Tải bản đầy đủ (.pdf) (216 trang)

Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 216 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------

LÊ THỊ NHIÊN

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA HỒI KÝ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các phụ lục và tư liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc
rõ ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án
do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp. Các
kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh

Lê Thị Nhiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3


4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
5. Đóng góp của luận án ..................................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận án …………………………………………………………. 5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM................................................................ 7
1.1. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam trước năm 1975 .... 7
1.1.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng .................... 8
1.1.2. Những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể ........................ 17
1.2. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam từ 1975 đến nay .. 23
1.2.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng .................. 23
1.2.2. Những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể .............................. 31
1.3. Một số đánh giá về tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam
trước và sau 1975 ............................................................................................ 39
1.3.1. Ưu điểm ………………………………………………………………….39
1.3.2. Hạn chế …………………………………………………………………..40
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỒI KÍ VÀ HỒI KÍ CÁCH
MẠNG ................................................................................................................ 43
2.1. Những vấn đề chung về hồi kí ................................................................. 43
2.1.1. Khái niệm hồi kí và sự phân định ranh giới giữa hồi kí với các thể loại
tương cận.......................................................................................................... 44
2.1.2. Đặc điểm hồi kí ...................................................................................... 50
2.1.3. Phân loại hồi
kí…………………………………………………………...53
2.2. Những vấn đề chung về hồi kí cách mạng .............................................. 59
2.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 60
2.2.2. Một số đánh giá về hồi kí cách mạng ................................................. 63
Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG................................... 74
3.1. Hồi ức về bức tranh hiện thực mang khuynh hướng sử thi …………....74



3.1.1. Hồi tưởng về những sự kiện trọng đại trong đời sống cách mạng
Việt Nam .......................................................................................................... 75
3.1.2. Gợi nhắc tình hình thế giới và những tác động đến cách mạng
Việt Nam .......................................................................................................... 81
3.2. Hồi ức về tầm vóc vĩ đại của nhân dân và chân dung tinh thần của
người cách mạng............................................................................................. 85
3.2.1. Tầm vóc vĩ đại của nhân dân .................................................................. 85
3.2.2. Chân dung tinh thần của người cách mạng .............................................. 90
3.3. Nhận thức về những thủ đoạn của thực dân, đế quốc và thân phận của
người Việt Nam............................................................................................. 103
3.3.1. Thủ đoạn của bọn thực dân, đế quốc đối với dân tộc Việt Nam ............ 104
3.3.2. Sự tàn khốc của chế độ nhà tù thực dân, đế quốc .................................. 106
3.3.3. Thân phận của người Việt Nam trong cảnh đời nô lệ ............................ 111
3.4. Giáo dục, đúc kết những bài học có ý nghĩa quan trọng ..................... 115
3.4.1. Giáo dục lí tưởng cách mạng và tình yêu quê hương đất nước .............. 115
3.4.2. Những bài học kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng....................... 118
Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT…………………...125
4.1. Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam .................... 125
4.1.1. Chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam............................. 126

4.1.2. Kết cấu trần thuật ................................................................................ 134
4.1.3. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................. 147
4.2. Nghệ thuật thể hiện hình tượng người cách mạng ............................... 156
4.2.1. Đặc tả về ngoại hình ............................................................................. 157
4.2.2. Ấn tượng về ngơn ngữ và hành động .................................................... 161
4.2.3. Khắc họa thế giới nội tâm ..................................................................... 165
4.3. Giọng điệu nghệ thuật đa dạng ............................................................. 169
4.3.1. Giọng giãi bày, tâm tình ....................................................................... 170

4.3.2. Giọng ngợi ca, tuyên truyền .................................................................. 173
4.3.3. Giọng khôi hài, mỉa mai, châm biếm .................................................... 175
KẾT LUẬN ................................................................................................... 180
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 183
PHỤ LỤC
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồi kí là một thể loại văn học có nhiều tiểu loại khác nhau. Quá trình
hình thành và phát triển của thể loại này khá phức tạp. Điều đó gắn liền với sự
đổi thay sinh động của hiện thực xã hội và nhu cầu sáng tạo của nghệ sĩ.
Trong tiến trình văn học Việt Nam, hồi kí đạt nhiều thành tựu vào thập niên
60, tiếp tục phát triển ở những thập niên cuối của thế kỉ XX và đầu thế kỉ
XXI. Nội dung của hồi kí giai đoạn đầu là hồi ức của những người cách
mạng, ghi lại những kỉ niệm sâu sắc về đồng đội, nhân dân trong những năm
tháng hoạt động bí mật; ghi lại những sự kiện quan trọng trong lịch sử chống
thực dân, đế quốc bằng nhận thức và ý thức cá nhân. Từ thập niên 90 đến nay,
nội dung hồi kí là sự hồi tưởng của những nhà văn về cuộc đời cầm bút và kí
ức của những tướng lĩnh về một thời gắn bó với chiến trường, xơng pha qua
nhiều trận mạc. Trong đó, hồi kí của người cách mạng là một mảng sáng tác
có vị trí quan trọng đối với văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đây vẫn còn là
mảnh đất chưa được khai vỡ kĩ càng và toàn diện, nhất là ở phương diện đặc
trưng thể loại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là nguồn cảm hứng bất
tận cho sáng tạo nghệ thuật. Văn học cách mạng đã đạt được nhiều thành tựu
và có đóng góp quan trọng vào tiến trình văn học Việt Nam. So với các thể

loại văn học hư cấu, văn học phi hư cấu nói chung, hồi kí nói riêng đã phản
ánh q trình hoạt động, đấu tranh cũng như tâm tư, nguyện vọng của người
viết một cách chân thực và sâu sắc bởi chính họ là những người trong cuộc.
Khi các cuộc vận động sáng tác về lực lượng vũ trang diễn ra vào thập niên
60 của thế kỷ XX, nhiều hồi kí cách mạng đã ra đời. Đây là những sáng tác
với đặc trưng chiếm lĩnh hiện thực đời sống của một giai đoạn lịch sử thông
qua cảm quan nghệ thuật. Những sự kiện lịch sử được thể hiện bằng cảm xúc


2
giàu tính nghệ thuật, đậm chất trữ tình. Hay nói đúng hơn, các tác giả đã dùng
nghệ thuật ngôn từ để tái hiện lịch sử. Cho nên, mối liên hệ giữa các chi tiết,
sự kiện và chất nghệ thuật trong hồi kí cách mạng khá đặc biệt và độc đáo.
Thành tựu của hồi kí cách mạng đã được một số nhà nghiên cứu quan
tâm. Họ nêu lên những nhận xét về vai trò và ý nghĩa, đưa ra một số đặc điểm
cơ bản về nội dung và nghệ thuật của hồi kí cách mạng. Đó là tiền đề quan
trọng để người viết ghi nhận giá trị và đóng góp của hồi kí cách mạng trong
văn học Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay các cơng trình nghiên cứu về hồi kí cách mạng
cịn ít và cịn những khoảng trống cần được khai thác sâu sắc, hệ thống hơn.
Vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng
Việt Nam để nghiên cứu, đánh giá một cách tồn diện những đóng góp và khái
qt những đặc điểm của hồi kí cách mạng.
Nhìn chung, hồi kí cách mạng Việt Nam đã có những thành tựu nhất
định trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu đề tài Những đặc
điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam sẽ góp phần đưa ra cái nhìn
khách quan, đúng đắn về giá trị cũng như những đặc trưng của tiểu loại văn
học này.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam, tác

giả luận án mong muốn tìm hiểu về tiểu loại hồi kí cách mạng, chỉ ra được
những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của những sáng tác này, từ
đó thấy được những đóng góp của hồi kí cách mạng đối với văn học và lịch sử
của dân tộc, cụ thể là:
Về nội dung, luận án hướng đến khái quát một số đặc điểm nổi bật của
hồi kí cách mạng Việt Nam. Hồi kí là sáng tác nhằm thơng tin sự thật. Trong
phạm vi bao quát và chiếm lĩnh thực tại, tác giả hồi kí đã tái hiện quá khứ
bằng cảm hứng và lí tưởng thẩm mĩ riêng gắn với thế giới quan và nhân sinh
quan của người cách mạng. Chính vì lẽ đó, hồi kí cách mạng là những trang


3
tư liệu lịch sử về cách mạng và bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam, khái
quát hình tượng đẹp về con người Việt Nam; đồng thời, hồi kí cách mạng còn
là sự đúc kết kinh nghiệm, khẳng định tư tưởng và có tính giáo dục đối với
các thế hệ người đọc.
Về nghệ thuật, hồi kí nói chung và hồi kí cách mạng nói riêng có đặc
trưng về nghệ thuật trần thuật đặc biệt là các phương diện chủ thể trần thuật,
điểm nhìn trần thuật, cấu trúc trần thuật. Bên cạnh đó, hồi kí cách mạng có
thủ pháp riêng trong việc thể hiện hình tượng nhân vật, cụ thể là hình tượng
người cách mạng. Mặt khác, hồi kí cách mạng còn thể hiện sự đa dạng trong
giọng điệu nghệ thuật. Do sự tác động của một số phương diện như tính
chun nghiệp của người sáng tác, hồn cảnh và mục đích sáng tác… một số
hồi kí cách mạng đơi khi chưa có sự sáng tạo độc đáo về nghệ thuật nhưng
nhìn chung vẫn có những đóng góp đáng ghi nhận.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam. Đây là hồi ức của những nhân
chứng về quá trình vận động và phát triển của cách mạng. Lẽ dĩ nhiên, với
mục đích nói trên, chúng tơi lựa chọn những sáng tác có giá trị văn học và có

những đóng góp quan trọng trong việc phản ánh về cách mạng Việt Nam.
Người nghiên cứu không chú trọng việc hồi kí được viết trong thời gian
nào mà chú ý đến nội dung phản ánh trong hồi kí, bao gồm, hồi kí của những
người yêu nước, người cách mạng viết về q trình hoạt động cách mạng
trong thời kì bí mật ở nhiều bối cảnh khác nhau; hồi kí về các hoạt động đấu
tranh, tuyên truyền cách mạng trong nhà tù thực dân, đế quốc, quá trình đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc. Chính vì thế, hồi kí của các nhà văn về q
trình sáng tác, hồi kí của các nhà văn hóa, các nghệ sĩ khơng phải là đối tượng
nghiên cứu của luận án này. Riêng đối với hồi kí của các tướng lĩnh kể về các
trận đánh, các chiến dịch lịch sử, người viết lựa chọn, nghiên cứu những tác
phẩm có kể về q trình cách mạng ở giai đoạn trước 1945.


4

4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt
Nam, người viết sử dụng một số phương pháp và thao tác cơ bản sau:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại là phương pháp cơ bản của hoạt
động nghiên cứu. Trước hết, người nghiên cứu tập hợp và thống kê số lượng
tác phẩm hồi kí nhằm đánh giá quy mơ của hồi kí cách mạng trong văn học
Việt Nam. Thứ hai, người nghiên cứu tiến hành thống kê, phân loại những nội
dung cơ bản, thống kê những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong từng tác
phẩm và trong toàn bộ các hồi kí cách mạng, từ đó chỉ ra những nét riêng của
từng tác phẩm và những nét chung của hồi kí cách mạng Việt Nam.
4.2. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thực
chứng - lịch sử. Với phương pháp này, người nghiên cứu đặt hồi kí cách mạng
trong bối cảnh lịch sử xã hội để thấy được khả năng của thể hồi kí trong việc
phản ánh sự thực, đồng thời, bằng phương pháp này, chúng ta thấy được
những sáng tạo nghệ thuật đã được các tác giả sử dụng để tái hiện một bức

tranh hiện thực sống động, chân thực về những chặng đường cách mạng Việt
Nam.
4.3. Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng thường xuyên
trong quá trình triển khai các nội dung nghiên cứu. Việc so sánh hồi kí cách
mạng với các tiểu loại trong thể hồi kí cũng như so sánh với các loại hình văn
học khác cho thấy đặc điểm cơ bản ở phương diện thể loại của hồi kí cách
mạng. So sánh sự kiện trong hồi kí cách mạng với sự kiện trong lịch sử để
thấy được “mặt sinh động”, mặt nghệ thuật của hồi kí cách mạng trong việc
tái hiện sự thực theo yêu cầu của thể loại.
4.4. Phương pháp loại hình là một trong những phương pháp đặc trưng
trong nghiên cứu văn học. Bằng phương pháp loại hình, người viết làm rõ
những đặc điểm chung, cơ bản trong các hồi kí cách mạng, từ đó, khu biệt


5
được những đặc trưng của tiểu loại này trong hệ thống các thể loại văn học
Việt Nam.
4.5. Phương pháp nghiên cứu tác phẩm từ góc độ thi pháp học được sử
dụng kết hợp với phương pháp hình thức để làm rõ phương diện nghệ thuật
của hồi kí cách mạng.
4.6. Phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương pháp giúp chúng tơi
nghiên cứu hồi kí cách mạng bằng nhiều hình thức, dựa trên dữ liệu của
chuyên ngành văn học, lịch sử và cả văn hóa, xã hội để từ đó có những kiến
giải nhất định về giá trị văn học của các sáng tác này.
Ngồi ra, người nghiên cứu cịn sử dụng các thao tác như phân tích,
chứng minh, bình luận nhằm biện giải vấn đề một cách cụ thể, rõ ràng hơn.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam sẽ có
những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn, cụ thể là:
Về mặt lí luận: Đối tượng nghiên cứu của luận án là hồi kí của những

người yêu nước, người cách mạng trong văn học Việt Nam. Từ trước đến nay,
các cơng trình nghiên cứu chú ý nhiều đến hồi kí của các nhà văn cho nên
việc nghiên cứu hồi kí cách mạng của luận án đã góp phần lấp đầy những
khoảng trống trong nghiên cứu hồi kí.
Luận án hệ thống được những nhìn nhận, đánh giá về hồi kí cách mạng
Việt Nam của các nhà nghiên cứu. Từ đó, chúng tơi đưa ra những nhận định,
kiến giải thêm về giá trị của hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam hiện
đại.
Nghiên cứu về đặc điểm của hồi kí cách mạng Việt Nam, luận án sẽ chỉ
rõ những nét riêng của hồi kí cách mạng ở cả phương diện nội dung và nghệ
thuật.
Về mặt thực tiễn: Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về văn học Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án


6
Ngoài phần tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao gồm 3 phần chính:
Mở đầu, Nội dung và Kết luận
Trong phần mở đầu, luận án trình bày tính cấp thiết của đề tài, xác định
mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận án cũng nêu ra
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng và những đóng góp
mới của luận án về lí luận và thực tiễn.
Trong phần nội dung, người viết triển khai thành 4 chương, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt
Nam. Luận án đã giới thiệu một cách cụ thể những cơng trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài ở hai giai đoạn: trước và sau 1975. Từ đó, luận án đã đưa ra
những đánh giá về tình hình nghiên cứu, nhằm tạo tiền đề cho việc nghiên
cứu hồi kí cách mạng trong luận án.
Chương 2: Những vấn đề chung về hồi kí và hồi kí cách mạng. Trong

chương này, luận án nêu lên những vấn đề mang tính lí luận về thể loại hồi kí
nói chung và hồi kí cách mạng nói riêng. Đồng thời, luận án cũng khái quát
được những đóng góp của hồi kí cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam
hiện đại.
Chương 3: Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam
nhìn từ phương diện nội dung. Chương này đi vào khái quát và phân tích
những nội dung phản ánh trong hồi kí cách mạng, chẳng hạn như: bức tranh
hiện thực xã hội, chân dung dân tộc anh hùng và những bài học được rút ra từ
q trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chương 4: Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam
nhìn từ phương diện nghệ thuật. Luận án tập trung là rõ những đặc điểm của
hồi kí cách mạng về nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật thể hiện hình tượng
nhân vật và giọng điệu nghệ thuật.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Hồi kí cách mạng đã xuất hiện trong văn học Việt Nam từ trước Cách
mạng tháng Tám và khi nghiên cứu về những sáng tác này, phương diện nội
dung tư tưởng thường được các nhà nghiên cứu chú trọng. Bên cạnh đó, họ đã
chỉ ra rằng, tiểu loại văn học này cũng được chú ý bởi những hình thức thể
hiện riêng của loại văn chương tái hiện hiện thực bằng hồi tưởng và kỉ niệm.
Trong những cơng trình nghiên cứu về hồi kí cách mạng, các tác giả khơng
những đã nhận xét về vai trò và ý nghĩa của tác phẩm ở phương diện tư tưởng
mà còn chỉ ra một số đặc điểm cơ bản về nghệ thuật. Thông qua các cơng
trình nghiên cứu, người viết có thể đánh giá được sức ảnh hưởng của hồi kí
cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam; đồng thời, chỉ ra được đóng

góp cũng như hạn chế của các cơng trình nghiên cứu trong việc tìm hiểu, đánh
giá về hồi kí cách mạng.
Ngồi ra, từ những cơng trình, bài viết của các nhà nghiên cứu, người
viết có tiền đề, cơ sở tham khảo, tiếp thu để triển khai những vấn đề về đặc
điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam một cách khái quát, hệ thống,
nêu ra những cách nhìn nhận mới mẻ. Khi tìm hiểu tình hình nghiên cứu hồi
kí cách mạng ở Việt Nam, người viết chủ yếu khảo sát theo tiến trình lịch sử.
Do đó, người viết phân chia các cơng trình nghiên cứu thành hai giai đoạn:
trước và sau 1975. Trong từng giai đoạn, dựa vào đối tượng nghiên cứu của
các cơng trình, có thể chia thành hai nhóm: nhóm những cơng trình nghiên
cứu mang tính khái qt về thể loại và nhóm những cơng trình nghiên cứu về
tác giả, tác phẩm cụ thể.
1.1. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt Nam trước năm 1975


8
Trước năm 1975, đất nước đối mặt với hai cuộc chiến tranh chống Pháp
và chống Mĩ ác liệt, hơn nữa, các tác phẩm hồi kí cách mạng cũng mới bắt
đầu phát triển mạnh vào thập niên 60, cho nên chưa có nhiều cơng trình
nghiên cứu chun sâu về tiểu loại này. Cũng vì lẽ đó, người viết nhận thấy,
các cơng trình nghiên cứu ở thời kì này tập trung vào định hướng cho cuộc
vận động sáng tác về hồi kí, cũng như định hướng tư tưởng cho người đọc khi
tiếp nhận các tác phẩm hồi kí cách mạng.
1.1.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng
Sau cuộc vận động sáng tác về đề tài lực lượng vũ trang cách mạng của
Tổng cục Chính trị nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt
Nam lần thứ 17, nhiều tác phẩm hồi kí ra đời. Khi nhận được tác phẩm và ý
kiến đóng góp của các đồng chí cán bộ, các bạn viết văn trẻ và bộ đội, chiến sĩ
ở nhiều đơn vị, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã xuất bản tập tài liệu Bàn
thêm về viết hồi kí (1963). Tập sách gồm có 7 bài viết, là những tư liệu cần

thiết và có giá trị khái quát trong việc nghiên cứu về hồi kí cách mạng.
Trong bài viết Thêm mấy điều cần trao đổi về viết hồi kí và mẩu chuyện
về lực lượng vũ trang cách mạng, tác giả Xuân Thiêm đã bày tỏ quan niệm
của mình về nhiều phương diện trong việc viết và nghiên cứu hồi kí cách
mạng. Trước hết, tác giả nêu quan niệm về đề tài và chủ đề trong sáng tác văn
chương nói chung và trong việc sáng tác hồi kí nói riêng. Đối với những tác
phẩm sáng tác trong cuộc vận động viết về kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội
của Cục Chính trị, ơng cho rằng:
Ta nên hiểu một chuyện sâu sắc là một chuyện có thật rút ra từ cuộc sống
của mỗi con người, một câu chuyện có chủ đề rõ ràng, có ý nghĩa thiết thực
đối với người đọc làm cho người đọc thấy được ở đấy điều gì bổ ích cho
những ngày đang sống (Xuân Thiêm, 1963, trang 9-10).

Và “người viết nhằm vào chủ đề đó để ơn tìm, chọn rút ra những chi tiết
“đắt” phục vụ cho chủ đề đó” (Xuân Thiêm, 1963, trang 10). Vấn đề tác giả
nhấn mạnh là tránh lối viết dài dòng, tập trung khai thác khía cạnh sâu sắc


9
trong câu chuyện. Bên cạnh đó, trong bài viết này, Xn Thiêm cịn trình bày
về vấn đề “cái tơi” của người viết trong hồi kí. Tác giả đã dẫn ra những
trường hợp tiêu biểu như hồi kí Bước ngoặt của Đặng Sĩ Đạt, Ra mặt trận của
Huỳnh Văn Nghệ để từ đó khái qt vấn đề:
Viết hồi kí là viết những chuyện mình có sống thật cho nên những nhân vật
trung tâm của chuyện thường là ngôi thứ nhất, tác giả hoặc những người
khác có liên quan chặt chẽ với “cái tôi”. […] Nhưng “cái tôi” ở đây phải
viết cho đúng với hoàn cảnh lịch sử của chuyện, nghĩa là cái tơi phải phù
hợp với tình hình lúc bấy giờ, phải được đặt vào một vị trí, khơng hơn,
khơng kém với hồn cảnh nảy sinh ra nó (Xn Thiêm, 1963, trang 17).


Vấn đề tác giả Xuân Thiêm nêu ra không chỉ có ý nghĩa định hướng đối
với phong trào sáng tác hồi kí lúc bấy giờ mà cịn giúp cho người nghiên cứu
có cái nhìn đúng đắn về quan điểm lịch sử cần có của chủ thể trần thuật trong
hồi kí cách mạng. Về vấn đề người thật và việc thật, tác giả nhấn mạnh, cốt
lõi của hồi kí phải là tư liệu có thật từ trong cuộc sống chiến đấu, phải gắn bó
máu thịt với người viết chứ khơng thể là một câu chuyện bịa, tưởng tượng vô
căn cứ. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng cần phải phân biệt một hồi kí với
một bản báo cáo, tường thuật trận đánh, hay một tài liệu lịch sử truyền thống
của đơn vị. Hồi kí cách mạng phải là sự kết hợp hài hịa giữa hiện thực và
nghệ thuật, bởi vì:
Viết hồi kí, viết truyện kỉ niệm sâu sắc cũng là làm công việc viết văn – dù
thể văn gần người thật việc thật nhất này khơng địi hỏi một trình độ hư cấu,
khái quát và tổng hợp xây dựng điển hình cao như viết tiểu thuyết – ta vẫn
phải nắm được cách viết, nghệ thuật viết, sao cho bài văn có tình người, có
sức hấp dẫn người đọc (Xn Thiêm, 1963, trang 30).

Bài viết của tác giả Xuân Thiêm là sự đúc kết những kinh nghiệm quý
báu. Tuy chỉ là một số ghi nhận ban đầu về hồi kí cách mạng thông qua một
cuộc vận động sáng tác nhưng những vấn đề đề cập trong bài viết là những
vấn đề trọng tâm, có tính khái qt và có ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy vậy, bài


10
viết này chỉ nghiên cứu dựa trên một vài trường hợp cụ thể với mong muốn có
được những sáng tác mới hay hơn, độc đáo hơn chứ không phải nhằm phê
bình, đánh giá thể loại.
Trong bài viết Vài ý nghĩ về viết hồi kí, tác giả Trần Đĩnh bàn luận đến
một vài vấn đề cơ bản liên quan đến nội dung tư tưởng, hình tượng nhân vật
và cơng việc của người ghi hồi kí. Ơng cho rằng:
Người viết hồi kí có lẽ trước tiên cần hết lịng trân trọng, q mến sự sống

rất đáng kính của người kể. Đó chính là biểu hiện của lòng yêu và lòng tự
hào đối với lịch sử oanh liệt của Đảng, lòng biết ơn những đồng chí đi
trước, là biểu hiện của lịng u nước và của tính Đảng (Trần Đĩnh, 1963,
trang 42).

Những điều này sẽ tạo nên sự rung cảm và đồng cảm của người ghi trong
quá trình tái hiện hiện thực. Vốn sống và tình cảm của người ghi sẽ mang lại
cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật cao:
Người viết cần khai thác, khêu gợi những luồng mạch, những chi tiết có ý
nghĩa mà nhiều khi người kể lãng quên hoặc không coi trọng. Người viết
phải lao động cơng phu thì những vốn sống có sẵn mới hiện được ra thành
những hình tượng sinh động, thân thiết, nóng hổi và gần gũi (Trần Đĩnh,
1963, trang 44).

Để tạo nên giá trị cho hồi kí, tác giả bài viết đề cao vai trị của người ghi.
Người ghi không chỉ lắng nghe để tái hiện những tư liệu được người kể cung
cấp mà còn phải nắm bắt và thể hiện được giá trị, ý nghĩa, làm nổi bật thông
tin sự thật. Điều này đã trả cho “người ghi” vị trí đáng có trong việc sinh
thành nên một tác phẩm hồi kí.
Tác giả Dỗn Trung trong bài viết Viết hồi kí đấu tranh cách mạng (Qua
một số tài liệu Trung Quốc) đã khẳng định: “Hồi kí đấu tranh cách mạng
thuộc phạm trù văn học nên được liệt vào hàng những tác phẩm văn học,
nhưng lại liên hệ chặt chẽ với khoa học lịch sử” (Doãn Trung, 1963, trang
45). Từ đánh giá này, ông đặt ra những yêu cầu cơ bản đối với hồi kí cách


11
mạng, nhất là vấn đề tôn trọng sự thật trong q trình sáng tác. Bởi vì, nếu
khơng phản ánh đúng người thật việc thật thì tác phẩm hồi kí cách mạng sẽ
mất đi ý nghĩa chính trị xã hội và trở nên xa lạ đối với người đọc. Tác giả

cũng nêu ra một số vấn đề cần giải quyết trong q trình viết hồi kí cách
mạng. Theo ơng, với kho tài liệu đã có, người kể phải nhớ lại, thống kê và sắp
xếp như thế nào để có thể “khơi gợi cho cuộc sống đã qua tái hiện lại” (Doãn
Trung, 1963, trang 48). Đánh giá về hồi kí cách mạng, ông cũng nêu lên vấn
đề hiểu và giải quyết như thế nào về tính chân thực:
Chân thực là phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, nghĩa là phải
nắm được bản chất của sự kiện lịch sử, thể hiện được tinh thần thời đại và
bộ mặt lúc bấy giờ. Chân thực không phải là ghi chép từng dịng từng chữ
một cách tự nhiên chủ nghĩa (Dỗn Trung, 1963, trang 50-51).

Về phương diện biểu hiện chủ đề tư tưởng, tổng hợp và sắp xếp tài liệu,
tác giả bài viết yêu cầu phải chọn lọc, sắp xếp như thế nào để nâng lên mức tư
tưởng cao. Tác giả bài viết cũng nêu lên một vài phương diện về nghệ thuật,
nhất là phương diện kết cấu: “Về kĩ xảo viết, cần sắp xếp những đoạn kể
chuyện chung và những miêu tả chi tiết sao cho thích hợp, có hoa đỏ lại phải
có lá xanh, hoa lá phải sắp xếp cho đẹp mắt” (Dỗn Trung, 1963, trang 52).
Ơng u cầu người viết hồi kí phải vận dụng tốt ngơn ngữ đối thoại và phải sử
dụng được các thuật ngữ cách mạng phổ biến để biểu hiện được khơng khí và
màu sắc thời đại. Những quan niệm này có nhiều đóng góp đối với cuộc vận
động sáng tác lúc bấy giờ, vạch ra một số định hướng và chỉ ra các nội dung
trọng tâm khi tìm hiểu về hồi kí cách mạng. Mặc dù vậy, đối tượng khảo sát
của bài viết không phải là hồi kí cách mạng Việt Nam cho nên việc tác giả lí
giải, so sánh chỉ có vai trị là tư liệu tham khảo để sáng tác hơn là bàn luận,
đánh giá.
Bài viết Vài cảm nghĩ nhân đọc mấy cuốn hồi kí của tác giả Nhị Ca đã
giới thiệu đến người đọc một số tác phẩm hồi kí tiêu biểu của nước bạn như
Truyện Hồng quân của Trung Quốc (Trung Quốc), Gặp gỡ Lênin trong lúc


12

lưu vong (Nga), Người con của nhân dân (Pháp). Ở Việt Nam, tác giả giới
thiệu và nghiên cứu Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Từ nhân dân mà ra
của Võ Nguyên Giáp. Đối với hồi kí Từ nhân dân mà ra, tác giả bài viết cho
rằng đây là một trong những tác phẩm tái hiện chân thực và sinh động thời kì
đầu của cách mạng Việt Nam từ khi Bác Hồ về nước. Bài viết đánh giá và
thừa nhận những giá trị nội dung tư tưởng quan trọng được thể hiện trong hồi
kí này: “Tác giả đã làm sống lại cái khơng khí đấu tranh sơi sục của chiến khu
khi cách mạng đã có khí thế quần chúng rộng lớn và cuộc đời gian khổ, đói
khát, ốm đau, nguy hiểm khi phong trào sụt xuống vì khủng bố trắng của
địch” (Nhị Ca, 1963, trang 76). Theo Nhị Ca, Võ Nguyên Giáp đã ngợi ca
những tấm gương chiến sĩ cách mạng anh dũng, khẳng định vai trò, sức mạnh
của quần chúng nhân dân. Đồng thời, hồi kí của ơng cịn thể hiện sự kết hợp
giữa lí luận và thực tiễn được đúc kết từ thực tế cuộc đấu tranh cách mạng.
Ngoài ra, Từ nhân dân mà ra “là một bản tổng kết kinh nghiệm có ít nhiều
hình tượng văn học, một bài hồi kí có giá trị lí luận cách mạng” (Nhị Ca,
1963, trang 77). Cũng trong bài viết này, tác giả nhận xét về ưu điểm và hạn
chế chung của hồi kí khi tái hiện hiện thực:
Giá trị chân thực của các sự kiện và nhân vật có “địa chỉ chính xác” trong
tập hồi kí này, mặc dù sự miêu tả đơi chỗ cịn tự nhiên, sơ lược, chưa đủ
làm cho người đọc cảm xúc sâu sắc, vẫn có thể làm cho ta tin tưởng mạnh
mẽ vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, qua sự chứng minh của kinh
nghiệm lịch sử (Nhị Ca, 1963, trang 80).

Qua việc nghiên cứu những tác phẩm cụ thể ở một số quốc gia khác
nhau, tác giả bài viết đã rút ra khái niệm và một vài đặc điểm quan trọng trong
hồi kí cách mạng. Ơng cho rằng, hồi kí cách mạng là một tiểu loại văn học
bao hàm hai yếu tố là tái hiện lịch sử bằng hồi tưởng và sự truyền cảm bằng
hình tượng. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Nhị Ca yêu cầu hồi kí cách
mạng phải áp dụng được “quy luật điển hình” trong việc lựa chọn nhân vật và



13
sự kiện; có thái độ khách quan, trung thực trong phản ánh… Đây là những
phương diện quan trọng trong yêu cầu đặt ra đối với việc sáng tác hồi kí.
Các bài viết còn lại trong tập sách này chủ yếu tập trung vào việc vận
động sáng tác theo phong trào của Cục Chính trị đã nêu ra. Cơng trình Bàn
thêm về viết hồi kí với nhiều bài viết xuất phát từ việc tìm hiểu thực tế cơng
việc viết hồi kí của các nhà hoạt động cách mạng, của chiến sĩ, bộ đội. Cơng
trình này có vai trị định hướng cho cuộc vận động sáng tác thời bấy giờ, đồng
thời, dựa trên những tác phẩm cụ thể, tác giả các bài viết cũng đã chỉ ra cụ thể
những phương diện hồi kí đã đạt được và cần phải đạt được nếu tiếp tục được
phát động sáng tác để phục vụ cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, cơng trình chưa
có những nghiên cứu mang tính lí luận chuyên sâu về hồi kí cách mạng.
Những vấn đề được nêu trong cơng trình là những gợi mở hướng tới người
viết nhiều hơn là nghiên cứu tác phẩm.
Nhận định về đặc trưng của thể loại hồi kí trong việc tái hiện hiện thực,
tác giả Phan Nhân trong bài viết Vị trí hồi kí cách mạng trong văn học Việt
Nam (1964) đã nhấn mạnh:
Hồi kí chỉ miêu tả cái có thật mà khơng tả cái có thể có. Nó chỉ chọn lọc
những gì trong số tài liệu có thật chứ khơng thể sáng tạo ra cái mới nào
khác. Nói cách khác, tất cả cố gắng của hồi kí là làm thế nào giữ được bản
sắc vốn có của người thật việc thật, làm nổi bật bản sắc đó lên đầy đủ, rõ
ràng (Phan Nhân, 1964, trang 716).

Ơng vừa đề cao vai trị của hiện thực vừa nhấn mạnh vai trò của người
viết khi phản ánh, tái hiện hiện thực. Cũng bàn về vấn đề này, trong bài viết
Đọc Người Hà Nội (Hồi kí cách mạng kháng chiến ở thủ đơ) (1965), Phan
Nhân cho rằng, hồi kí cách mạng thường phản ánh và có khả năng phản ánh
rất trung thành những con người điển hình có thật, những sự thật bản chất
trong cuộc sống đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất của nhân dân ta chống đế

quốc và phong kiến. Trong bài viết này, ông đã nêu lên nhận xét khái quát về
hồi kí và nhấn mạnh khả năng chọn lọc chi tiết của tác giả hồi kí. Ơng cũng


14
nhận thấy hạn chế của một số tác phẩm trong tập hồi kí như đơn giản, sơ lược,
tản mạn, biên niên hoặc chưa đúng về thể loại. Tuy nhiên, tác giả cũng cho
rằng những hạn chế này là không đáng kể vì xét về nghệ thuật, đa số tác phẩm
trong tập hồi kí có bố cục chặt chẽ, kể và ghi gọn, sinh động, có phong cách
riêng. Từ việc nghiên cứu một vài hồi kí cụ thể, Phan Nhân đã nêu lên được
những yêu cầu cần thiết đối với một tác phẩm hồi kí cách mạng, trong đó,
việc chọn lọc chi tiết từ hiện thực và tái hiện bằng thủ pháp nghệ thuật là một
trong những yêu cầu quan trọng. Bài viết này xem như là bước tiếp nhận tác
phẩm và trình bày vấn đề về thể loại từ một tác phẩm cụ thể. Cũng vì lẽ đó,
tính hệ thống và khái quát của những nhận xét, đánh giá chưa cao.
Trong bài viết Thể kí và vấn đề viết người thật việc thật (1967), Nam
Mộc đã đề cập và phân tích nhiều vấn đề liên quan đến thể kí trong văn học
Việt Nam như tác dụng, vị trí, đặc trưng, hư cấu và tái tạo trong sáng tác kí.
Ngồi ra, ông còn đặt ra vấn đề về sự nâng cao chất lượng trong việc viết kí
của các nhà văn. Ơng đánh giá cao sự đóng góp của hồi kí Bất khuất của
Nguyễn Đức Thuận trong sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam
cũng như có tác động tích cực đối với sự củng cố, động viên, ổn định tư tưởng
của nhân dân trong thời đại bấy giờ. Về thể loại hồi kí, ơng cho rằng:
Có thứ bút kí phản ánh những hiện tượng đã qua theo trí nhớ của nhà văn
(đó là hồi kí). Ở nước ta có một loại hồi kí đặc biệt do người trong cuộc
hoặc người chứng kiến kể lại cho nhà văn ghi mà có đồng chí gọi là “loại
ghi chép” hoặc “truyện ghi” (đó là một số hồi kí cách mạng, hồi kí kháng
chiến) (Nam Mộc, 1967, trang 75).

Cũng trong bài viết này, tác giả đã gợi nhắc đến một số tác phẩm hồi kí

cách mạng, giới thiệu những đóng góp của hồi kí cách mạng trong văn học
Việt Nam.
Năm 1970, Hồng Như Mai viết lời giới thiệu cho cơng trình Hồi kí cách
mạng, tập 2. Ơng đã có cái nhìn khái qt về hồi kí cách mạng ở cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, Hoàng Như Mai cũng cho


15
thấy những giá trị, đóng góp của hồi kí cách mạng đối với văn học và xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ. Về phương diện nội dung, nhà nghiên cứu nhận thấy,
hồi kí cách mạng đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời thông qua
hồi ức của người trong cuộc:
Đọc hồi kí cách mạng, chúng ta có được những hiểu biết khá đầy đủ và
chính xác về phong trào cách mạng trước đây, về những điều kiện sống và
làm việc của các chiến sĩ cách mạng, về những thủ đoạn đàn áp, khủng bố
của bọn thống trị. Hồi kí giúp ta hình dung được các chế độ mật thám, nhà
tù, trại giam của bọn thực dân thống trị và những hình thức tổ chức đấu
tranh, vượt ngục, hoạt động bí mật, gây cơ sở từ nhỏ đến lớn, thành lập căn
cứ địa v.v… của các chiến sĩ cách mạng (Hoàng Như Mai, 1970, trang 22).

Bài viết đã chỉ ra những nội dung cụ thể được phản ánh bao gồm tình
hình xã hội Việt Nam từ khi Pháp xâm lược, phát xít Nhật thay thế và tinh
thần quyết chiến đấu một mất một còn đối với quân thù của dân tộc ta. Hồi kí
cách mạng cịn là những trang viết cảm động về Hồ Chủ tịch: “Ở Người, sự
lãnh đạo cách mạng đã được nâng lên thành một thứ nghệ thuật với ý nghĩa là
nó thấm sâu trong đáy tim của từng người” (Hoàng Như Mai, 1970, trang 4).
Hình ảnh Bác Hồ đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh dân tộc, in dấu ấn
đậm nét không thể nào quên trong tâm thức những người cách mạng bởi tấm
lịng u nước nồng nàn, tình cảm thiêng liêng với dân tộc, đồng bào và nhất
là quyết tâm gang thép với con đường chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, tác giả cịn

nhận thấy, các hồi kí đã phản ánh chân thực hình tượng người cộng sản. Đó là
những người quả cảm, kiên cường, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, gian
khổ, tra tấn, tù đày, gắn bó một lịng một dạ với Đảng và nhân dân. Ông cho
rằng: “Đời đấu tranh của các đồng chí đó là những bài học hết sức đẹp đẽ về
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân, không một bạo
lực nào của kẻ địch có thể khuất phục được” (Hồng Như Mai, 1970, trang
20). Tác giả bài viết đã nhận thấy, ưu điểm của hồi kí cách mạng là khơng


16
thần thánh hóa hình tượng người cách mạng mà nhìn thấy tất cả những mặt rất
đời thường với những nỗi niềm riêng:
Người chiến sĩ cộng sản không phải là khô khan, thiếu tình cảm, trái lại,
giàu tình cảm hơn ai hết, có điều là người ấy khơng bao giờ đặt lên bàn cân
tình riêng và nghĩa cả, khơng bao giờ vì lợi ích riêng mà qn lợi ích chung
(Hồng Như Mai, 1970, trang 16).

Về đóng góp của hồi kí cách mạng, thơng qua bài viết, ơng cho rằng các
hồi kí đã cung cấp cho những nhà viết sử một số tư liệu lịch sử có giá trị và
đáng tin cậy. Đồng thời, ông nhận thấy, cần học tập ở các tập hồi kí cách
mạng cách viết văn kể chuyện bởi vì ưu điểm trong trần thuật của hồi kí cách
mạng là “viết súc tích mà đầy đủ” (Hồng Như Mai, 1970, trang 29). Bên
cạnh đó, Hồng Như Mai đã khẳng định tầm quan trọng của hồi kí cách mạng
trong tiến trình phát triển của văn học cũng như sự thắng lợi của cách mạng
Việt Nam:
Các hồi kí cách mạng là những áng văn rất quý. Chúng ta học tập ở những
tập hồi kí lí tưởng cách mạng, nhân sinh quan cách mạng, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng qua tấm gương hoạt động cách mạng của các chiến sĩ cộng
sản (Hoàng Như Mai, 1970, trang 29).


Bài giới thiệu của nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai đã hướng đến đối
tượng trọng tâm là các hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam. Tuy vậy, do
là một bài giới thiệu khi xuất bản tập sách nên tác giả đã đi vào phân tích,
chứng minh, làm rõ những biểu hiện của tác phẩm hơn là tổng hợp, khái qt.
Vì vậy, bài viết cịn nghiêng về tường thuật nội dung các sáng tác hơn là bình
luận, đánh giá. Đồng thời, phạm vi nghiên cứu cũng giới hạn, tác giả chỉ bàn
đến những hồi kí được trích in trong tuyển tập chứ khơng nghiên cứu trọn vẹn
các hồi kí cách mạng.
Xuất phát từ thực tế của việc sáng tác hồi kí, các cơng trình nghiên cứu
trước năm 1975 tập trung vào yêu cầu đặt ra đối với người sáng tác và tác
phẩm. Trong đó, phương diện nội dung phản ánh được nhấn mạnh. Người


17
nghiên cứu thiên về khẳng định đóng góp của thể loại này trong việc phản ánh
lịch sử và bồi dưỡng lập trường, tư tưởng cho cả người viết lẫn người đọc.
Ngồi ra, chưa có những cơng trình mang tính khái quát, chuyên sâu về thể
loại.
1.1.2. Những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể
Trong giai đoạn trước năm 1975, nhất là vào nửa cuối thập niên 60, khi
cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào thời kì ác liệt, nhiều hồi kí ra đời trong
cuộc vận động viết về kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời bộ đội. Những tác phẩm
này vừa có giá trị trong việc tái hiện lại quá trình cách mạng của dân tộc vừa
có tác dụng cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Khi
những tác phẩm này ra đời, lập tức đã nhận được sự quan tâm của bạn đọc và
giới nghiên cứu.
Năm 1962, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập 6 (1945 1960), tác giả Huỳnh Lý và Trần Văn Hối đã có sự đánh giá cao đối với sự ra
đời của các hồi kí cách mạng như Hai lần vượt ngục (Trần Đăng Ninh), các
tập Nhân dân ta rất anh hùng, Lên đường thắng lợi, Người trước ngã người
sau tiến, Bác Hồ, Trong ngục tối Hỏa Lò… Các tác giả nhận định:

Nhiều bài hồi kí đã phác họa lại cả một thời kì lịch sử đấu tranh của dân tộc
và của Đảng, có ý nghĩa và giá trị lịch sử quan trọng. Người ta tìm thấy ở
đây một quá khứ gian nan, quá khứ anh hùng, quá khứ đấu tranh chưa xa
lắm với hiện nay (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 306).

Theo nhóm tác giả, những tác phẩm này “là bản trường ca về nhân dân
anh hùng, về Hồ Chủ tịch vĩ đại, về những người cộng sản kiên cường”
(Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 306). Riêng đối với hồi kí Hai lần
vượt ngục của Trần Đăng Ninh, họ nhận xét:
Bằng một lối kể chuyện chân thực, giản dị, Trần Đăng Ninh đã phác họa lại
hình ảnh sinh động của những người cộng sản kiên cường, ý chí quyết tâm
phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng là động cơ thúc đẩy họ vượt qua mọi


18
khó khăn để thốt khỏi ngục tù của đế quốc, trở lại cuộc đời hoạt động tự
do (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 305).

Do đây là cơng trình nghiên cứu về lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1960, cho nên, vấn đề về hồi kí cách mạng được bàn đến khơng phải
là đối tượng chính. Hồi kí cách mạng được nêu trong cơng trình này như một
minh chứng cho sự phong phú, sinh động của thể kí nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung. Chính vì lẽ đó, tác giả cơng trình chỉ xem đây là một hiện
tượng của văn học cách mạng, điểm qua vài biểu hiện về nội dung và nghệ
thuật của một vài tác phẩm chứ chưa làm nổi bật đặc trưng của các tác phẩm
này.
Tác giả Thành Duy, trong bài viết Mấy suy nghĩ về thể kí (1965), đã đề
cập đến sự phát triển của thể kí và đánh giá sự thành cơng của một số hồi kí
tiêu biểu. Trong đó, tập hồi kí Nhân dân ta rất anh hùng được đánh giá là một
trong những tác phẩm xuất sắc, gây ấn tượng sâu đậm trong lịng người đọc.

Ơng cũng chú ý đề cập đến vấn đề hư cấu trong hồi kí qua cuộc thảo luận về
hai tác phẩm Một lịng với Đảng (Hoàng Thị Ái) và Nữ tự vệ chiến đấu (Hà
Quế). Trong đó, tác giả đã nêu ra nhiều ý kiến khác nhau của những người
làm cơng tác lí luận phê bình, có người phản đối sự hư cấu, địi hỏi tính chính
xác tuyệt đối trong hồi kí; có người cho rằng hồi kí cũng tuân theo nguyên tắc
sáng tác văn học nên hư cấu là tất yếu, tuy nhiên, hư cấu phải trong chừng
mực và đảm bảo tính sự thật. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra sự khác biệt giữa
hư cấu và bịa đặt, đồng thời nhấn mạnh vai trò của hư cấu trong sáng tạo nghệ
thuật. Riêng đối với hồi kí cách mạng, tác giả bài viết đồng tình với u cầu
về tính chân thực trong việc tái hiện sự kiện cách mạng và các nhân vật lịch
sử. Tuy nhiên, ông cho rằng, hư cấu là thủ pháp tạo nên tính nghệ thuật cho
hồi kí. Người viết và người nghiên cứu hồi kí cần xác định rõ ranh giới giữa
hư cấu và bịa đặt trong quá trình tìm hiểu thế giới nghệ thuật của thể loại này.
Tác giả Trần Văn Giàu trong bài viết Đọc tập hồi kí Những ngày gian
khổ (1965) đã đề cao việc thể hiện hình tượng nhân vật người cán bộ bình


19
thường và người dân bình thường. Đó là những người cán bộ quyết tâm bám
quần chúng, bám cơ sở; kiên trì chịu đựng gian khổ, ln ln tin tưởng và
lạc quan; can đảm vô song trước cái chết và luôn thương u nhau, thương
u đồng bào mình. Tác giả cơng trình chủ yếu nhấn mạnh giá trị của các tập
hồi kí, nhất là về phương diện tư tưởng. Ơng có đề cập đến nghệ thuật xây
dựng hình tượng nhân vật nhưng chủ yếu quan tâm đến ý nghĩa và tác động
của hình tượng đối với đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Tác phẩm Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận là một hồi kí cách mạng thu
hút sự chú ý trong giới nghiên cứu. Trong lời tựa cho tác phẩm Bất khuất xuất
bản năm 1966, Phạm Hùng đã nhận định: “Bất khuất là một bản cáo trạng
đanh thép về chính sách xâm lược của đế quốc Mĩ và chế độ phát-xít cực kì
man rợ của Ngơ Đình Diệm và những kẻ tay sai ở miền Nam hiện nay” (Phạm

Hùng, 1966, trang 10). Ông nhấn mạnh, vấn đề được phản ánh trong tác phẩm
có giá trị tức thời, có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ, động viên tinh thần
đấu tranh của nhân dân ta trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng:
Bất khuất là một bản anh hùng ca sáng ngời chính nghĩa và khí tiết cách
mạng của biết bao người cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam
bình thường, yêu nước nồng nàn, những chiến sĩ chỉ biết “đạp lên đầu thù
mà đi”, làm cho quân thù phải khiếp nhục, làm cho đồng chí và đồng bào cả
nước phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta (Phạm
Hùng, 1966, trang 10).

Trong lời giới thiệu, Phạm Hùng cịn nêu khái qt về tình hình đất nước
trước và sau năm 1945, dưới sự cai trị của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ để từ
đó thấy được những khó khăn gian khổ của cách mạng và nhân dân. Bài viết
của Phạm Hùng chủ yếu tập trung vào nội dung phản ánh và giá trị tư tưởng
mà Nguyễn Đức Thuận thể hiện trong hồi kí Bất khuất.
Tác phẩm Bất khuất được giới nghiên cứu đánh giá cao ở khả năng phản
ánh hiện thực cũng như những tác động về mặt tư tưởng. Trong bài viết Bất
khuất – một bài học lớn về đạo lí làm người của người cách mạng (1967), Hà


20
Huy Giáp đã đi vào nghiên cứu khá sâu sắc về phương diện nội dung tư tưởng
mà tác phẩm hồi kí của Nguyễn Đức Thuận mang lại. Tác giả bài viết cho
rằng:
Với trên bốn trăm trang hồi kí, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc
cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến cơng của những con
người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội
miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. Bất khuất tỏa
ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lí tưởng cộng sản
chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người

nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết
xứng đáng là Người (Hà Huy Giáp, 1967, trang 6).

Tác giả nhận thấy, đóng góp của Nguyễn Đức Thuận trong Bất khuất
trước hết là xây dựng được vẻ đẹp của những người cộng sản; phơi bày bản
chất của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Được xây dựng trong thế đối lập với kẻ
xâm lược và tay sai, người cách mạng hiện lên với tất cả vẻ đẹp rạng ngời của
khí phách kiên cường, sống và chết vì lí tưởng cách mạng, “nêu cao lẽ sống vì
dân vì nước, vì hạnh phúc chung của mọi người” (Hà Huy Giáp, 1967, trang
8). Người cách mạng không chỉ nêu cao gương trung liệt mà còn lạc quan tin
tưởng vào sự tất thắng của cách mạng dưới sự soi đường của Đảng, bởi đạo lí
làm người cao quý, dẹp bỏ chủ nghĩa cá nhân để bảo vệ phẩm giá con người.
Người cách mạng cịn cao đẹp bởi tình u cuộc sống thiết tha. Mỗi làng
xóm, mỗi dịng sơng, rặng tre, rặng dừa của quê hương đều in hằn trong tâm
thức họ, thôi thúc họ đấu tranh để bảo vệ từng vẻ đẹp giản dị, n bình. Họ
u đồng chí, đồng bào, nguyện hi sinh bản thân mình để giành sự sống cho
đồng đội. Trong khi đó, bọn đế quốc và bè lũ tay sai hiện lên như một bầy dã
thú:
Chà đạp, giày xéo phẩm giá con người, hủy diệt con người, hủy diệt cuộc
sống của người khác để giành lấy cuộc sống vật chất thú vật cho cá nhân
mình, đó là mục đích của bọn trùm đế quốc Mĩ xâm lược và của bọn côn


×