ Chiến
tranh Lạnh, ĐNA là địa bàn cạnh tranh chiến lược khốc liệt giữa hai hệ thống,
đại diện là hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô. Ngày nay, do phát triển nhanh
và năng động, CA-TBD có thể sẽ vượt qua khu vực Âu - Mỹ, trở thành “trung
tâm kinh tế - chính trị toàn cầu”, khiến ĐNA sẽ càng đặc biệt quan trọng.
ĐNA đã, đang và sẽ là một trong những tâm điểm cạnh tranh chiến lược phức
tạp nhất giữa các cường quốc cũ và các cường quốc mới nổi.
Giành độc lập từ thực dân Tây Âu qua hơn 200 năm, Hoa Kỳ đã dần trở

thành siêu cường và hiện siêu cường duy nhất. Trong quá trình đó, nhất là từ
khi xâm lược Philippines năm 1895 đến nay, bằng nhiều thủ đoạn (kể cả chiến
tranh) nước Hoa Kỳ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ “lãnh đạo” ĐNA.
Sau Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, xâm nhập khu
vực ĐNA bằng quân sự và “sức mạnh mềm” - kinh tế, văn hóa; ĐNA có thể
rơi vào vòng “ảnh hưởng truyền thống” của Trung Quốc, đe dọa đến vai trò
lãnh đạo của Hoa Kỳ tại ĐNA và thế giới.
Tình thế đó khiến Hoa Kỳ phải điều chỉnh chiến lược, chuyển dần trọng
tâm chiến lược toàn cầu sang khu vực CA-TBD, coi Trung Quốc là “đối thủ
cạnh tranh” thay vì đối tác như trước. Dưới chính quyền Tổng thống Barak
3


Obama, Hoa Kỳ thúc đẩy “Trở lại châu Á”, “Xoay trục” hay “Tái cân bằng”
khu vực CA-TBD bằng nhiều thủ đoạn, trọng tâm là quân sự. Chính sách đó
của Hoa Kỳ đã và đang tác động phức tạp đến tình hình khu vực ĐNA nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Với cương lĩnh vận động tranh “Đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại” và quan
điểm “Nước Mỹ trên hết”, sau khi đắc cử, Tổng thống Donald Trump thực
hiện sự điều chỉnh chính sách đối với khu vực ĐNA nhằm bảo đảm lợi ích
của Hoa Kỳ, giữ vững sự can dự, “lãnh đạo” đối với ĐNA.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Chính sách Đông Nam Á của Hoa Kỳ
trong nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump” là hết sức cấp thiết và có ý
nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm nắm được nội dung, bản chất
chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực ĐNA, tác động của nó đối với Việt
Nam và kiến nghị đối sách góp phần cho quá trình hoạch định chính sách đối
ngoại của Việt Nam với Hoa Kỳ.
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học
Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực

ĐNA và tác động của nó đối với Việt Nam trong thời kỳ cầm quyền của Tổng
thống Donald Trump thông qua áp dụng các hệ thống lý thuyết và các phương
pháp nghiên cứu về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với
các tổ chức, cá nhân quan tâm về chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực
ĐNA, các vấn đề về chính sách đối ngoại, quan hệ quốc tế.
Kiến nghị đối sách góp phần hoạch định chính sách đối ngoại của Việt
Nam, chính sách phù hợp với các đối tác trong khu vực và đặc biệt là với Hoa
Kỳ - đối tác hàng đầu của Việt Nam trước những biến đổi nhanh chóng, phức
tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực.
4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoa Kỳ hiện là siêu cường số một thế giới, sự thay đổi hay điều chỉnh
chính sách của Hoa Kỳ luôn là sự kiện quan tâm hàng đầu đối với các nhà
hoạch định chính sách của các quốc gia. Chính sách ĐNA của Hoa Kỳ dưới
thời chính quyền Tổng thống Obama và Tổng thống Trump thu hút sự quan
tâm rộng rãi của các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia, học giả nghiên
cứu trong và ngoài nước.
Ở Việt Nam, đã có khá nhiều tài liệu viết về chính sách của Hoa Kỳ đối
với khu vực CA-TBD, ĐNA như: Lê Linh Lan (Chủ biên), (2004), Về chiến
lược an ninh của Mỹ hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Dương Phú
Hiệp và Vũ Văn Hà (chủ biên) (2006), Cục diện châu Á - Thái Bình Dương,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Thị Vinh (2012), Đông Nam Á trong
chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ (từ sau Chiến tranh Thế giới
thứ hai đến năm 2011), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 01(142); Chúc
Bá Tuyên (2015), Nhìn lại 20 năm quan hệ Việt - Mỹ: Thành tựu và một số
vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế; Viện Châu Mỹ

(2016), Donald Trump - Sự lựa chọn lịch sử của nước Mỹ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Đỗ Thanh Hải, Nguyễn Thị Linh (2017), Triển vọng của
ASEAN 2025, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế; Nguyễn Vũ Tùng (2017), Một vài
nhận xét về chính sách của Tổng thống Donald Trump đối với khu vực châu Á
- Thái Bình Dương, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay; Phạm Thị Yên (2017), Quan
hệ Việt - Mỹ thời kỳ chính quyền Donald Trump: Vấn đề và triển vọng, Tạp
chí Châu Mỹ ngày nay; Cù Chí Lợi (2017), Chuyến thăm định hình quan hệ
Việt - Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay; Vũ Thị Hưng (2017), Nhìn lại sự kiện
nâng cấp quan hệ Mỹ - ASEAN lên tầm đối tác chiến lược, Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay; Lê Lan Anh (2017), Hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ hiện
nay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay; Đinh Công Tuấn (2017), Những thay đổi
chiến lược “Xoay trục châu Á - Thái Bình Dương” của Mỹ trong thời gian tới
5


và cách ứng phó của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế; Lê Thị Thu
(2018), Một số vấn đề chính trị Mỹ trong năm cầm quyền đầu tiên của Tổng
thống Donald Trump, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay; Lò Thị Phương Nhung,
Nguyễn Đức Hùng (2018), Sự hình thành chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương tự do và rộng mở và những tác động của nó tới ASEAN, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay; Đặng Cẩm Tú (2018), Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2017 và
chiều hướng quan hệ Mỹ - Trung thời gian tới, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế;
Nguyễn Thu Phương (2019), Nhìn lại chiến lược châu Á - Thái Bình Dương
của Hoa Kỳ thời kỳ Tổng thống Obama, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay; Đặng
Trung Dũng (2019), Nhìn lại chính sách xoay trục dưới thời cựu Tổng thống
Obama và những điều chỉnh hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế; Vũ Duy
Thành (2019), Biển Đông trong quan hệ Trung - Mỹ; Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế; Lê Hải Bình (2019), Về vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đang định hình, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế;
Nguyễn Trịnh Quỳnh Mai - Trần Đặng Tú Nhi (2019), Chiến lược Ấn Độ

Dương - Thái Bình Dương: Nội hàm và phương pháp tiếp cận của Mỹ, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay; Bùi Xuân Anh (2019), Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương của Mỹ dưới góc nhìn an ninh và kinh tế, Tạp chí Quan hệ Quốc
phòng…; Các thông tin đăng trên các bản tin của Thông Tấn xã Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân, các báo trong
nước, các tin trên các báo điện tử của các Bộ, ngành, địa phương…
Chính sách của Hoa Kỳ đối với ĐNA cũng là một đề tài thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều tác giả như: Nguyễn Thu Thủy (2007), Luận văn
thạc sỹ “Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu
thế kỷ XXI”; Nguyễn Thị Huế (2016), Luận văn thạc sỹ “Sự điều chỉnh chiến
lược Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời Obama”; Phạm Hoàng Tú
Linh (2016), Luận án tiến sỹ “Chính sách đối với Đông Nam Á của chính
quyền Tổng thống Barak Obama (2009-2016)”…
6


Ở nước ngoài, tư liệu, bài viết, công trình nghiên cứu về chính sách đối
với ĐNA của Hoa Kỳ trong thời kỳ của Tổng thống Obama và Tổng thống
Trump được công bố rất phong phú, đa dạng. Tiêu biểu là cuốn sách “Barack
Obama's Foreign Policy” của các tác giả Martin S.Indyk, Kenneth
G.Lieberthal và Michael E.O'Hanlon, Nxb Bending History phát hành ngày
3/2/2012, các tác giả đã đưa ra những nhận định quan trọng về chính sách đối
ngoại của Tổng thống B.Obama trong nhiệm kỳ; Năm 2013, nhóm tác giả
Robert

G.Sutter,

Michael

E.Brown,


Timothy

J.A.Adamson,

Mike

M.Mochizuki và Deepa Ollapally thuộc Trường Đại học George Washington
viết cuốn sách “Balancing Acts: The U.S. Rebalance and Asia - Pacific
Stability”, đã phân tích chính sách “tái cân bằng” sang khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương của chính quyền Tổng thống B.Obama; Năm 2016, hai tác giả
Dick Morris và Eileen McGann viết cuốn sách “Armageddon. How Trump
can beat Hillarry”, Nxb Humanix Books, đã phân tích và nhận định rằng,
Donald Trump có nhiều lợi thế hơn so với Hillarry, khẳng định Donald
Trump sẽ thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ lần thứ 45.
Mặc dù có khá nhiều các bài viết, tài liệu, sách tham khảo đề cập đến
nội dung của luận văn, tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện
nào về chính sách của chính quyền Tổng thống Trump đối với ĐNA và những
tác động của nó đến Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích làm rõ chính sách ĐNA của Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ Tổng
thống Donald Trump và đề xuất kiến nghị đối với Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách của Hoa Kỳ đối với
khu vực ĐNA trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump.
7


4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung và thực thi chính sách của Hoa
Kỳ trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hóa, an ninh - chính trị đối với
khu vực ĐNA trong thời gian Tổng thống Donald Trump nắm quyền lãnh đạo
nước Mỹ (từ năm 2017 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận mác-xít, để hoàn thành luận văn, tác giả
sử dụng các phương pháp nghiên cứu: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp,
phân tích văn bản, đối chiếu - so sánh, hệ thống cấu trúc, phương pháp phân
tích chính sách.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách Đông Nam Á của chính
quyền Tổng thống Donald Trump
Trình bày khái quát bối cảnh tình hình thế giới, ĐNA và vai trò cá nhân
Donald Trump có ảnh hưỏng đến hình thành chính sách ĐNA của Hoa Kỳ.
Chương 2: Nội dung và sự triển khai chính sách Đông Nam Á của
chính quyền Tổng thống Donald Trump
Tập trung phân tích, luận giải, làm rõ bản chất nội dung và sự triển khai
chính sách của Hoa Kỳ đối với ĐNA, Việt Nam của chính quyền Tổng thống
Donald Trump.
Chương 3: Tác động, triển vọng và kiến nghị
Làm rõ những tác động, dự báo triển vọng chính sách của chính quyền
Tổng thống Donald Trump đối với khu vực ĐNA, Việt Nam trong thời gian
tới và đề xuất bốn kiến nghị cho Việt Nam.

8


Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á

CỦA CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG DONALD TRUMP
1.1. Bối cảnh tình hình thế giới, Đông Nam Á
1.1.1. Tình hình thế giới
Từ bối cảnh tình hình thế giới và khu vực Đông Nam Á, nổi lên những
đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, tình hình chính trị trên thế giới có sự thay đổi lớn
Sự sụp đổ hệ thống XHCN trên thế giới
Hệ thống XHCN không còn, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
gặp khó khăn lớn. Đó không phải là thất bại bắt nguồn từ học thuyết Mác Lê-nin mà chủ yếu là do sai lầm trong việc vận dụng học thuyết đó cộng với
sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc thông qua chiến lược “Diễn biến hòa
bình” (DBHB).
Chiến tranh Lạnh kết thúc
Chiến tranh Lạnh kết thúc nhưng nền hòa bình thế giới lại đứng trước
thách thức lớn. Đó là những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, các thế lực khủng bố quốc tế gây ra các cuộc khủng bố đẫm máu. Thế
giới hiện nay đang diễn ra hai khuynh hướng tưởng như mâu thuẫn nhau
nhưng lại thống nhất trong một chỉnh thể, đó là: đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp diễn ra gay gắt, phức tạp; Vừa hợp tác vừa đấu tranh, luôn phải
cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa - xu
thế chủ đạo của tình hình thế giới hiện nay.
Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để phát triển
Trong tình hình hiện nay, các nước TBCN sử dụng ngày càng tốt hơn,
nhanh hơn các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng
thời với quá trình đó, CNTB vẫn tiếp tục có những khó khăn do không thể
khắc phục được những mâu thuẫn vốn có trước đây.
9


Thế giới chuyển từ đơn cực sang đa cực
Cuộc tranh giành quyền lực, địa vị trên bàn cờ quốc tế diễn ra quyết

liệt. Hoa Kỳ đang có nhiều ưu thế, nhưng trật tự thế giới đơn cực do Hoa
Kỳ lãnh đạo chưa hình thành. Hoa kỳ không đủ sức lấp tất cả các khoảng
trống quyền lực do trật tự thế giới cũ để lại. Trung Quốc phát triển nhanh,
vươn lên thách thức vị trí siêu cường số 1 của Hoa Kỳ. Liên minh Châu
Âu, Nhật Bản, Nga đều phát triển mạnh; trật tự thế giới đa cực, đa trung
tâm dần hình thành.
Thứ hai, tình hình thế giới, khu vực đang tiếp tục có những diễn biến
phức tạp, khó lường
Cộng đồng quốc tế đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách,
như bảo vệ môi trường sinh thái, đấu tranh bảo vệ hòa bình, hạn chế bùng nổ
dân số, giải quyết đói nghèo, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm
nghèo. Những vấn đề này không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết
được, phải có sự hợp tác đa phương của mọi quốc gia dân tộc. Mặt khác, cũng
phải có vai trò của Liên hợp quốc (LHQ) [74, tr.5-6].
Trong khi các cuộc “Cách mạng màu” đã gây ra biến động chính trị, lật
đổ chính quyền tại một số nước ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi thì chủ nghĩa
khủng bố, điển hình là tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng vẫn đang duy
trì hoạt động tại Iraq, Syria và một số nước khác, gây ra những bất ổn và biến
động chính trị, an ninh tại nhiều nước. Các tổ chức khủng bố mở rộng địa bàn
hoạt động sang Châu Âu, Châu Á gây mất an ninh, an toàn xã hội. Những vấn
đề nóng bỏng mang tính toàn cầu từ biến đổi khí hậu; sự cạn kiệt nguồn lực,
những dịch bệnh, đói nghèo, khủng hoảng kinh tế; chủ nghĩa khủng bố quốc
tế, nạn buôn người, tội phạm xuyên biên giới; phổ biến vũ khí hủy diệt; thảm
họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái; tiếng bom rơi, đạn nổ vẫn đang
gây ra những cảnh chết chóc thảm khốc ở nhiều nơi trên thế giới.
10


Thứ ba, sự chuyển biến to lớn về mặt kinh tế dưới tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

Cách mạng khoa học - công nghệ (KHCN) hiện đại phát triển mạnh mẽ
với nội dung cơ bản là cách mạng công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu
mới và sinh học… Cách mạng KHCN đang diễn ra như một cơn lốc trên thế
giới. Ý nghĩa sâu sắc về mặt biến đổi kinh tế là vai trò ngày càng tăng của
kinh tế đối với đời sống xã hội, ở mục tiêu phát triển kinh tế của mọi quốc
gia, ở tỷ trọng ngày càng tăng của yếu tố kinh tế trong quan hệ quốc tế hiện
đại. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trí tuệ con người
đang đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế. Xu hướng nhất thể hóa
nền kinh tế thế giới còn biểu hiện ở vai trò ngày càng tăng của các tổ chức
kinh tế quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Qũi Tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)…
như những tổ chức kinh tế toàn cầu, khu vực đồng thời ảnh hưởng ngày càng
tăng của các công ty đa quốc gia…
Cuộc cách mạng KHCN trong giai đoạn hiện nay có những bước nhảy
vọt trong nhiều lĩnh vực, hướng nhân loại bước vào nền văn minh trí tuệ với
hai đặc trưng cơ bản là “xã hội thông tin” và “kinh tế tri thức”. Trên con
đường phát triển của các quốc gia - dân tộc, cuộc cách mạng KHCN đã và
đang tạo ra sự liên kết, hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp
độ (khu vực, toàn cầu, song phương, đa phương).
Thứ tư, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay
Một là, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển
Sau khi chiến tranh kết thúc, các nước trên thế giới đều mong muốn
duy trì một môi trường quốc tế hòa bình và tăng cường hợp tác quốc tế để
phát triển kinh tế. Hợp tác là con đường và phương thức đạt tới hòa bình và
phát triển. Khả năng chiến tranh thế giới khó có thể xảy ra. Hòa bình và phát
triển là vấn đề trung tâm của thời đại và là một nội dung cốt lõi của chiến lược
11


của tất cả các nước trên thế giới, nhằm tiếp tục đẩy lùi chiến tranh, thiết lập

một thế giới hòa bình, giàu mạnh, dân chủ và văn minh.
Năm 2016, Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn” [17, tr.70].
Hai là, xu thế dân chủ hóa
Trong nền chính trị thế giới, dân chủ hóa được thể hiện ở sự gia tăng
số lượng các quốc gia tham gia vào giải quyết các vấn đề quốc tế trên cơ sở
tự do hóa nền kinh tế; thừa nhận quyền con người, các quyền tự do, dân chủ
của công dân; xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ trong nước. Quá
trình dân chủ hoá ở các nước hiện nay đều nhằm vào mục đích chủ yếu là
hiện thực hóa các quyền con người, quyền công dân thông qua các cuộc bầu
cử dân chủ để thiết lập bộ máy nhà nước. Xu hướng dân chủ hóa phản ánh
sự phát triển, tiến bộ của xã hội đương đại, song cần phân biệt dân chủ hóa
với việc lợi dụng cái gọi là dân chủ, nhân quyền của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động nhằm can thiệp vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
các quốc gia, gây mất ổn định chính trị - xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến đời
sống của nhân dân.
Ba là, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực, đang bị các quốc gia phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc
gia chi phối. Song hành với xu thế toàn cầu hóa là xu thế khu vực hóa. Nhiều
tổ chức khu vực tiếp tục được mở rộng, đổi mới đáp ứng yêu cầu hợp tác và
phát triển. Liên minh Châu Âu (EU) ra đời thúc đẩy tiến trình khu vực hoá
Châu Âu lên tầm cao mới. Ở CA-TBD, tiến trình tự do hoá thương mại của
Diễn đàn Hợp tác kinh tế CA-TBD (APEC) tiếp tục phát triển. Liên kết tiểu
khu vực cũng được thúc đẩy thông qua Hiệp hội các quốc gia ĐNA
(ASEAN), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) của ĐNA, Hiệp định
Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) của Bắc Mỹ… [46, tr. 268-271].
12



Bốn là, xu thế chống khủng bố và chống áp đặt cường quyền quốc tế
tiếp tục phát triển
Thế lực khủng bố quốc tế trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với
hòa bình thế giới và ổn định khu vực (sự kiện 11/9/2001 ở Hoa Kỳ; các vụ
đánh bom ở Madrid - Tây Ban Nha tháng 4/2004, ở Bali - Indonesia tháng
5/2005; các vụ bắt cóc con tin ở Dagextan, ở Nhà hát lớn Mát-xcơ-va, ở
Beslan - Nga năm 2002 và 2004, ở Luân Đôn - Anh năm 2005; hàng loạt vụ
đánh bom ở Iraq…). Phòng, chống khủng bố quốc tế trở thành nhiệm vụ cấp
bách của nhiều nước trên thế giới. Các quốc gia đều coi chủ nghĩa khủng bố
quốc tế là mối đe dọa đối với nền hòa bình, an ninh và phát triển của mình
và ra sức đoàn kết, phối hợp với các quốc gia khác nhằm loại trừ mối đe doạ
đó, đồng thời chống lại mưu toan của các thế lực đế quốc hiếu chiến lợi
dụng đấu tranh chống khủng bố để thực hiện chính sách cường quyền, áp đặt
tư tưởng, giá trị dân chủ và mô hình hệ thống chính trị của mình lên các dân
tộc khác.
Năm là, xu thế khôi phục và phát triển phong trào xã hội chủ nghĩa
Với thành tựu của Trung Quốc, Việt Nam và các nước XHCN khác có
thể nói rằng, CNXH hiện thực đang dần thoát ra khỏi thế bế tắc cả về lý
luận, thực tiễn và trở lại phát triển. Trong tương lai, Trung Quốc trở thành
một nước công nghiệp phát triển, Việt Nam có bước phát triển mạnh, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phục hồi có bước phát triển mới. Năm
1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” [16, tr. 314].

13



1.1.2. Tình hình Đông Nam Á
* Những nét chính
ĐNA là khu vực nằm ở phía Đông Nam Châu Á, bao gồm các nước
nằm ở phía nam Trung Quốc, phía đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc, phía
Tây Papua New Guinea. ĐNA bao gồm 11 quốc gia, với diện tích rộng
4.494.047 km², chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích đất trên Trái
Đất. Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một phần tại bán cầu Nam.
Dân số ĐNA có 668.143.369 người (số liệu tháng 6/2020); GDP đạt 2.557
nghìn tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 4.018 USD (số liệu năm 2014).
Đông Nam Á có các biển, vịnh biển ăn sâu vào đất liền, tạo điều kiện
cho các luồng di dân giữa đất liền và các đảo, cho sự giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia, các dân tộc. Người ĐNA có nhiều nét tương đồng trong sinh
hoạt, sản xuất, như cùng trồng lúa nước, dùng trâu bò làm sức kéo, dùng gạo
làm nguồn lương thực chính... Tuy vậy, mỗi nước vẫn có những phong tục,
tập quán, tín ngưỡng riêng, tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của cả khu vực.
Vị trí chiến lược quan trọng là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương với nguồn tài nguyên giàu có của ĐNA đã thu hút sự chú ý của các
nước đế quốc. Cho tới trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, ba nước Cam-puchia, Lào và Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm; Myanmar, Malaysia trở
thành thuộc địa của Anh; Indonesia là thuộc địa của Hà Lan; Philippines
bị Tây Ban Nha và sau đó Hoa Kỳ chiếm đóng. Ngoại lệ, Thái Lan giữ được
nền độc lập nhưng lệ thuộc các nước phương Tây nhiều mặt.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, hầu hết các nước ĐNA bị phát xít
Nhật xâm chiếm. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nước đã lần lượt giành
được độc lập. Hiện nay, đa số các quốc gia trong khu vực theo chế độ cộng
hòa, bên cạnh đó là một số quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến. Các
nước trong khu vực đều mong muốn hợp tác phát triển.
14


Các nước ĐNA đề cao lợi ích quốc gia, linh hoạt và thích ứng cao trong

cách thức tiếp cận, xử lý quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Các quốc gia
ĐNA ít công khai phản đối, tìm cách tránh bàn luận về các hệ lụy tiêu cực từ
chiến lược của Hoa Kỳ hay Trung Quốc đối với khu vực ĐNA; họ căn cứ vào
chính sách của mình để tìm kiếm, khai thác những nội hàm có tính tương trợ
từ chiến lược của hai nước lớn này, trên cơ sở vì lợi ích quốc gia.
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là một chiến lược đầy tham
vọng của Trung Quốc nhằm kết nối, phát triển hạ tầng, kinh tế khu vực và thế
giới thông qua hai kế hoạch thành phần, gồm “Vành đai kinh tế Con đường tơ
lụa trên bộ” và “Con đường tơ lụa trên biển”. Đối với BRI, các nước ĐNA cơ
bản đều chủ động, tích cực ủng hộ, hưởng ứng, hỗ trợ Trung Quốc triển khai
chiến lược theo hướng tận dụng triệt để lợi thế chiến lược của mình và khu
vực. Tuy nhiên, các nước vẫn có tư tưởng lo ngại, đề phòng Trung Quốc. Cụ
thể: (1) Tích cực hưởng ứng, chủ động mở rộng hành lang pháp lý theo hướng
thúc đẩy của Trung Quốc; linh hoạt trong việc gắn kết các chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia với chiến lược của Trung Quốc. (2) Đẩy mạnh kết nối
cơ sở hạ tầng (đường bộ, đường sắt và đường biển) theo khuôn khổ Hành lang
kinh tế bán đảo Đông Dương và kết nối các cảng biển theo chủ trương của
Trung Quốc về xây dựng Liên minh cảng biển ĐNA - Trung Quốc; xây dựng
cơ sở dữ liệu chung của ĐNA với Trung Quốc. (3) Bước đầu triển khai kết
nối tài chính bằng cách phát triển mạng lưới tổ chức và dịch vụ tài chính.
Hoạt động giao dịch thanh khoản bằng đồng Nhân dân tệ ngày càng phổ biến
tại khu vực. (4) Tuy nhiên, để tránh nguy cơ rơi vào “bẫy nợ” của Trung
Quốc, các nước ĐNA đã rà soát các dự án hợp tác trong BRI và một số nước
đã điều chỉnh chính sách về tham gia BRI.
Đối với Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở
rộng” (FOIP) của Hoa Kỳ (do Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đưa ra tại
Đối thoại an ninh 4 bên hay còn gọi là Bộ tứ gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ
15



và Úc, được khôi phục vào cuối năm 2017), dù vẫn trong giai đoạn thăm dò
phản ứng và nghiên cứu, tìm hiểu nội hàm của chiến lược này và còn có sự
khác biệt trong cách tiếp cận, nhưng các nước ĐNA cơ bản đều trực tiếp hoặc
gián tiếp bày tỏ thái độ hoan nghênh, ủng hộ. Một số nước ĐNA đã triệt để
tận dụng cơ hội phát huy vai trò của quốc gia đối với các vấn đề chiến lược
của Hoa Kỳ tại khu vực nhằm thu lợi về an ninh và ngoại giao.
Xu hướng điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước ĐNA đang tác
động trái chiều, đan xen lẫn nhau đến môi trường chiến lược khu vực. Một
mặt, xu hướng này góp phần tạo môi trường hòa hoãn, giảm căng thẳng trong
khu vực để các nước ĐNA có điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề nội bộ
và phát triển đất nước; củng cố thế cân bằng chiến lược tại khu vực; cũng như
mở rộng không gian đối ngoại cho ĐNA và từng nước thành viên. Mặt khác,
các nước ĐNA sẽ gặp khó khăn hơn trong việc duy trì đoàn kết nội khối và
vai trò trung tâm trong giải quyết các vấn đề khu vực; phải đối mặt với cuộc
cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn tại khu vực ngày càng gay gắt, quyết
liệt, gây phức tạp tình hình khu vực.
* Vai trò địa - chính trị khu vực Đông Nam Á đối với Hoa Kỳ
Địa - chính trị ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế
nói chung và chính sách đối ngoại của các quốc gia nói riêng. Hoa Kỳ là một
trong số các cường quốc hàng đầu thế giới đánh giá cao yếu tố địa - chính trị
trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại.
Bước vào thế kỷ XXI, CA-TBD là khu vực cạnh tranh lợi ích chiến
lược giữa các cường quốc. Tại đây, ĐNA được đánh giá là địa bàn chiến lược
với vai trò địa chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc
gia, trong đó có Hoa Kỳ.
Đông Nam Á là địa bàn chiến lược trong chính sách chống khủng bố
toàn cầu và an ninh CA-TBD của Hoa Kỳ. Sau sự kiện 11/09/2001, cùng lúc
phát động Chiến lược chống khủng bố toàn cầu, Hoa Kỳ thực hiện chính sách
16



“Hoa Kỳ hóa thế giới” nhằm duy trì chủ nghĩa bá quyền dựa trên ưu thế về
sức mạnh quân sự. Với việc đặt mục tiêu chống khủng bố trở thành ưu tiên
hàng đầu, Hoa Kỳ lợi dụng vấn đề chống khủng bố thực hiện các cuộc tiến
công chiến lược phủ đầu, gây ảnh hưởng trên các lĩnh vực kinh tế, thương
mại, dân chủ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Để thực hiện mục tiêu này,
Hoa Kỳ đưa quân trở lại nhiều vùng trọng yếu trên thế giới, trong đó có khu
vực ĐNA.
Trong bối cảnh đó, sự gia tăng ảnh hưởng của các nước Nga, Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ tại khu vực này càng khiến Hoa Kỳ lo ngại. Để
không đánh mất vai trò ảnh hưởng tại ĐNA, Hoa Kỳ đặt khu vực này trở
thành mặt trận thứ hai trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Theo đó,
Hoa Kỳ đã triển khai hàng loạt hoạt động hợp tác song phương và đa phương
với các nước ĐNA. Hiện nay, Hoa Kỳ đã xây dựng cơ chế an ninh 4 cấp ở
khu vực CA-TBD, bao gồm: Cấp 1: Hoa Kỳ - Nhật Bản; Cấp 2: Hoa Kỳ - Úc,
Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines; Cấp 3: Hoa Kỳ - Singapore, Indonesia; Cấp
4: Hoa Kỳ - Các quốc gia khác [37, tr.210].
Về mặt chiến lược, an ninh lâu dài của Hoa Kỳ ở khu vực này cần một
mô hình hợp tác đa phương ở Châu Á. Có thể thấy, chiến lược chống khủng
bố của Hoa Kỳ tại ĐNA chính là cơ hội lớn để quốc gia này gia tăng sự can
thiệp và lợi ích an ninh chiến lược tại khu vực CA-TBD. Sau sự kiện
11/9/2001, Hoa Kỳ tiến hành đánh giá lại môi trường an ninh cho Chiến lược
toàn cầu mới với mục tiêu đảm nhận trách nhiệm bảo vệ an ninh các nước
đồng minh và bạn bè của Hoa Kỳ, kiểm soát các khu vực chiến lược quan
trọng ở CA-TBD. Tính toán chiến lược về an ninh biển đảo khu vực CA-TBD
của Hoa Kỳ nhắm vào 2 hướng chính là eo biển Malacca và Biển Đông.
Đối với Hoa Kỳ, lợi ích ở Biển Đông bao gồm cả lợi ích trước mắt
(kinh tế, thương mại) và lợi ích lâu dài (an ninh chiến lược). Biển Đông hiện
đang là nơi tranh chấp chủ quyền giữa một số quốc gia ĐNA và Trung Quốc,
17



vùng lãnh thổ Đài Loan. Tháng 2/1992, Trung Quốc công bố “Luật Lãnh hải”,
xác định về mặt chủ quyền đối với Biển Đông đã làm dấy lên lo ngại của
nhiều quốc gia. Hoa Kỳ cho rằng, nếu có quốc gia nào sử dụng vũ lực để
giành chủ quyền ở Biển Đông, họ có thể sẽ can thiệp. Nếu như trước đây,
tranh chấp quần đảo Trường Sa giữa các bên Việt Nam, Trung Quốc, Đài
Loan, Philippines, Malaysia và Brunei, Hoa Kỳ luôn giữ lập trường “không
can thiệp” thì từ sau Chiến tranh Lạnh, khi tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
ngày càng phức tạp, Hoa Kỳ đã có những thay đổi nhất định trong chính sách
can thiệp.
Hoa Kỳ đã và đang hợp tác với các nước ĐNA trong việc bảo đảm hòa
bình, ổn định ở Biển Đông cũng như hỗ trợ các nước ĐNA nâng cao năng lực
thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
* Lợi ích kinh tế, thương mại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á
Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói
chung và khu vực ĐNA nói riêng và triển khai các nhóm biện pháp để duy trì
ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích quốc gia Hoa Kỳ. Thực hiện mục tiêu kinh tế,
thương mại, Hoa Kỳ không ngừng nỗ lực thúc đẩy quan hệ hợp tác với ĐNA.
Chính sách kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực CA-TBD với động cơ chính
nhằm duy trì sự phồn thịnh kinh tế của Hoa Kỳ, đảm bảo sự chi phối và ảnh
hưởng của Hoa Kỳ cùng với những ưu thế khác về quân sự và dân chủ của
khu vực. Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ James Keylly xác định mục tiêu kinh tế
của Hoa Kỳ tại ĐNA là thúc đẩy tăng trưởng thông qua mở rộng thương mại
và đầu tư. ĐNA là đối tác thương mại triển vọng, thu hút một lượng lớn các
nhà đầu từ Hoa Kỳ.
Về lợi ích kinh tế, ĐNA được xem là mảnh đất đầu tư màu mỡ của Hoa
Kỳ. Sau Nhật Bản và EU, ĐNA là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Hoa
Kỳ. Năm 2005, kim ngạch thương mại hai chiều Hoa Kỳ - ASEAN đạt 107 tỷ
USD, tăng lên 127 tỷ USD vào năm 2007. Trên thực tế, ASEAN là đối tác

18


thương mại lớn thứ tư của Hoa Kỳ với nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) lớn nhất vào khu vực. Ước tính, FDI của Hoa Kỳ vào ĐNA gấp nhiều
lần so với Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại.
Trong bối cảnh hiện nay, việc mở cửa thị trường và tạo dựng sự kết nối
cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ tại các quốc gia ĐNA mang ý nghĩa quan
trọng. Mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa Hoa Kỳ và ĐNA kỳ
vọng những lợi ích tốt đẹp cho cả đôi bên. Về phía Hoa Kỳ, ĐNA là nền kinh
tế đang có tốc độ tăng trưởng cao, có khả năng tạo dựng uy tín và ảnh hưởng
tại khu vực khi Hoa Kỳ gắn kết quan hệ thương mại. Đối với các nước ĐNA,
đây là điều kiện để các quốc gia vươn tới thị trường thế giới, có ý nghĩa quyết
định trong hoạt động thương mại ĐNA.
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership
Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp định/thỏa thuận thương mại tự do được
ký kết giữa 12 nước vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm
đàm phán. Thời Tổng thống Obama, TPP được xem là một nỗ lực của Hoa Kỳ
trong việc tăng cường hợp tác kinh tế với các nước CA-TBD nói chung và
khu vực ĐNA nói riêng. Tuy nhiên, đầu năm 2017, ngay sau khi nhậm chức
Tổng thống, theo chính sách mới của Donald Trump, Hoa Kỳ đã chính thức
rút khỏi hiệp định này.
* Đông Nam Á là địa bàn triển khai “sức mạnh mềm” của Hoa Kỳ
Theo Joseph S.Nye - đồng sáng lập ra lý thuyết chủ nghĩa kinh tế tự do
mới trong quan hệ quốc tế (được trình bày trong cuốn sách Power and
Interdependence viết năm 1977 của ông), sức mạnh mềm hay quyền lực mềm
là khả năng tác động đến các quốc gia khác để đạt được kết quả mong muốn
thông qua cách cuốn hút, hấp dẫn thay vì ép buộc.
Đến nay, có thể thấy Hoa Kỳ đã sử dụng ba công cụ chính trong chính
sách đối ngoại nhằm tác động đến các quốc gia khác để đạt được mục đích

của mình là đe dọa (cây gậy), viện trợ (củ cà rốt) và lôi cuốn, hấp dẫn.
19


Từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, bằng nhiều công cụ khác nhau, Hoa
Kỳ đã tác động và gây ảnh hưởng đến ĐNA thông qua “sức mạnh mềm”. Sau
chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ tăng cường lợi dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền
nhằm can thiệp vào nội bộ các quốc gia. Bằng phương thức ngoại giao sử
dụng “dân chủ và nhân quyền”, Hoa Kỳ tranh thủ sự ủng hộ của dư luận trong
và ngoài nước.
Ở khu vực ĐNA, Hoa Kỳ thực hiện gây sức ép thông qua dân chủ và
nhân quyền với mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi quốc gia. Với những
nước là đồng minh hoặc tích cực hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố ở
ĐNA, Hoa Kỳ không thúc ép quá mạnh trong vấn đề “dân chủ và nhân
quyền”. Ngược lại, các nước như Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Myanmar,
Hoa Kỳ gia tăng sức ép về dân chủ và nhân quyền, kết hợp với “diễn biến hòa
bình” và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
Về vấn đề “dân chủ và nhân quyền”, Hoa Kỳ luôn đặt tiêu chuẩn dân
chủ Hoa Kỳ làm giá trị khuôn mẫu, mục tiêu làm thay đổi các quốc gia theo
mô hình dân chủ Hoa Kỳ. Khi vấp phải sự phản đối từ các quốc gia khác, Hoa
Kỳ áp dụng những biện pháp trừng phạt về kinh tế, quân sự - đây được xem là
một trong những chính sách ngoại giao chủ chốt của Hoa Kỳ, kết hợp “cây
gậy” và “củ cà rốt”, tạo nên “quyền lực mềm” song song với quyền lực về
kinh tế và quân sự. Cho đến nay, gây ảnh hưởng và can thiệp bằng nhân
quyền và dân quyền vẫn là một trong những trụ cột chính của chính sách đối
ngoại Hoa Kỳ đối với ĐNA.
Hiện nay, dân chủ và nhân quyền chưa là vấn đề nghị sự lớn của ĐNA.
Nhiều nước ĐNA đang gặp rắc rối với các vấn đề sắc tộc, tôn giáo tín
ngưỡng, khủng bố diễn ra cùng khó khăn, yếu kém của các nền kinh tế. Đây
là điều kiện để Hoa Kỳ có cơ hội can thiệp vào các nước thông qua các khoản

“viện trợ nhân đạo”, “bảo vệ nhân quyền”, “tự do tôn giáo”. Hiện tại, phần
20


lớn các quốc gia ĐNA vẫn giữ vững quan điểm và lập trường về vấn đề dân
quyền và nhân quyền, hạn chế sự can thiệp sâu của Hoa Kỳ vào độc lập chủ
quyền của các nước. Nhìn chung, trước phản ứng mạnh mẽ của các nước
trong khu vực, Hoa Kỳ đã có những điều chỉnh nhất định trong việc sử dụng
“nguồn lực mềm” thông qua các công cụ dân chủ và nhân quyền. Tuy vậy,
song song với việc gây sức ép về kinh tế, quân sự, “quyền lực mềm” vẫn được
Hoa Kỳ sử dụng như một phương pháp nhằm tạo ảnh hưởng và tăng cường
vai trò của Hoa Kỳ ở ĐNA.
Tóm lại, vị trí quan trọng của ĐNA đối với Hoa Kỳ được đặt trên 3
phương diện là quan hệ an ninh - quốc phòng, quan hệ kinh tế - thương mại
và địa bàn lan tỏa sức mạnh mềm của Hoa Kỳ. Có thể nhận định với vị trí
chiến lược đặc biệt, ĐNA sẽ luôn là khu vực địa - chính trị quan trọng mà
Hoa Kỳ không thể bỏ qua trong chính sách đối ngoại tại khu vực CA-TBD.
1.2. Tình hình nước Mỹ
1.2.1. Khái quát chung về Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia thuộc Bắc Châu Mỹ nằm gần như hoàn toàn
trong Tây Bán Cầu. Hoa Kỳ (United States, viết tắt là U.S hoặc US), còn gọi
là Mỹ (America), tên đầy đủ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hoặc Hợp chúng
quốc Mỹ (United States of America, viết tắt là USA) là một nước cộng hòa
lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và 01 đặc khu liên bang. Hoa Kỳ là quốc
gia lớn thứ 4 về diện tích và thứ 3 về dân số trên thế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ
lớn nhất trên thế giới, năm 2019, GDP đạt 21.428 tỷ USD [90].
Về chính trị và đối ngoại, có sự xung đột gay gắt giữa hai khuynh
hướng nội và khuynh hướng ngoại, mâu thuẫn giữa yêu cầu củng cố trong
nước và tham vọng bành trướng thế lực trên toàn cầu. Bên cạnh đó, các mâu
thuẫn giai cấp (hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo càng tăng), về

chủng tộc, sự mất lòng tin của dân chúng đối với thể chế chính trị trong
nước… làm suy yếu Hoa Kỳ về mặt chính trị.
21


×