ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN TIẾN DŨNG
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH HƯNG YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội, 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN TIẾN DŨNG
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH HƯNG YÊN
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số :
60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ ĐINH QUANG TY
HÀ NỘI, 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đinh Quang Ty. Các số liệu, tài
liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng.
Hà Nội, ngày
tháng 11 năm 2007.
Tác giả luận văn
Trần Tiến Dũng
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
BQL:
Ban quản lý.
CCKT:
Cơ cấu kinh tế.
CNH, HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KCN:
Khu cơng nghiệp.
KCX:
Khu chế xuất.
KT - XH:
Kinh tế - xã hội.
UBND:
Uỷ ban nhân dân.
MỤC LỤC
Mở đầu............................................................................................................... 1
Chương 1. Khu công nghiệp: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn trong nước.................................................................................................. 6
1.1
Khu cơng nghiệp nhìn dưới góc độ lý luận.........................................
1.2
Tác động của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội
6
nhìn trên bình diện tổng quát............................................................... 18
1.3
Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước về xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp; bài học đối với Hưng Yên
................
22
Chương 2. Các khu công nghiệp hiện có tại tỉnh Hưng n-lịch sử hình
thành, phát triển và những tác động chủ yếu của chúng....................................... 29
2.1
Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp tại tỉnh
Hưng Yên............................................................................................
2.2
29
Tác động của các khu công nghiệp trên thực tế đến phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây........................... 32
2.3
Đánh giá chung về tác động của các khu công nghiệp........................ 73
Chương 3. Quan điểm, định hướng và giải pháp phát huy tác động của
các khu công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006-2010 và đến
năm 2020............................................................................................................ 81
3.1
Bối cảnh, quan điểm và định hướng phát triển các khu cơng nghiệp
ở
Việt
Nam
nói
chung
và
tỉnh
Hưng
n
nói
riêng................................
3.2
81
Các giải pháp phát huy tác động tích cực của các khu cơng nghiệp
đến sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn tới
92
Kết luận.............................................................................................................. 112
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................... 114
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành các KCN, KCX ở Việt Nam được bắt đầu đặt ra từ năm
1986. Đây là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ trương xây dựng và phát
triển KCN, KCX được Đảng và Nhà nước ta đưa ra trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng
lý luận chung về phát triển kinh tế thị trường, kinh nghiệm của các nước trong khu
vực và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng, tiếp đến Đại hội VIII, IX và X, định hướng chiến lược xây
dựng và phát triển các KCN đã được triển khai trong cả nước, từng bước được bổ
sung, hoàn thiện và chứng tỏ tính đúng đắn qua sự kiểm chứng của đời sống thực
tiễn. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc xây dựng, phát triển các
KCN, văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “ Quy hoạch phân bố hợp lý
công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu cơng nghiệp, khu chế
xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm cơng nghiệp lớn và
khu kinh tế mở” [10]. Tiếp tục chủ trương này, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ
phát triển KT - XH 5 năm 2006-2010 đã được Đại hội X thơng qua, có đoạn nhấn
mạnh: “ Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm cơng nghiệp trên cả
nước; hình thành vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với
bảo đảm các điều kiện sinh hoạt cho người lao động” [11].
Trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam,
nhiều KCN, KCX đã đáp ứng các mục tiêu thu hút vốn, công nghệ, tạo nguồn lực
xuất khẩu, giải quyết việc làm và đã có những đóng góp đáng kể vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế.
Thực tiễn trong nước hơn một thập niên vừa qua cho thấy, một số KCN đã
thể hiện khá rõ vai trò là mũi đột phá, là động lực thúc đẩy q trình CNH, HĐH đất
nước. Ngồi ra, các KCN cịn góp phần đẩy nhanh q trình chuyển dịch CCKT, cơ
cấu lao động xã hội và thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn ở
nhiều địa phương và cả nước. Đồng thời, với vai trò là hạt nhân thúc đẩy sự hình
thành những đơ thị mới, các KCN cịn có ảnh hưởng quan trọng đến việc cải tạo và
phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mở rộng các dịch vụ công cộng... Tuy nhiên, cho
đến nay, nhìn trên phạm vi cả nước, việc quy hoạch tổng thể mạng lưới các KCN
7
cịn nhiều bất cập, hiệu quả KT - XH nhìn chung còn thấp nếu so sánh với một số
nước trong khu vực và nhất là so với các nước công nghiệp phát triển.
Riêng ở tỉnh Hưng Yên, từ năm 1997 đã xây dựng chiến lược phát triển KT XH đến năm 2010 và một số định hướng đến năm 2020, trong đó xác định “Hưng
n khơng thể làm giàu nếu chỉ dựa vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, do
vậy phải tập trung cao độ để phát triển nhanh mạnh, vững chắc công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp làm động lực cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực
khác”.
Ngay sau khi được tái lập (năm 1997), Tỉnh ủy và UBND đã chỉ đạo các cấp,
các ngành tiến hành quy hoạch các khu, cụm công nghiệp và đã dành những mặt
bằng có vị trí thuận lợi nhất để xây dựng các KCN. Đến nay, tỉnh đã quy hoạch
được 5 KCN tập trung nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư (trong đó 2 khu đã có
quyết định thành lập, hoạt động theo quy chế KCN): Như Quỳnh A, Như Quỳnh B,
Phố Nối A, Phố Nối B, thị xã Hưng Yên. Đồng thời, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết
“Đẩy mạnh hợp tác đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”; UBND đã ban hành quy
định hướng dẫn việc thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư và quy định quản lý
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh ngoài trên địa bàn Hưng Yên. Đây là
những văn bản tạo cơ sở pháp quy bước đầu cho việc thống nhất quản lý hoạt động
đầu tư trên phạm vi của địa phương. Để khuyến khích thu hút đầu tư, tỉnh chủ
trương cho các dự án được hưởng các chính sách ưu đãi ở mức tối đa theo các quy
định của Chính phủ. Thủ tục cấp giấy phép đầu tư tương đối đơn giản và nhanh
chóng, đối với các dự án đặc biệt có thể được tỉnh cho phép hưởng thêm các ưu đãi
khác.
Đến tháng 6 năm 2005, đã có 374 dự án đầu tư vào địa bàn Hưng Yên, với
tổng số vốn đầu tư đăng ký là 16.625 tỷ đồng; trong đó đã có 160 dự án đã đi vào
hoạt động. Sự hình thành và phát triển các khu, cụm công nghiệp đã tạo ra động thái
phát triển mới của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh, với mức tăng trưởng khá
cao: giai đoạn 1997-2000 mức tăng trưởng bình quân đạt 60,35%/năm; giai đoạn
2001-2005 đạt bình quân 26,7%/năm. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp đạt
5.925 tỷ đồng (tính theo giá cố định năm 1994). Như vậy, sau 8 năm tái lập, giá trị
sản xuất công nghiệp của Hưng Yên đã tăng gấp 16,7 lần so với năm 1996. Sự phát
triển của các ngành công nghiệp đã góp phần đẩy nhanh q trình chuyển dịch
CCKT của tỉnh theo hướng CNH, HĐH. Năm 1997, trong cơ cấu GDP của tỉnh,
8
nông nghiệp - thủy sản chiếm tỷ trọng 51,87%, công nghiệp - xây dựng 20,26%,
dịch vụ là 27,87%; đến năm 2005 CCKT tương ứng là: 30,5% - 38% - 31,5%; thu
nhập bình quân đầu người đạt 7,3 triệu đồng/năm.
Bên cạnh những tác động tích cực đến q trình phát triển KT - XH của địa
phương, các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng n cũng gặp phải khơng ít những vướng
mắc về cơ chế chính sách và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức gây
ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả phát triển KT - XH: Cịn có những biểu hiện lúng
túng trong việc thiết kế và hoàn thiện quy hoạch phát triển KCN. Hệ thống chính
sách phát triển KCN còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện; việc
xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN còn nhiều bất cập; việc đền bù, giải phóng
mặt bằng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. BQL các KCN cấp tỉnh và thủ tục hành
chính trong KCN còn nhiều mặt chưa hợp lý. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ và chăm
lo đời sống công nhân trong các KCN cịn nhiều khó khăn. Việc xây dựng các tổ
chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ở các KCN cũng nảy sinh nhiều vấn đề
mới, chưa có hướng giải quyết hợp lý,...
Xuất phát từ tình hình nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tác động
của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên“
để thực hiện luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, với hy vọng sẽ
có những đóng góp nhất định vào công cuộc đổi mới và phát triển của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề phát triển các KCN, trong những năm gần đây ở nước
ta đã có một số đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo khoa học và các bài viết được cơng
bố trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học.
Ở đây, xin điểm qua một số cơng trình có liên quan gần với đề tài luận văn:
Luận án PTS kinh tế của Nguyễn Xuân Thu (thực hiện năm 1992), về “Xây
dựng phương pháp đồng bộ hố một khu cơng nghiệp ở Việt Nam khi chuyển sang
nền kinh tế theo cơ chế thị trường (lấy KCN Hưng Yên làm đối tượng thể hiện)”;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Ngọc Hưng, với đề tài “Các giải pháp hoàn
thiện và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam”;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Tuyển Cử (thực hiện năm 2004): “Những biện
pháp phát triển và hồn thiện cơng tác quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp ở
Việt Nam”;
9
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Xuân Hinh (thực hiện năm 2003), về
“Quy hoạch và phát triển khu công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”;
Sách chuyên khảo “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực pháp lý
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của
Trương Thị Minh Sâm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hương về “Hồn thiện cơng tác xúc
tiến đầu tư nhằm phát triển các khi công nghiệp ở Việt Nam”;
Các bài viết: “Khu công nghiệp, khu chế xuất với cơ hội đầu tư ở Việt Nam”,
đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo của TS Phạm Quang Châu; và “Đầu tư vào
Hưng Yên - tiềm năng và cơ hội”, đăng trên Tạp chí Kinh tế - Hội nhập của tác giả
Hà Thuỷ; v.v…
Các cơng trình nói trên có giá trị tham khảo rất bổ ích đối với tác giả luận văn;
tuy nhiên chưa đi sâu vào việc đánh giá, phân tích tác động của các KCN đối với sự
phát triển KT - XH của tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ tác động của các KCN hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với
sự phát triển KT - XH địa phương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy và nâng cao tác động tích
cực của các KCN ở tỉnh Hưng Yên đối với sự phát triển có KT - XH của địa
phương trong giai đoạn sắp tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về KCN và một số kinh nghiệm thực
tiễn trong nước về việc hình thành, phát triển các KCN;
- Tập hợp, xử lý, phân tích các tài liệu, các số liệu thống kê để làm rõ những
tác động chủ yếu của các KCN hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với sự phát triển KT XH, những mặt được, chưa được và các nguyên nhân tương ứng.
- Làm rõ căn cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng và đề xuất các
giải pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các KCN hiện đang hoạt động tại tỉnh Hưng Yên và những tác động chủ yếu
của chúng.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát quá trình hình thành, phát triển và phân tích những tác động chủ
yếu của các KCN đến sự phát triển KT - XH ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm
2005; bàn các giải pháp tương ứng cho giai đoạn 2006 - 2010 và đặt trong tầm nhìn
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để khảo sát đối tượng nghiên cứu và đạt được mục đích, nhiệm vụ đã xác
định, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, áp dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, đối chiếu và so sánh, kết hợp logic với lịch sử, khảo sát thực tế,...
Cơng trình này có sử dụng số liệu thống kê của trung ương và địa phương;
chắt lọc, tham khảo các kết quả nghiên cứu đã có về các KCN.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn khái niệm, vai trò của KCN trong nền kinh tế thị
trường; bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, thành phố
trong nước về phát triển các KCN.
- Làm rõ những tác động chủ yếu của các KCN hiện có tại tỉnh Hưng Yên
đến sự phát triển KT - XH ở giai đoạn 1997 - 2005.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp thúc đẩy các KCN của
tỉnh Hưng Yên phát triển hợp lý và có hiệu quả hơn trong giai đoạn 2006 - 2010 và
các năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương và 8 tiết:
Chương 1: Khu cơng nghiệp: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn;
Chương 2: Các khu cơng nghiệp hiện có tại tỉnh Hưng Yên - lịch sử hình
thành, phát triển và những tác động chủ yếu của chúng;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động của các khu công
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2020.
11
Chương 1
KHU CÔNG NGHIỆP: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TRONG NƯỚC
1.1. Khu cơng nghiệp nhìn dưới góc độ lý luận
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
Trong khuôn khổ của luận văn, dưới đây chúng tôi tập trung làm rõ hơn khái
niệm về khu chế xuất, và khái niệm về khu công nghiệp.
1.1.1.1. Khu chế xuất
Sau chiến tranh thế giới thứ II, vào thập kỷ 60, từ những thay đổi trong môi
trường kinh tế - kỹ thuật của nền kinh tế thế giới, xu hướng tồn cầu hóa diễn ra với
quy mơ và tốc độ ngày càng lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa thương
mại và đầu tư. Trước những tác động khách quan đó, các nền kinh tế ngày càng phụ
thuộc vào nhau nhiều hơn và hầu hết đều có xu hướng mở cửa theo quỹ đạo của nền
kinh tế thị trường.
Tại các nước công nghiệp phát triển, đã xuất hiện một loạt yếu tố làm giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Trong khi đó, các nước
đang phát triển vừa mới giành được độc lập dân tộc lại ở trong tình trạng rất khó
khăn, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Trong tình hình nói trên, đã
xuất hiện “sự gặp nhau” về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Sự thơi thúc tìm kiếm nguồn nhân công và nguyên liệu giá rẻ
đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng
nhiều lao động và tài nguyên ra nước ngoài, đến các nước đang phát triển có khá
sẵn những yếu tố này. Đối với các nước đang phát triển, việc thu hút vốn đầu tư,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển trở thành một giải pháp
lớn, có tính “cứu cánh” để giải quyết những vấn đề kinh tế bức xúc và để tạo đà
tăng trưởng cho tồn bộ nền kinh tế.
Các KCX chính là một hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng
và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng, bằng cách
tham gia tích cực vào phân cơng lao động quốc tế. Xét về mặt lợi ích và hiệu quả
12
theo lý thuyết về lợi thế so sánh, và như đã được thực tiễn mấy thập kỷ gần đây
kiểm chứng, KCX là nơi hội tụ lợi ích của các nước đang phát triển và của các công
ty xuyên quốc gia, nơi hội tụ chủ yếu nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các KCX được thành lập nhằm tạo ra một khu vực chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của nước nhận đầu tư. Thuật
ngữ KCX được hiểu theo nhiều cách khác nhau; điển hình nhất là định nghĩa của Tổ
chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) và của Hiệp hội Các KCX thế
giới (WEPZA).
Theo quan điểm của UNIDO, trong tài liệu “KCX tại các nước đang phát
triển” (Export Processing Zone in Developing Countries) cơng bố năm 1990 thì
“KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia, nhằm
mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách
cung cấp cho ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận
lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là
KCX cho phép nhập khẩu cho sản xuất để miễn thuế ” [7].
Theo Điều lệ hoạt động của WEPZA: “Khu chế không chỉ bao gồm khu vực
cơng nghiệp chun mơn hóa sản xuất, mà cịn bao gồm tất cả các khu vực được
chính phủ các nước cho phép như khu cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu quá
cảng...” [7], “ hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA
công nhận”. Như vậy, theo khái niệm này, KCX được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước nhận đầu tư cho phép như cảng tự
do, khu mậu dịch, khu vực ngoại thương tự do, những khu vực được miễn thuế.
Khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan điểm mới như khu kinh tế mở,
đặc khu kinh tế, phù hợp với nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và
đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, cũng như xuất phát từ những nhu cầu bức
thiết của quá trình cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các nước đang phát
triển.
KCX là mơ hình kinh tế mà các nước đang phát triển, nhất là các nước châu
Á đã sử dụng như một cơng cụ tích cực nhằm thu hút đầu tư nước ngồi, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Thông qua việc sử dụng các KCX, các nước
đang phát triển đã tìm thấy ở mơ hình kinh tế này một giải pháp trung gian phù hợp,
cho phép chuyển mạnh nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu. Đối với mục tiêu
13
thành lập KCX nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, tăng trưởng xuất khẩu, tạo
cơng ăn việc làm, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản
lý của các công ty xuyên quốc gia, thì mơ hình KCX đã từng là một thực thể kinh tế
năng động, phản ánh những biện pháp kinh tế, chính sách, luật pháp đặc biệt nhằm
tăng trưởng kinh tế, từng bước đưa các nước đang phát triển hòa nhập vào nền kinh
tế thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả các KCX đã được thành lập tại các nước
đều hoạt động thành công, do nhiều nguyên nhân dẫn đến những thất bại, trong đó có
thể kể tới:
- Có quá nhiều KCX được thành lập ở một số nước gần nhau, tập trung với
mật độ cao trong một khu vực có những điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý gần giống
nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Ngoài mục tiêu xuất khẩu, các nước có KCX đều hy vọng sẽ tạo ra nhiều
công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến của nước ngồi.
Trên thực tế các mục tiêu này khơng dễ đạt được.
- Do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hóa và nguồn thu ngoại tệ, đồng thời phải
bảo hộ nền sản xuất trong nước, các nước đều buộc các doanh nghiệp trong KCX
phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Điều này dẫn đến các
doanh nghiệp trong KCX buộc phải cạnh tranh khốc liệt trong việc tìm kiếm thị
trường tiêu thụ ở nước ngồi, trong khi đó họ bị khép kín theo quy chế KCX đối với
thị trường nội địa, nơi có nhu cầu tiêu thụ tương đối lớn.
Các KCX nhìn chung đã có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế của nhiều nước
đang phát triển. Tuy nhiên, theo xu hướng tự do hóa đầu tư và tự do hóa thương mại
ngày càng tăng, thì vai trị của mơ hình KCX đã giảm dần, phải nhường bước cho
mơ hình mới thích hợp hơn.
1.1.1.2. Khu cơng nghiệp
Sau một thời gian phát triển, mơ hình kinh tế KCX đã bộc lộ một số hạn chế
như đã trình bày ở trên. Để khắc phục những hạn chế này, nhiều nước đã chuyển
sang xây dựng một loại hình kinh tế uyển chuyển hơn, năng động hơn - đó là KCN.
Sự thay đổi này là phù hợp với xu thế phát triển và mở cửa của nền kinh tế thị
trường thế giới và quan hệ hợp tác kinh tế hiện đại.
Với mô hình KCN, thị trường nội địa của nước nhận đầu tư được tính đến
như là một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ
14
yếu, bằng việc nới lỏng cho họ nhiều quy chế. Với mơ hình kinh tế này, thị trường
nội địa trở thành yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, hứa hẹn tiềm năng tiêu
thụ rất lớn, trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên bão hòa với những sản
phẩm của các doanh nghiệp trong KCX, vốn tương đối giống nhau cả về chủng loại
và chất lượng. Bên cạnh đó, việc mở rộng thị trường nội địa là phù hợp với xu
hướng tự do mậu dịch khu vực và thế giới.
Việc hàng hóa của các doanh nghiệp trong KCN được tiêu thụ trong nước
góp phần đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài. Đây là yếu tố kích thích
cạnh tranh, nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa ra nước ngồi, do khơng bị sức
ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngồi; đồng thời, do có những điều
kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với KCX, nên mơ hình kinh tế KCN cũng được các
nhà đầu tư trong nước đặc biệt quan tâm.
Trên thế giới hiện nay, nhìn tổng thể, có hai loại mơ hình KCN khác nhau,
tùy vào điều kiện cụ thể của từng nước.
- Loại thứ nhất: là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp,
dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phịng, nhà ở... Loại hình
này về thực chất là những khu hành chính - kinh tế, điển hình là một số KCN ở
Indonesia, Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Loại thứ hai: là khu vực lãnh thổ, có giới hạn nhất định, tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất cơng nghiệp, khơng có dân cư sinh
sống. Nơi có nhiều KCN theo loại hình này là Singapore; ngoài ra, ở Đài Loan và
một số nước khác cũng có một số khu theo mơ hình tương tự và đã hoạt động khá
thành công.
Đối với Việt Nam, khái niệm về KCN và một số thuật ngữ có liên quan,
được quy định tại Chương I và Chương II Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao,
ban hành kèm theo Nghị định số 36-NĐ/CP, ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính
phủ.
Theo đó, KCN được xác định “là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư sinh sống; do Chính phủ
15
hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có doanh nghiệp
chế xuất” [4].
Qua thực tiễn hơn 15 năm phát triển các KCN ở Việt Nam, có thể nhận thấy
KCN là một loại hình kinh tế đặc biệt, có tính đặc thù là sử dụng nhiều đất đai, thời
gian tồn tại lâu dài (50 năm), có ảnh hưởng sâu rộng đến KT - XH và đặc biệt là
môi trường. Vấn đề xây dựng các KCN thân thiện với môi trường, phục vụ phát
triển KT - XH một cách bền vững đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều đáng
chú ý là, gần đây trên thế giới đã xuất hiện thuyết sinh thái công nghiệp, và nhiều
nước đã coi trọng, áp dụng. Trong KCN sinh thái, cơ sở hạ tầng công nghiệp được
thiết kế sao cho chúng có thể tạo thành một chuỗi những hệ sinh thái, hòa hợp với
hệ sinh thái tự nhiên trên tiểu vùng địa lý, và rộng hơn là trên toàn lãnh thổ của một
nước. Mục đích của KCN sinh thái là nhằm xây dựng một hệ công nghiệp, gồm
nhiều nhà máy hoạt động độc lập, nhưng kết hợp với nhau một cách tự nguyện, hình
thành quan hệ cộng sinh giữa các nhà máy với nhau và với môi trường. Như vậy,
các nhà máy trong KCN sinh thái cố gắng đạt được những lợi ích kinh tế và hiệu
quả bảo vệ môi trường chung, thông qua việc quản lý hiệu quả nguồn năng lượng,
nước và nguyên liệu sử dụng [8].
Trên đây là khái niệm về KCN mang tính truyền thống, cũng như các quan
niệm mới về KCN trong thời gian gần đây. Từ việc nghiên cứu và tham khảo các tài
liệu trong nước và của nước ngồi, có thể đi đến một khái niệm mang tính tổng quát
về KCN, phù hợp với điều kiện của Việt Nam:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp,
phục vụ cho tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, khơng có
dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập, được hưởng
những ưu đãi thích hợp về sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, có cơ sở hạ tầng thuận lợi
đảm bảo phục vụ cho việc sản xuất và cung cấp các dịch vụ liên quan, bảo đảm sự
phát triển bền vững.
1.1.2. Những tiêu chí cơ bản của một khu cơng nghiệp trong nền kinh tế
thị trường hiện đại
1.1.2.1. Quy hoạch, lựa chọn địa điểm xây dựng, phát triển các khu công
nghiệp
16
Việc quy hoạch, lựa chọn địa điểm, quy mô và phân kỳ sử dụng đất KCN là
những nội dung rất quan trọng, có tác động trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả
hoạt động của KCN. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, việc xác định vị trí của
KCN cần gắn với thị trường tiêu thụ, thị trường cung ứng nguyên vật liệu, đáp ứng
các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, có thị trường cung ứng vốn, nguồn nhân
lực, chuyển giao công nghệ. Nguyên tắc tối ưu để xây dựng KCN là phải ở gần sân
bay, bến cảng, các trục giao thơng chính. Trong các yếu tố này, vị trí của cảng biển
là quan trọng nhất, nhằm giảm chi phí vận chuyển, giảm mạnh giá thành của các
hàng hóa, nguyên liệu xuất nhập khẩu, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Đồng thời các cầu
cảng, sân bay, trục giao thông phải nằm trên địa điểm thuận lợi, nối liền với các
trung tâm dân cư và kinh tế quan trọng của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất.
Đối với các nhà đầu tư, tính hợp lý về địa điểm xây dựng KCN là yếu tố
quan trọng hàng đầu mà họ quan tâm trước khi đi đến các quyết định đầu tư. Hiện
nay, để tăng sức cạnh tranh và hạ giá thành sản phẩm, hầu hết các nhà sản xuất và
lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh đều áp dụng phương pháp tồn kho JIT (Just in
time). Do đó, nếu các nhà máy sản xuất linh kiện và bán thành phẩm không được
đặt tại các vị trí thuận lợi, thì khó có thể nhận được những đơn đặt hàng lớn, từ đó
ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, khoảng cách giữa các
KCN và thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất
còn là nhân tố quyết định thời gian và chi phí vận chuyển, do đó ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm, ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường nội địa cũng như trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, đối với tình hình điều kiện của Việt Nam, vị trí của KCN cịn tùy
thuộc vào tính chất sản xuất, kinh doanh, cơ cấu sản xuất của mỗi KCN, để lựa chọn
địa điểm xây dựng thích hợp. Tuy nhiên, việc lựa chọn địa điểm cho các KCN lại
phải đặt trong mối quan hệ với việc giữ các vùng đất tốt phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, kết hợp với yêu cầu xây dựng nông thôn mới, với an ninh - quốc phòng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, địa điểm xây dựng các KCN đều phải được
lựa chọn trên cơ sở quy hoạch tổng thể về phát triển KT - XH của các địa phương,
vùng lãnh thổ, gắn mục đích phát triển kinh tế của địa phương với chuỗi liên kết
kinh tế, không chỉ trong phạm vi trong nước và còn phải đặt trong mối quan hệ với
17
việc mở rộng quan hệ thương mại ra thế giới. Từ đó, Nhà nước và chính quyền các
địa phương phải có những đầu tư thích đáng để phát triển hạ tầng kỹ thuật bên ngồi
hàng rào KCN, những cơng trình có nhu cầu đầu tư vốn lớn, mà chỉ Nhà nước mới
có thể thực hiện được, nhằm tạo tiền đề thuận lợi cho các doanh nghiệp nghiên cứu
khả thi, quyết định địa điểm đầu tư, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh tại các
KCN đã được quy hoạch.
1.1.2.2. Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp
a) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng KCN bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội;
trong đó kết cấu hạ tầng kỹ thuật là thành phần quan trọng nhất, thúc đẩy sự phát
triển và phân bổ lực lượng sản xuất, trao đổi thông tin, giao lưu văn hóa giữa KCN
với các vùng trong và ngồi nước. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải được đầu tư trước
để làm tiền đề cho mọi hoạt động phát triển KT - XH, thu hút và sử dụng được vốn
đầu tư trong và ngoài nước.
Trong kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông là một bộ phận quan trọng, có vai
trị đặc biệt cho phát triển vùng, phục vụ vận tải hành khách và hàng hóa. Giao
thơng là điều kiện, là tiền đề tiên quyết đối với việc hình thành và phát triển các
hoạt động, các mối quan hệ ở trong KCN và các vùng bên ngoài.
Bên cạnh những vấn đề đã nêu, hiện tượng di chuyển lực lượng lao động từ
nơi thừa đến nơi thiếu lao động là không tránh khỏi. Cùng với tác động của những
hoạt động sản xuất công nghiệp, cung ứng dịch vụ cho các KCN tạo nên những áp
lực về cơ sở hạ tầng cho các khu vực có KCN. Điều này địi hỏi những nhà quy
hoạch, xây dựng KCN phải có tầm nhìn dài hạn, để đảm bảo cho các KCN hoạt
động có hiệu quả cao.
Đối với các KCN, việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật là để tạo một môi
trường đầu tư thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư, giúp họ có thể nhanh chóng bắt tay
vào xây dựng cơ bản, tiết kiệm thời gian và chi phí để tập trung vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nếu những yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngồi hàng rào
KCN như hệ thống giao thơng, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc... không phát
triển một cách đồng bộ, thì cho dù các cơng trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào có
phát triển và thuận tiện như thế nào, cũng khó hấp dẫn được các nhà đầu tư.
b) Cơ sở hạ tầng xã hội, dịch vụ khu công nghiệp
18
Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các nhóm chức năng như hành chính, chính trị,
thương nghiệp, dịch vụ các loại, văn hóa xã hội, giáo dục đào tạo, dạy nghề, các cơ
sở nghỉ ngơi giải trí... Như vậy, cơ sở hạ tầng xã hội đối với các KCN liên quan trực
tiếp đến điều kiện về nhà ở, các cơng trình y tế, văn hóa, dịch vụ cơng cộng, cây
xanh, cơng viên, mặt nước...
Sự hình thành và hoạt động của các cơ sở sản xuất cơng nghiệp có mật độ
cao tại các KCN thường tạo ra những tác động lớn đến dân cư các khu vực xung
quanh; tác động đến phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cịn là cơ sở hạ tầng xã hội
của tồn khu vực. Trong q trình cơng nghiệp hóa, các vùng cơng nghiệp có mật
độ cao các cơ sở cơng nghiệp tập trung thường là nơi tạo ra nhiều cơ hội tìm tiếm
việc làm, mang lại thu nhập cao hơn hẳn khu vực nơng nghiệp và các khu vực xung
quanh. Vì vậy, di dân là hiện tượng tất yếu diễn ra, đặc biệt là tại các vùng có KCN,
gây nên những khó khăn cho công tác quản lý nhân khẩu, trật tự, an ninh và những
vấn đề xã hội khác. Mặt khác, tuy lựa chọn được cơng việc có thu nhập, nhưng do
tác động của cơ chế thị trường, nguy cơ các doanh nghiệp phá sản, sa thải công
nhân luôn tiềm ẩn; và điều đó sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến trật tự an ninh
xã hội, làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. Do vậy, những tác động do việc di dân đến
các KCN phải được cân nhắc kỹ lưỡng khi quy hoạch, xây dựng các KCN. Đặc biệt,
rất cần những thiết chế văn hóa và điều kiện sinh hoạt để đáp ứng nhu cầu đa dạng
của người lao động trong KCN, để giải quyết tốt những vấn đề xã hội, đảm bảo cho
nguồn lao động luôn được cung ứng một cách dồi dào, có chất lượng và bền vững.
Phát triển các KCN phải gắn với phát triển vùng, phát triển đô thị công nghiệp.
Do vậy, trong quy hoạch các KCN, phải đặc biệt quan tâm đến phát triển cơ sở hạ
tầng xã hội. Việc quy hoạch xây dựng các KCN phải bảo đảm đồng bộ về cơ sở hạ
tầng, trước hết là các khu dân cư, đồng thời các cơ sở dịch vụ công cộng để đáp ứng
nhu cầu phục vụ hiện tại và tính đến khả năng phục vụ lâu dài trong tương lai.
1.1.2.3. Chất lượng của các nguồn lực bên trong khu cơng nghiệp
a) Trình độ khoa học công nghệ
Thực tiễn cho thấy, việc tiếp nhận những thành tựu khoa học - công nghệ
trong các KCN có nhiều ưu thế hơn hẳn so với các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở
ngoài KCN. Các nhà đầu tư ở các KCN thường được hưởng một số chính sách ưu
đãi đặc biệt, nhờ đó họ có điều kiện thuận lợi hơn để phát huy mọi lợi thế. Các
KCN là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu phát triển của khoa
19
học - công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại của quốc tế vào quá trình sản
xuất; tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu,
tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế [13].
Với những lợi thế nêu trên, phần lớn các KCN là điểm đến lý tưởng của các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Một kết quả tất yếu - KCN sẽ là nơi tiếp nhận
những công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới. Đây là nhân tố quan trọng
góp phần thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, rút ngắn khoảng cách
chênh lệch về trình độ cơng nghệ giữa các nước, góp phần chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH.
Trong q trình hình thành và phát triển, ban đầu các KCN ra đời là nhằm
tạo ra một khu vực tập trung có quy chế riêng, năng động và thơng thống hơn so
với môi trường kinh doanh chung của nền kinh tế, tận dụng tối đa các lợi thế so
sánh, đặc biệt là về giá đất, nguồn nhân lực. Tuy nhiên, xét về dài hạn và đặc biệt là
đặt trong mối quan hệ với xu hướng phát triển của tự do đầu tư, tự do thương mại
trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thì vai trị của các KCN phải được quan niệm
hồn tồn khác. Chẳng hạn, khi mơi trường kinh doanh chung thơng thống dần,
các rào cản về hành chính đối với sự phát triển dần được gỡ bỏ, đất nước hội nhập
sâu hơn vào các sân chơi chung mang tính quốc tế, các yếu tố có lợi thế so sánh ban
đầu như giá th đất, giá nhân cơng... khơng cịn nữa, thì các KCN phải đạt tới trình
độ tập trung hóa, chun mơn hóa ở mức cao, có khả năng xử lý tốt các chất phát
thải công nghiệp, để bảo vệ môi trường tốt nhất, hiệu quả nhất. Đặc biệt trong giai
đoạn này, các KCN phải là nơi hội tụ của các công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới,
sản xuất ra những sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, góp phần rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ cơng nghệ, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH;
góp phần đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, hiện
nay nhiều nước đang phát triển rất coi trọng việc xây dựng các khu công nghệ cao.
Tuy nhiên, để tạo ra những bước đột phá, chiến lược phát triển các khu công nghệ cao
cần phải có một sự phân tích kỹ lưỡng, nhằm tìm ra một hướng đi phù hợp.
b) Trình độ, cơ cấu nguồn nhân lực
Khi lựa chọn KCN, các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm đến khả năng cung cấp
lao động tại các KCN. Đánh giá về khả năng này của các KCN, các nhà đầu tư
thường xem xét trên các khía cạnh như: số lượng, chất lượng của lao động, giá cả và
các quy định của Nhà nước về lao động... Tuy nhiên, việc sử dụng lao động của các
20
doanh nghiệp KCN hồn tồn phụ thuộc vào trình độ công nghệ, ngành nghề sản
xuất... của bản thân các doanh nghiệp đó.
Trong thời gian đầu, khi các KCN mới hình thành và phát triển, các doanh
nghiệp KCN thường tận dụng triệt để những lợi thế so sánh, cũng như những ưu đãi
của nước sở tại dành cho các nhà đầu tư: giá thuê đất thấp, giá nhân công rẻ. Để tận
dụng tốt những lợi thế này, ở những giai đoạn khởi nghiệp, công nghệ được sử dụng
trong các doanh nghiệp KCN thường là những công nghệ sử dụng nhiều lao động.
Tuy nhiên, mục đích phát triển của các KCN tại các nước đang phát triển không
phải chỉ như vậy. Một chính sách phát triển, quy hoạch tốt các KCN khơng chỉ giải
quyết tốt các vấn đề về ngắn hạn, mà đặc biệt phải chú trọng đến các định hướng
dài hạn - đó là tạo ra một lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao, có tri thức,
kỹ năng và trình độ thích ứng cho một nền đại cơng nghiệp, thu hẹp khoảng cách
chênh lệch về trình độ cơng nghệ, trình độ lực lượng sản xuất, phục vụ tốt cho định
hướng CNH, HĐH đất nước. Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quá trình phát
triển các KCN, khi các lợi thế so sánh dần mất đi, do tác động của các KCN đến
những yếu tố nội tại nền kinh tế, các doanh nghiệp KCN sẽ áp dụng những công
nghệ tiên tiến, sử dụng lao động có trình độ cao, sản xuất những sản phẩm có tỷ
trọng giá trị gia tăng ngày càng lớn. Điều này dẫn đến sự chuyển biến mạnh mẽ về
trình độ, cơ cấu nguồn nhân lực của các nước sở tại, và theo đó, nhu cầu về lao
động trình độ cao của các doanh nghiệp KCN cũng tăng dần lên.
Do vậy, ở tầm vĩ mô, phải xây dựng và thực hiện một chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo, dạy nghề trình độ cao để cung cấp cho nền kinh
tế quốc dân, trong đó có các KCN. Đặc biệt, phải có chiến lược và chương trình đào
tạo, dạy nghề thay thế cho lao động và chuyên gia là người nước ngoài trong các
KCN. Bên cạnh đó, định hướng dài hạn phải tập trung phát triển thị trường lao động
trình độ cao, trong đó cần ưu tiên cho các KCN. Vấn đề quan trọng ở đây, là Nhà
nước phải có chính sách lao động nhằm đối xử cơng bằng giữa các loại hình doanh
nghiệp. Trong đó, tiền lương phải do thị trường quyết định, phải dựa trên cơ sở thoả
thuận giữa hai bên, nhưng về nguyên tắc, phải tính đến quan hệ cung - cầu lao động.
Ngồi ra, phải hình thành và vận hành có hiệu quả cơ chế hợp tác, đối thoại,
thương lượng, thoả thuận giữa các bên trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp
thuộc các KCN đúng với nguyên tắc thị trường. Hồn thiện và nâng cao vai trị của
tổ chức đại diện của các bên, nhất là phát triển và nâng cao năng lực của tổ chức
cơng đồn doanh nghiệp trong KCN. Thực hiện chương trình an sinh xã hội và phúc
21
lợi xã hội trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia đối với lao động KCN. Trong đó,
đặc biệt quan tâm đến tổ chức quản lý hành chính khu dân cư ngồi hàng rào KCN;
thực hiện xã hội hố vấn đề cung cấp dịch vụ nhà ở cho người lao động; Nhà nước
phải tổ chức tốt hệ thống cung cấp các dịch vụ phúc lợi công cộng ở khu dân cư, nơi
lao động KCN sinh sống (nước, điện, văn hố, thơng tin, giải trí…) khơng vì mục
tiêu lợi nhuận…
1.1.2.4. Cơ chế quản lý, những chính sách đầu tư, ưu đãi
a) Cơ chế quản lý các khu công nghiệp
Yếu tố quan trọng làm nên thành công về phát triển KCN ở một số nước
châu Á phụ thuộc rất đáng kể vào các khuyến khích và phương tiện dành cho các
nhà đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà. Những biện pháp này bao gồm những
khuyến khích về tài chính, thuế,... và cơ chế quản lý, điều hành có hiệu lực trong
các KCN.
Một trong những điều thiết yếu mà các nhà đầu tư trơng chờ tại các KCN là
độ thơng thống, linh hoạt về các thủ tục hành chính so với các khu vực khác trong
nước. Ở hầu hết các KCN hoạt động thành công, mọi công việc liên quan đến đầu tư
của các doanh nghiệp được giải quyết thông qua cơ chế "một cửa". Vì thế, các nước
đi sau như Việt Nam phải ưu tiên hoàn thiện cơ chế và phương thức quản lý KCN
theo hướng tăng cường cơ chế "một cửa, tại chỗ" nhằm tạo môi trường thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong KCN. Theo cơ chế này, các nhà đầu tư khi có nhu cầu,
chỉ cần đến BQL các KCN để giải quyết các thủ tục một cách nhanh chóng, tiện lợi.
Cơ chế "một cửa, tại chỗ" trong quản lý các KCN nếu được thực hiện một cách triệt
để, sẽ góp phần tạo động lực phát triển mạnh các KCN. Cơ chế "một cửa, tại chỗ" do
BQL KCN thực hiện theo nhiệm vụ, quyền hạn được Chính phủ quy định và thông
qua cơ chế ủy quyền của các bộ, ngành và của UBND tỉnh để thực hiện một số
nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư, xây dựng, tài chính, thương
mại, lao động… trong các KCN.
Bên cạnh cơ chế được ủy quyền từ các bộ, ngành Trung ương và của UBND
tỉnh, BQL KCN phải chủ động phối hợp với các sở, ngành có liên quan của địa
phương để hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Việc phối
hợp này góp phần để cơ chế "một cửa, tại chỗ" được thực hiện hiệu quả. Như vậy,
BQL KCN là cơ quan quản lý hành chính trực tiếp; cịn các sở, ngành quản lý chuyên
môn, nghiệp vụ trên địa bàn là các đầu mối phối hợp.
22
Cùng với sự năng động trong quản lý và điều hành, "xem khó khăn của nhà
đầu tư như khó khăn của chính mình". BQL KCN phải áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng quốc tế trong chuyên môn, ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào những
cơng đoạn cụ thể, tích cực cải tiến phương thức, lề lối làm việc, tiến hành đồng bộ
các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả, tăng cường hiệu lực chỉ đạo điều
hành, rút ngắn thời gian so với quy định.
b) Những chính sách ưu đãi, đầu tư đối với các KCN
Thông thường, các KCN được thành lập đều đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu
địa lý thuận lợi; bảo đảm về kết cấu hạ tầng, nhất là cung cấp điện, nước, lao động...
Nhưng, lực hút thực sự đối với các nhà đầu tư lại là các chính sách, chế độ ưu đãi áp
dụng cho các KCN. Do vậy, chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư tại các KCN có
sức hẫp dẫn mạnh, là nhân tố hết sức quan trọng để phát huy những lợi thế của các
KCN. Những chính sách ưu đãi đầu tư thường được Nhà nước ban hành và được thực
hiện thống nhất tại các KCN trên phạm vi toàn quốc. Mặt khác, mỗi địa phương, tùy
thuộc vào đặc điểm về địa lý và KT - XH, cũng có những ưu đãi đầu tư khác nhau với
mục đích tạo ra một mơi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các nhà đầu tư khai
thác triệt để, hiệu quả những lợi thế so sánh của địa phương. Những chính sách này là
sự cụ thể hóa những chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng được vận dụng linh hoạt
và thông thoáng hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Thông
thường, các ưu đãi được áp dụng trong các KCN là:
Ưu đãi về giá thuê đất và các tiện ích: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
chi phí đầu vào, giá thành và khả năng cạnh tranh về giá cả sản phẩm dịch vụ, từ đó
ảnh hưởng đến lợi nhuận, hiệu quả dự án của nhà đầu tư. Giá thuê đất và các tiện
ích của doanh nghiệp trong các KCN được tính tốn trên cơ sở các loại chi phí: đầu
tư vào kết cấu hạ tầng KCN; đền bù giải phóng mặt bằng; chi phí quản lý; phí duy
tu bảo dưỡng kết cấu hạ tầng, phí xử lý nước thải, chất thải, giá điện nước, thông tin
liên lạc, trả lãi vay ngân hàng... Vấn đề đặt ra là, nếu ấn định giá thuê đất thấp và ổn
định lâu dài, sẽ dẫn đến tình trạng thu hồi vốn chậm, đòi hỏi ngân sách địa phương
phải bù lỗ; còn nếu định giá cao ngay từ giai đoạn đầu thì giảm khả năng cạnh
tranh, khơng thu hút được các dự án lớn đầu tư vào KCN. Bởi vậy, trong giá thuê
đất nên quy định chi tiết, bao gồm giá thuê đất thô và giá thuê đất đã được đầu tư
kết cấu hạ tầng. Giá thuê đất có thể tính tốn phù hợp với từng giai đoạn, căn cứ vào
mức độ hoàn thiện của kết cấu hạ tầng KCN, điều kiện phát triển hạ tầng bên ngồi,
trình độ phát triển KT - XH của địa phương.
23
Ưu đãi về tài chính: Nội dung này bao gồm khuyến khích tài chính và thuế
thu nhập cơng ty, trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp khấu hao nhanh tư liệu sản xuất, trợ cấp
lãi suất vay vốn tín dụng, trợ cấp một phần chi phí tài sản cố định và đào tạo công
nhân, trợ cấp thuế giá trị gia tăng... Tuy nhiên, yêu cầu hết sức quan trọng trong
việc áp dụng các ưu đãi về tài chính đối với các doanh nghiệp trong KCN, là phải
nhất quán, công khai và minh bạch, tránh tình trạng "xin - cho", tiêu cực.
1.2. Tác động của các KCN đến sự phát triển kinh tế - xã hội nhìn trên
bình diện tổng quát
1.2.1. Tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và tác động lan
tỏa đối với các doanh nghiệp trên địa bàn
1.2.1.1. Khu công nghiệp với hạt nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi và tác động đến việc đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp trong
nước
Khu công nghiệp, với hạt nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi, thường có tác động mạnh mẽ đến đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp
trong nước. Xét một cách tổng thể, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ngày
càng khẳng định vai trị của mình trong nền kinh tế các nước đang phát triển - nơi
đang áp dụng mơ hình kinh tế các KCN. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy,
việc áp dụng mơ hình kinh tế các KCN thường thúc đẩy hoạt động chuyển giao
công nghệ phát triển nhanh, cả về phạm vi và tốc độ. Cùng với sự phát triển của các
KCN, một số lượng không nhỏ các công nghệ tiên tiến được chuyển giao và ứng
dụng trong nhiều ngành công nghiệp của nước nhận đầu tư.
Chuyển giao cơng nghệ từ khu vực đầu tư nước ngồi tới doanh nghiệp trong
nước có ảnh hưởng lâu dài, đóng góp tích cực vào việc tăng năng suất trong các
ngành cơng nghiệp của nước sở tại. Có thể thấy một xu hướng đang nổi rõ, là việc
mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài đi liền với sự đổi mới và chuyển giao công nghệ
cho doanh nghiệp trong nước [23]. Tuy nhiên, mức độ chuyển giao công nghệ của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tới doanh nghiệp nước chủ nhà hoàn
toàn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ cơng nghệ và tiềm lực tài chính của doanh
nghiệp.
1.2.1.2. Tác động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa
bàn
Bản thân sự hiện diện của khu vực đầu tư nước ngoài đã là một tác nhân thúc
đẩy cạnh tranh, và trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến tình trạng giảm sút sản
24
lượng của doanh nghiệp trong nước, thậm chí có thể buộc doanh nghiệp rời khỏi thị
trường. Tuy nhiên, nếu biết tận dụng trong quá trình sản xuất của mình các hàng
hóa trung gian và các yếu tố khác của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, các
doanh nghiệp trong nước có thể bứt phá để sau đó trực tiếp tiến hành xuất khẩu.
Cuộc điều tra về năng lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất cơng nghiệp do Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
(VCCI) thực hiện gần đây, cho thấy chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu,
13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu, 62% doanh nghiệp hoàn toàn chưa có
khả năng xuất khẩu. Cho dù vài năm gần đây, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam trong nhiều ngành sản xuất đã tăng lên đáng kể, nhưng nhìn chung còn
yếu kém do năng suất lao động chưa cao; chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm
thấp; trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận công nghệ mới hạn chế; chi phí đầu
vào cịn cao, chưa cạnh tranh được với hàng nhập khẩu; thị trường đầu ra cho sản
phẩm chưa ổn định, thiếu bền vững... [23]. Điều đó đặt ra yêu cầu tới đây cần có
biện pháp để vừa thúc đẩy, vừa khai thác hiệu quả tác động lan tỏa tích cực của các
KCN.
1.2.1.3. Về sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
Mối quan hệ giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngồi và cơng nghiệp phụ trợ
trong nước có tính tương hỗ hai chiều và chỉ có thể phát triển bền vững trên ngun
tắc “đơi bên cùng có lợi”. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, dù đặt cơ sở sản
xuất ở đâu, cũng đều cần một lượng lớn các yếu tố đầu vào. Rõ ràng là, nếu sử dụng
các yếu tố này ở ngay nền kinh tế nước sở tại, thì họ sẽ giảm được đáng kể chi phí
sản xuất, đồng thời có thể tập trung nâng cao chun mơn hố, phát huy những thế
mạnh của riêng mình.
Cịn lợi ích của nước chủ nhà thì có thể dễ dàng nhận biết. Trước hết, mối
liên kết với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sẽ làm tăng sản lượng và việc làm của
các nhà cung ứng địa phương. Các liên kết có thể trở thành những kênh có sức
mạnh cho việc nhân rộng tri thức và kỹ năng giữa các công ty. Các liên kết mạnh có
thể kích thích hiệu quả, tăng năng suất, năng lực cơng nghệ và quản lý, đa dạng hố
thị trường cho nhà cung ứng. Mặt khác, chính sự liên kết này thường khuyến khích
các cơng ty liên kết tham gia vào hoạt động xuất khẩu, và trong những điều kiện
hợp lý, các cơng ty trong nước có thể phát triển để trở thành các nhà cung cấp toàn
cầu hoặc trở thành các TNC theo đúng nghĩa. Song phải thấy rằng, không phải lĩnh
vực nào cũng có thể phát triển cơng nghiệp phụ trợ. Trong điều kiện cụ thể hiện nay
25