Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.81 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HỒNG

HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHƠNG GIAM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HỒNG

HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHƠNG GIAM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

HÀ NỘI - năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH
HÌNH PHẠT HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHƠNG GIAM GIỮ TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................................... 8
1.1. Những vấn đề lí luận về hình phạt cải tạo không giam giữ ...................... 8
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam quy định về hình phạt cải tạo không
giam giữ từ năm 1945 đến năm 2015 ........................................................... 21
1.3. Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo quy định trong bộ luật hình sự
một số nước trên thế giới .............................................................................. 26
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ HÌNH
PHẠT CẢI TẠO KHƠNG GIAM GIỮ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI........................................................................ 29
2.1. Những quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt cải tạo
khơng giam giữ theo Bộ luật hình sự 2015 và thi hành hình phạt cải tạo
khơng giam giữ theo pháp luật hiện hành ..................................................... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ tại tỉnh Quảng
Ngãi ............................................................................................................. 38
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG

GIAM GIỮ ................................................ Error! Bookmark not defined.2
3.1. Các giải pháp về tiếp tục hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự
Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ ........................................... 622
3.2. Các giải pháp về kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tư pháp ..................................................................................... 644
3.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 67
KẾT LUẬN ............................................................................................... 722


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCT

: Bộ Chính trị

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTKGG

: Cải tạo không giam giữ


ĐCS

: Đảng cộng sản

ĐTV

: Điều tra viên

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

PL

: Pháp luật

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

THHP


: Thi hành hình phạt

UBND

: Ủy ban nhân dân

VAHS

: Vụ án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXPT

: Xét xử phúc thẩm

XXST

: Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý xét xử của Tòa án nhân dân nhân hai cấp tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2019 ................................................................. 40

Bảng 2.2. Tình hình áp dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ tại tỉnh
Quảng Ngãi trong giai đoạn 2015-2019 ........................................................ 41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật hình sự giữ vị trí quan
trọng, là cơng cụ sắc bén để nhà nước trừng trị những hành vi vi phạm pháp
luật hình sự. Nói đến Bộ luật hình sự là người ta nói đến chế tài của luật
(Hình phạt), một loại chế tài đặc biệt trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế
của nhà nước. Hình phạt cải tạo khơng giam giữ là một trong số bảy hình phạt
chính của pháp luật hình sự Việt Nam. Trong hệ thống hình phạt, hình phạt
CTKGG có lịch sử lâu đời và có vị trí rất quan trọng. Các quy định về hình
phạt CTKGG được quy định là hình phạt chính trong tất cả BLHS Việt Nam,
từ BLHS 1985 cho đến nay hình phạt này vẫn tiếp tiếp tục phát triển và hoàn
thiện ở BLHS 2015.
Thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhất là thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [10] và Chiến lược
cải cách tư pháp mới trong Tòa án nhân dân giai đoạn 2021-2030 [52] đã xác
định mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự là đề cao
hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội,
giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt CTKGG là việc làm cần thiết
phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như phù hợp với yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cùng với các loại hình phạt trong pháp luật hình sự, hình phạt CTKGG
tham gia không chỉ vào việc trừng trị người phạm tội mà cịn có ý nghĩa to lớn
trong vấn đề cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa tội phạm và
giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện

nay nền kinh tế xã hội nước ta bước vào giai đoạn hội nhập sâu và rộng vào
1


nền kinh tế thế giới, đang có những chuyển biến mạnh mẽ bởi vậy mà BLHS
2015 đã có những quy định rất tiến bộ về hình phạt CTKGG. Tuy nhiên, do
BLHS 2015 mới bắt đầu có hiệu lực áp dụng kể từ ngày 01.01.2018, cho đến
nay việc áp dụng hình phạt này còn chưa phát huy được hết những vai trị và
hiệu quả của nó đặc biệt việc áp dụng hình phạt CTKGG trong thực tiễn xét
xử các VAHS là rất ít, khơng đáng kể so với các loại hình phạt khác. Bên
cạnh đó sự hạn chế cịn tồn tại trong các quy định của pháp luật, cịn có những
điểm vướng mắc, mâu thuẫn từ trong chính quan niệm, sự khơng thống nhất,
ít được quan tâm hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền là những nguyên
nhân làm cho hình phạt CTKGG chưa thật sự phát huy được vai trị của nó
trong hệ thống hình phạt hiện nay.
Quảng Ngãi là một thành phố lớn, tình hình tội phạm diễn biến ngày
càng phức tạp, hàng năm số lượng các vụ VAHS được các cơ quan tiến hành
tố tụng phát hiện và đưa ra xét xử ngày càng tăng về số lượng nhưng việc áp
dụng hình phạt CTKGG chiếm tỷ lệ % khơng đáng kể (2,83%), chưa có sự
thống nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu để áp dụng có hiệu quả hình phạt ngày có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Mặt
khác, cùng với chế định tội phạm, chế định về hình phạt là một chế định rất
cơ bản và hết sức quan trọng của luật hình sự, bởi vai trị xã hội và hiệu quả
của luật hình sự phụ thuộc rất lớn vào hình phạt nên việc tiếp tục nghiên cứu
sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề về hình phạt
CTKGG và việc áp dụng hình phạt CTKGG trong thực tiễn; đồng thời, đưa ra
những giải pháp hồn thiện khắc phục những hạn chế góp phần nâng cao hiệu
quả của loại hình phạt này là một nhu cầu địi hỏi khơng chỉ những nhà làm
luật, những người công tác trong hệ thống các cơ quan tư pháp (cơ quan nhà
nước) mà cịn cần có sự tham gia nghiên cứu của những đội ngũ của những

người công tác trong lĩnh vực pháp luật như Luật sư, Luật gia, Trợ giúp viên
2


pháp lý ...
Từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Hình phạt cải tạo khơng
giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm
luận văn thạc sỹ luật là có tính cấp thiết, thời sự khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên tham khảo các cơng
trình nghiên cứu sau đây:
* Các sách chun khảo:
- Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 [24].
- Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Lê Thị Sơn, Nguyễn Ngọc Hịa,
Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2001 [39].
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, do GS.TS. Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2014 [60].
- Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), do PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa – TS.
Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), Nxb Hồng Đức, Hà Nội 2017 [13].
* Các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ:
- Luận án tiến sỹ: “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam’’
của tác giả Nguyễn Sơn, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003 [40].
- Luận án tiến sỹ: “Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Bường, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã hội, 2017 [1].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo
luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Hiền, Đại học Quốc gia Hà Nội
- Khoa luật, 2007 [12].

- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các hình phạt không tước tự do trong luật
3


hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Khánh Hưng, Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa luật, 2010 [18].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Văn Cảnh, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2010 [2].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo
luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của
tác giả Lê Thanh Hùng, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2014 [17].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Phạm Đức Trung, trường
Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2014 [53].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Thi hành hình phạt cải tạo khơng giam
giữ”, của tác giả Nguyễn Thị Thu Ngân, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật,
2016 [22].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn
Thị Thu Thảo, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã
hội, 2017 [42].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan
Thị Minh Thái, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã
hội, 2018 [41].
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn áp dụng “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận, từ đánh giá thực tiễn áp dụng
hình phạt CTKGG trong xét xử các VAHS ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt CTKGG
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề cơ sở lý luận về hình phạt CTKGG và áp
dụng hình phạt này trong xét xử hình sự.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt CTKGG thơng qua các VAHS
được xét xử và thi hành hình phạt này tại tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019, chỉ rõ ưu điểm lẫn những hạn chế, bất cập, nguyên
nhân của những hạn chế.
- Đề xuất, luận giải các quan điểm, giải pháp đảm bảo áp dụng hình
phạt CTKGG trong xét xử các VAHS và trong thi hành án hình phạt này tại
tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn và giải
pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự (Bộ luật hình sự và Bộ luật tố
tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự) có liên quan đến việc áp dụng và thi
hành hình phạt CTKGG tại tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc áp dụng hình phạt Cải tạo khơng giam giữ
trong xét xử các vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi trong khoảng thời gian 5
năm, từ năm 2015 đến năm 2019.


5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về pháp luật hình sự
và hình phạt nói chung, về hình phạt CTKGG nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, cụ thể là các phương pháp nghiên cứu như:
lịch sử, tổng hợp, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, đối chiếu giữa các qui
định của pháp luật hiện hành; phân tích và so sánh các qui định của pháp luật
về cơng tác xét xử án hình sự; phương pháp nghiên cứu tài liệu, hồ sơ vụ án
và bản án hình sự, hồ sơ chấp hành án CTKGG; phương pháp sử dụng ý kiến
các chuyên gia; phương pháp lựa chọn điển hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luận của hình
phạt CTKGG theo luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật
học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cịn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nghiên
cứu, học tập cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên,
học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự hoặc yêu
cầu nâng cao chất lượng của áp dụng hình phạt CTKGG trong hoạt động xét
xử HĐXX và trong thi hành hình phạt CTKGG của Cơ quan thi hành án hình
sự. Nội dung của luận văn cũng có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề
nghiệp, nghiệp vụ xét xử các VAHS cho cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát, cho
đội ngũ Luật sư, Luật gia khi tham gia bảo vệ đương sự (thân chủ - bị cáo)

6


trước phiên tịa và những người làm cơng tác thi hành án hình sự ..., trước yêu
cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay trong quá trình áp dụng hình phạt nói
chung và hình phạt CTKGG nói riêng có căn cứ và đúng PL.
Những giải pháp luận văn đưa ra có giá trị tham khảo cho các cơ quan,
tổ chức trong xây dựng, phát triển hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện
chính sách pháp luật đối với người vi phạm pháp luật hình sự hiện nay trong
điều kiện đổi mới, phát triển ổn định, bền vững và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định hình phạt cải tạo
khơng giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh
Quảng Ngãi
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật hình sự về hình phạt cải tạo khơng giam giữ

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH HÌNH PHẠT
CẢI TẠO KHƠNG GIAM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lí luận về hình phạt cải tạo khơng giam giữ
1.1.1. Khái niệm, đăc điểm của hình phạt cải tạo khơng giam giữ
1.1.1.1. Khái niệm hình phạt

Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao trong
xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc, đấu tranh với tội phạm
là nhiệm vụ tất yếu khách quan đặt ra cho mọi nhà nước, cho dù nhà nước đó
là kiểu nhà nước nào. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
được nhà nước áp dụng và nó trở thành cơng cụ hữu hiệu trong cơng cuộc đấu
tranh phịng chống tội phạm.
Trong lý luận của pháp luật hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về
bản chất, nội dung và mục đích của hình phạt. Tuy nhiên, về cơ bản, hình phạt
được coi là cơng cụ để đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Đây là một quan niệm
tiến bộ và nhân đạo, hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà
còn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa tội phạm. Quan niệm này
về hình phạt thể hiện rõ nét phương châm kết hợp cưỡng chế và giáo dục cải
tạo trong chính sách hình sự, cưỡng chế là khơng thể thiếu nhưng giáo dục,
thuyết phục cũng có vai trị rất quan trọng, nó có ưu thế hơn cưỡng chế ở khả
năng làm cho con người có thể tự nguyện tuân theo và trao cơ hội cho họ sửa
chữa những lỗi lầm vi phạm, như vậy sự đồng tình đó mới thực sự bền vững.
Theo quan điểm này, mục đích cuối cùng được đặt ra là hạn chế, đi đến triệt
tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, tiến tới loại bỏ tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
kế thừa truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc, tiếp thu những tinh hoa tiến bộ
8


của luật hình sự thế giới; đồng thời, có xét đến thực trạng và yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm, ln trao hình phạt, biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước cho Toà án áp dụng đối với người phạm tội. ở
từng giai đoạn khác nhau, những quy định của pháp luật Việt Nam về hình
phạt cũng khác nhau nhưng đều thể hiện rõ tư tưởng: Nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, trừng trị đi đơi với giáo dục, cải tạo. Trong các hình phạt được

luật hình sự quy định, bên cạnh các hình phạt nghiêm khắc như tù chung thân,
tử hình..., thì ln có những hình phạt nhẹ hơn khơng tước bỏ tự do của người
bị kết án như phạt tiền, cảnh cáo, CTKGG và các quy định về miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt v.v.. tạo điều kiện cho người bị kết án hồ
nhập với cộng đồng, giảm chi phí phát sinh khơng đáng có cho xã hội đó là
cái mà luật hình sự hướng tới. Với tinh thần đó, hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam thực sự là cơng cụ hữu hiệu của nhà nước để bảo vệ chế độ, bảo
đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân, của nhà nước.
Bộ luật hình sự năm 1999 là văn bản pháp lý đầu tiên được quy định một
cách chính thức khái niệm hình phạt trong một điều luật, làm cơ sở phân biệt
hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước cụ thể:
Tại Điều 26 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước,
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tồ án quyết
định”. [28].
Cịn theo Điều 30 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng
định về Khái niệm hình phạt
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
9


hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhân thương mại đó” [34].
Theo các khái niệm này có thể thấy nội dung pháp lý của hình phạt là
tước bỏ hoặc hạn chế các quyền và lợi ích của người phạm tội, đó có thể là
các quyền, lợi ích về thể chất tinh thần hay tài sản hoặc các quyền, lợi ích
khác của người phạm tội như: Quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do hành

nghề hay các quyền chính trị khác.., nó thể hiện thái độ của nhà nước đối với
người phạm tội và đối với tội mà người đó thực hiện. Nhà nước, với sự tước
bỏ hoặc hạn chế, một mặt trừng trị lên án người phạm tội, mặt khác nhằm răn
đe giáo dục họ trở thành người cơng dân tốt có ích cho xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm hình phạt cải tạo khơng giam giữ
Trong Bộ luật hình sự khơng có khái niệm pháp lý nào về hình phạt
CTKGG mà chỉ có các quy định về phạm vi, điều kiện áp dụng, nguyên tắc áp
dụng của hình phạt này.
Dưới góc độ lý luận, thì hình phạt CTKGG được định nghĩa như sau:
Phạt CTKGG, là hình phạt khơng buộc người bị kết án phải cách ly với xã hội
(không tước tự do), và buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước
một khoản tiền (khấu trừ thu nhập) nhất định do Tòa án quyết định ghi trong
bản án. Khái niệm này phản ánh đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng cũng như nội
dung pháp lý của hình phạt CTKGG.
Dưới góc độ thực tiễn, thì hình phạt CTKGG được định nghĩa: Hình
phạt CTKGG là một hình phạt được qui định trong Bộ luật hình sự, do Tịa án
áp dụng thông qua việc xét xử đối với người phạm tội nhằm thể hiện trách
nhiệm hình sự lẫn trách nhiệm về vật chất (bị khấu trừ thu nhập) của người đó
đối với hành vi trái pháp luật hình sự mà họ đã gây ra cho xã hội.
Hình phạt CTKGG được luật hình sự quy định do Tồ án áp dụng đối
với người phạm tội, nội dung pháp lý của nó chính là việc Tịa án giao họ cho
10


môt cơ quan hoặc tổ chức quản lý giám sát và thực hiện tước bỏ một phần
một khoản tiền (thu nhập hàng tháng) nhất định của người bị kết án. Với nội
dung đó hình phạt CTKGG là loại hình phạt có khả năng tác động trực tiếp và
mạnh mẽ đến cả đời sống lẫn kinh tế đối với người phạm tội, nó đặc biệt có
hiệu quả trong việc đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV BLHS 2015), như tội

Tội giết cố ý gây thương tích hoặc gây tổ hại cho sức khỏe người khác [Điều
134 BLHS 2015]; các loại tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân (Chương XV BLHS 2015), như Tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật [Điều 157 BLHS 2015] và các loại tội phạm xâm
phạm sở hữu (Chương XVI BLHS 2015), như Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản [Điều 170, 172, 173, 174, 175 BLHS 2015]… và
một số loại tội có tính chất vụ lợi, các tội dùng tài sản làm phương tiện hoạt
động phạm tội, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự an tồn cơng
cộng, trật tự quản lý hành chính... mà chưa đến mức phải áp dụng những loại
hình phạt nghiêm khắc hơn, đồng thời hạn chế việc tước tự do của người bị
kết án khi khơng cần thiết. Về mặt thời gian, hình phạt CTKGG đối với người
phạm tội, thì nhà nước đã tạo cho họ một khoảng thời gian liên tục ở ngoài xã
hội để họ tạo ra của cải vật chất cho gia đình và cho xã hội; mặt khác tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước giảm các chi phí xã hội phát sinh khơng
cần thiết và vẫn đạt được mục đích làm cho người phạm tội thấy được trách
nhiệm của mình đã gây ra mà từ đó tích cực cải sửa để làm người cơng dân tốt
cú ích cho xã hội. Ngoài việc phải chịu sự quản thúc (giám sát) và bị nộp phạt
một khoản tiền (khấu trừ thu nhập) nhất định người bị kết án không phải chịu
bất cứ một sự ràng buộc hay trách nhiệm nào khác ngoại trừ việc mang án
tích như các hình phạt chính khác.
11


Khi áp dụng phạt CTKGG, Toà án cũng nhằm hướng tới những mục
đích chung của hình phạt là trừng trị người phạm tội, giáo dục, cảm biến
người phạm tội và răn đe phòng ngừa tội phạm chung. Với những mức hình
phạt có thể lên đến 03 năm CTKGG và khấu trừ thu nhập hàng tháng của
người phạm tội lên đến 20%. Khả năng trừng trị của phạt CTKGG, là tương
đối nghiêm khắc, cho phép áp dụng đối với nhiều loại tội phạm có mức độ ít

nghiệm trong và nghiêm trọng khác nhau.
Việc quy định hình phạt CTKGG trong luật hình sự đã góp phần đa dạng
hố các hình thức hình phạt, đa dạng hố các biện pháp xử lý hình sự trong
hoạt động phòng và đấu tranh chống tội phạm hiện nay. Quy định hình phạt
cải tạo khơng giam giữ trong hệ thống hình phạt đã rút ngắn, thu hẹp khoảng
cách về mức độ nghiêm khắc giữa hình phạt cảnh cáo, phạt tiền và hình phạt
tù có thời hạn mà khi xét xử Tồ án có thể thực hiện ngun tắc “Nghiêm trị
kẻ chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố chống đối, lưu manh côn đồ, tái phạm nguy
hiểm, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có
tổ chức; đồng thời, khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, lập
công chuộc tội và có vai trị thứ yếu”. Đó cũng là cơ sở pháp lý để Toà án
thực hiện việc xét xử một cách công bằng đối với các trường hợp phạm tội.
Hình phạt CTKGG góp phần thực hiện ngun tắc xử lý có phân biệt và
ngun tắc cá thể hố hình phạt với các trường hợp phạm tội khác nhau về
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Chính sách hình sự của nhà nước
địi hỏi nghiêm trị phải kết hợp với khoan hồng; đối với người lần đầu phạm
tội ít nghiêm trọng, ăn năn hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù. Điều 50 BLHS 2015 quy định: Khi quyết định hình phạt, Toà án phải
căn cứ vào các quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, vào nhân thân của người phạm tội [34]. Tội phạm được thực
12


hiện trong các trường hợp cụ thể có các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khác nhau;
vì vậy, phải quy định các loại hình phạt, trong đó có hình phạt CTKGG để áp
dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.
Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, phạt CTKGG là
loại hình phạt chính, do vậy phạt CTKGG có mức độ nghiêm khắc cao hơn

cảnh cáo và phạt tiền nhưng thấp hơn hình phạt tù có thời hạn (trong đó có án
treo), điều này có thể nhận thấy thơng qua trật tự sắp xếp của các hình phạt
trong hệ thống hình phạt nêu trên [Điều 70 BLHS 2015].
Hình phạt CTKGG khi được áp dụng sẽ tước đi sự tự do nhất định
(người phạm tội phải chịu sự giám sát) và người phạm tội cũng có thể bị kết
án một khoản tiền nhất định để sung công quỹ nhà nước (khấu trừ thu nhập
hàng tháng), người bị phạt CTKGG bị tước đi một phần sự tự do và một phần
quyền lợi vật chất của họ, sự tước đi này tác động đến người bị kết án theo
chiều hướng bất lợi. Phạt CTKGG có thể coi là một loại hình quản chế (quản
thúc) người bị kết án tại một nơi ở nhất định. Cùng với việc áp dụng khấu trừ
thu nhập hàng tháng của người phạm tội, không phải là một biện pháp kinh tế
thuần tuý, khả năng tác động về mặt kinh tế của hình phạt này chỉ là một
thuộc tính vốn có của nó. Mục đích mà hình phạt CTKGG nhắm tới khi áp
dụng đối với người phạm tội cũng chính là mục đích của hình phạt. Đó là cải
tạo và giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, răn đe những
người khác không bước vào con đường phạm tội; tuy nhiên, hình phạt
CTKGG khơng đặt ra mục đích kinh tế, khơng xác định khấu trừ thu nhập
hàng tháng của người bị kết án để tăng thu cho ngân sách nhà nước, mà việc
sung công quỹ nhà nước một khoản tiền thu được của người bị kết án chỉ là
hệ quả do việc áp dụng một loại hình phạt được Bộ luật hình sự quy định.
Hình phạt CTKGG được quy định trong Bộ luật hình sự, chỉ do Toà án,
13


nhân danh nhà nước áp dụng đối với người phạm tội; khi chấp hành xong
hình phạt CTKGG người bị kết án trở thành người có tiền án trong thời hạn 1
năm, nếu không phạm tội mới. Đối với những người bị áp dụng hình phạt
CTKGG, tuy có điều kiện và đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết
như khấu trừ tiền lương, bán đấu giá tài sản... vẫn khơng chịu chấp hành thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án do BLHS qui định.

Như vậy, để làm rõ hơn khái niệm hình phạt CTKGG, cần phải tìm ra
một số nét đặc trưng:
Thứ nhất: Hình phạt CTKGG là tước đi một phần sự tự do của người bị
kết án và tước đi khoản tiền nhất định từ thu nhập hàng tháng của người bị kất
án (từ 5% đến 20%).
Thứ hai: Áp dụng hình phạt CTKGG và khấu trừ thu nhập hàng tháng
của người bị kết án, phải tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội gây ra, bên cạnh đó khi xem xét quyết định hình phạt cịn phải xem
xét đến tình hình tài chính (thu nhập hàng tháng) của người phạm tội cũng
như điều kiện tham gia lao đông (việc làm) của người bị kết án.
Thứ ba: Hình phạt CTKGG là một loại hình phạt chỉ do Tồ quyết định.
Từ những dấu hiệu trên đây có thể đưa ra khái niệm hình phạt CTKGG
như sau: “hình phạt cải tạo khơng giam giữ là một trong những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy
định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan,
tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư
trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng,
có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã
hội cũng đủ giáo dục, cải tạo họ thành người tốt”.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt cải tạo khơng giam giữ
Cũng giống như các loại hình phạt khác, hình phạt CTKGG cũng có các
14


đặc điểm vốn có của nó được biểu hiện như:
Thứ nhất, hình phạt CTKGG là 01 trong số biện 07 pháp cưỡng chế
nghiêm khắc trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế bằng các hình phạt
chính đối với người phạm tội của pháp luật hình sự (Điều 32 BLHS 2015 quy
định về 7 hình phạt chính) [34]. Tính nghiêm khắc của hình phạt CTKGG thể
hiện khả năng tiến hành trừng trị và giáo dục người phạm tội nhưng không

buộc người bị kết án phải cách ly họ khỏi môi trường sống bình thường nới
trước khi phạm tội họ sinh sống, cơng tác. Tuy nhiên hình phạt CTKGG cũng
tước đi của người phạm tội sự tự do (trong khoảng thời gian từ 06 tháng đến
03 năm) và một khoản thu nhập nhất định (từ 5% đến 20%) [Điều 36 BLHS
2015], người bị kết án phạt CTKGG còn phải gánh chịu hậu quả pháp lý là
mang lại án tích trong một thời hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong hình
phạt CTKGG [Điều 70 BLHS 2015].
Thứ hai, hình phạt CTKGG được quy định ở trong BLHS cả phần chung
và phần các tội phạm; phần chung quy định điều kiện, nội dung, phạm vi và
nguyên tắc áp dụng hình phạt CTKGG, cách thức thi hành hình phạt CTKGG;
thì phần các tội phạm, hình phạt CTKGG được quy định với tư cách là hình
phạt chính trong 175 Điều luật của BLHS 2015 [34].
Thứ ba, hình phạt CTKGG là một loại hình phạt, nên phải do Tòa án
quyết định đối với người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội nguy hiểm
cho xã hội mà BLHS qui định theo một trình tự riêng biệt. Trình tự riêng biệt
đó là trong q trình xét xử và quyết định hình phạt, Tịa án phải tn thủ
nghiêm ngặt các thủ tục được quy định trong BLTTHS.
Thứ tư, khác với các hình phạt chính khác, việc thi hành hình phạt
CTKGG khơng phải được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện. Mà
thẩm quyền giám sát, giáo dục người phạm tội được giao cho cơ quan Nhà
nước hoặc tổ chức nơi người phạm tội làm việc, học tập như UBND cấp xã,
15


phường nơi người phạm tội cư trú và người phạm tội phải nộp (hàng tháng bị
khấu trừ từ 5% đến 20% thu nhập) một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà
nước trong những trường hợp do luật hình sự quy định. Một khoản tiền nhất
định là một khoản tiền cụ thể được Tòa án quyết định nằm trong khung hình
phạt của BLHS có qui định là hình phạt CTKGG được đưa ra áp dụng. Hình
phạt CTKGG và khoản tiền buộc phải nộp, phải phụ thuộc vào tính chất, mức

độ nghiêm trọng của tội phạm, có xét đến tình hình công việc để kiếm ra thu
nhập của người phạm tội, cũng như sự biến động của giá cả thị trường. Khi
quyết định hình phạt, Tịa án phải căn cứ vào hành vi phạm tội, tính chất mức
độ cũng như tình hình tài chính của người bị kết án và giá cả thị trường để
đưa ra một quyết định phù hợp tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ngoài ra người phạm tội có thể phải
thực hiện một số cơng việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian thi
hành hình phạt CTKGG.
Thứ năm, hình phạt CTKGG là hình phạt chính và Tịa án chỉ được áp
dụng đối với trường hợp người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng điều
đó thể hiện tính nhân văn của nhà làm luật đối với 2 loại tội phạm này.
1.1.3. Vai trò của hình phạt cải tạo khơng giam giữ
Với vai trị là hình phạt chính, hình phạt CTKGG là một cơ sở pháp lý
cần thiết, nó tạo nên sự đa dạng của hình phạt. Hình phạt CTKGG được xác
định nặng hơn hình phạt cảnh cáo, trục xuất và hình phạt tiền. Nhưng nhẹ hơn
hình hình phạt tù cho hưởng án treo, tù chung thân và tử hình. Do vậy có qui
định hình phạt CTKGG đã rút ngắn khoảng cách giữa các hình phạt với nhau,
tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật có nhiều sự lựa chọn để xử lý
người có hành vi phạm tội đúng với tính chất hành vi phạm tội mà họ đã gây
ra cho xã hội. Hình phạt CTKGG được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm
trọng khơng những đảm bảo tính trừng trị, răn đe, giáo dục riêng mà còn
16


mang tính phịng ngừa tội phạm chung. Việc áp dụng hình phạt CTKGG thay
vì hình phạt tù đã tạo cơ hội cho người phạm tội không bị xáo trộn trong cuộc
sống, được tự cải tạo trong một môi trường lao động xã hội, giúp đỡ gia đình
tăng thêm thu nhập và ngân sách nhà nước có thêm một khoản tiền nhất định.
Việc lừa chọn hình phạt CTKGG là hình phạt chính áp dụng với người phạm
tội đã tạo nên mặt tích cực là giảm áp lực cho các hệ thống trại giam nói riêng

cũng như chi phí ngân sách nhà nước nói chung; đồng thời nâng cao tính nhân
đạo trong chính sách hình sự mà vẫn đảm bảo được tính chất trừng trị của
hình phạt.
Với vai trị là hình phạt chính, hình phạt CTKGG đã tạo nên một sự
cơng bằng trong áp dụng phát luật, nó có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn, nó là một sự đòi hỏi cần thiết của xã hội như: Mọi hành vi phạm tội đều
phải được xem xét một cách cụ thể, tồn diện và kỹ lưỡng, bên cạnh đó các cơ
quan nhà nước phải đưa ra các quyết định chính xác, phù hợp thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật và có tác dụng răn đe phịng ngừa chung tội phạm.
Hình phạt CTKGG được qui định là hình phạt chính, đây là căn cứ pháp lý
không thể thiếu để cơ quan pháp luật lựa chọn áp dụng đối với người phạm
tội ít nghiệm trọng, nghiêm trọng được pháp luật quy định với các loại tội
phạm được quy định trong BLHS.
1.1.4. Phân biệt hình phạt cải tạo khơng giam giữ và phạt tù cho
hưởng án treo
Như đã nêu ở mục 1.1.1.2 của luận văn thì hình phạt “Cải tạo khơng
giam giữ” được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Hình phạt CTKGG được áp dụng
từ 06 tháng đến 3 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét
thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội. Tòa án giao
người bị phạt CTKGG cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính
17


quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình
người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa
phương trong việc giám sát, giáo dục người đó [Điều 36 BLHS 2015]. Còn
“Án treo” là chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt
tù được quy định tại Điều 65 BLHS 2015 [34]. Án treo được hiểu là việc
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện: Khi xử phạt tù khơng q ba năm,

căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tịa án cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Trong thời gian thử
thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám
sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan,
tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Giữa “Án treo” và “Cải tạo khơng giam giữ” có sự khác nhau, tuy
nhiên xét bản chất của “Án treo” và “Cải tạo không giam giữ” giống nhau ở
chỗ: Người thụ án không phải cách ly khỏi xã hội mà họ được chung sống với
gia đình như những người khác dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc
chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc cư trú.
Mặc dù, giống nhau về bản chất trong việc giáo dục và quản lý người bị
kết án nhưng thực tiễn áp dụng hình phạt “Cải tạo khơng giam giữ” hay áp
dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng “Án treo” đối với người phạm tội cịn có
những bất cập nhất định. Ngun nhân là do trong các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành khơng có quy định về điều kiện nhân thân của bị cáo để
được áp dụng hình phạt “Cải tạo khơng giam giữ”, nhưng lại có quy định điều
kiện về nhân thân của bị cáo để được áp dụng chế định “Án treo”. Tại điểm b
mục 6.1 Nghị quyết số 01 ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao quy định về điều kiện nhân thân của bị cáo để được áp dụng chế định
18


×