VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CÔNG HÙNG
THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CÔNG HÙNG
THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành
Mã số
: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỊNH NGỌC VƯỢNG
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính về “Theo dõi chấp hành pháp
luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam” là hồn tồn trung thực
và khơng trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Công Hùng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
HĐND
Hội đồng nhân dân
TD THPL
Theo dõi thi hành pháp luật
THPL
Thi hành pháp luật
UBND
Ủy ban nhân dân
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VBQPPL
Văn bản quy phạm pháp luật
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT ... 7
1.1. Nhận thức chung về theo dõi chấp hành pháp luật ................................... 7
1.2. Nội dung và hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật ............................. 22
1.3. Các yếu tố tác động đến theo dõi chấp hành pháp luật ........................... 33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................................... 40
2.1. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến theo dõi chấp hành pháp luật ............. 40
2.2. Hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam ............................................................................................................. 41
2.3. Nhận xét về theo dõi tình hình chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................... 58
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................ 63
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi chấp hành pháp
luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ....................................... 63
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật từ
thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................. 65
KẾT LUẬN ................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chấp hành pháp luật, thi hành pháp luật là những hình thức quan trọng
của thực hiện pháp luật. Hai nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đó là Xây dựng và tổ chức chấp hành pháp luật, đóng vai trò then chốt
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang tập trung
chỉ đạo tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thực thi
pháp luật tạo sự liên thông giữa công tác xây dựng pháp luật và công tác tổ
chức thi hành pháp luật, chấp hành pháp luật thì vai trị của cơng tác theo dõi
chấp hành pháp luật càng trở nên quan trọng. Đây là một nhiệm vụ mới, có
tính phức tạp, phạm vi rộng có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả
các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, để cơng tác theo
dõi tình hình thi hành pháp luật được triển khai có hiệu quả, việc nghiên cứu,
hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật vẫn là yêu cầu cấp thiết.
Ngày 05/3/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2020/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số Điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP nhằm góp phần nâng
cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của cơng tác theo dõi tình hình thi
hành pháp luật trong việc quản lý Nhà nước và xã hội; khẳng định vị trí, vai
trị của cơng tác này trong hoạt động của bộ máy Nhà nước ở cả trung ương
và địa phương; từng bước củng cố, kiện toàn các cơ quan, tổ chức thực hiện
nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật; đảm bảo cơng tác theo dõi
tình hình thi hành pháp luật là là một kênh thông tin nhạy bén trong việc đánh
giá, phản biện đối với các chính sách. 3 Về tổ chức thực hiện theo dõi thi
hành pháp luật, việc triển khai các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật (đặc
biệt là hoạt động kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng
1
tâm, liên ngành, kiểm tra công tác quản lý nhà nước về theo dõi thi hành pháp
luật) ở nhiều bộ, ngành và địa phương vẫn cịn mang tính hình thức, chưa
thực sự phát huy vai trị, hiệu quả của cơng cụ kiểm soát quyền lực nhà nước;
việc kiểm tra, xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật đối với các vụ việc đột
xuất hoặc theo chuyên đề chưa thực hiện đƣợc nhiều và chưa có hiệu ứng xã
hội lan tỏa, việc phản ứng chính sách thơng qua theo dõi tình hình thi hành
pháp luật vẫn cịn chậm, thụ động, đặc biệt việc xử lý các kiến nghị của Bộ
Tư pháp tại báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật hằng năm vẫn chưa
được các Bộ, ngành quan tâm xử lý triệt để; việc huy động sự tham gia của
nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong
cơng tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật chưa thực sự sâu rộng, chưa
phát huy được đầy đủ sự tham gia và phản biện từ chính cộng đồng xã hội
trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp
luật chưa trở thành một kênh thông tin nhạy bén trong việc đánh giá, phản
biện đối với các chính sách. Chính vì vậy, Đề tài "Theo dõi chấp hành pháp
luật từ thự tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam" là Đề tài có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
"Quản lý Nhà nước (QLNN) về công tác thanh tra và giải quyết khiếu
nại, tố cáo (KNTC) ở Việt Nam hiện nay" do TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Phó
Viện trƣởng làm chủ nhiệm. Các tác giả tham gia nghiên cứu Đề tài đã đề ra
mục tiêu mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở lý luận, đánh giá
thực trạng và đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN
về công tác thanh tra, giải quyết KN,TC trong bối cảnh thực hiện Chiến lược
Phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đề tài
cũng chỉ rõ được những ƣu điểm và kết quả đạt được, những hạn chế bất cập,
nguyên nhân, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn QLNN về công tác thanh
tra, giải quyết KN,TC cần tháo gỡ trong giai 4 đoạn 2011-2017. Các tác giả
2
cũng đề cập hoạt động theo dõi thi hành pháp luật của các cơ quan thanh tra.
Bài viết của TS Nguyễn Tuấn Khanh "Một số vấn đề đặt ra đối với cơng tác
theo
dõi
thi
hành
pháp
luật
từ
thực
tiễn
ngành
thanh
tra"
( />
mot-so-van-de-dat-ra-doi-voi-cong-tac-theo-doi-thi-hanh-phap-
luat-tu-thuc-tiennganh-thanh-tra.html). Tac giả cho rằng cần có nhâṇ thưc
thống nhất về nơị dung , mục đích, ý nghĩa của hoạt động theo dõi tình hình
thi hành pháp luật . Măc ̣ dù cơng tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã
đươc ̣ thưc ̣ hiêṇ khá lâu . Tuy nhiên, hiêṇ chưa có sư giải thích thống nhất về
nôị dung của hoaṭ động này nhằm bảo đảm không bi ̣trùng lăp ̣ vớ i các hoaṭ
đôṇ g khác như hoaṭ đôṇ g thanh tra , kiểm tra, giám sát. Nên chăng, khi sửa
đổi số Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, cần có quy phaṃ giải thích rõ nội hàm
hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật. "Để tăng cường QLNN về
công tác thanh tra, giải quyết KN,TC đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều biện
pháp. Trong đó, quan trọng nhất là các giải pháp về nhận thức và hoàn thiện
cơ sở pháp lý của lĩnh vực cơng tác này. Bên cạnh đó, các cơ quan QLNN và
đặc biệt là các cơ quan thanh tra Nhà nước phải tiến hành các giải pháp nhằm
thực hiện tốt chức năng QLNN của mình trên cơ sở các quy định của pháp
luật hiện hành. “Bàn về khái niệm thi hành pháp luật” của TS. Nguyễn Thị
Hồi năm 2009 [39]đã tiếp cận THPL dưới bốn hình thức thực hiện pháp luật:
Tuân theo pháp luật, THPL, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Và, việc
phân chia các hình thức thực hiện pháp luật chỉ có tính chất tương đối, chủ
yếu có ý nghĩa về mặt lý luận, trong thực tế các thuật ngữ tuân theo, thi hành,
sử dụng và áp dụng pháp luật nhiều khi được dùng đồng nghĩa với nhau. “Mối
quan hệ giữa xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật: Ý nghĩa thực tiễn”
của Vũ Viết Thiệu năm 2007 [85]; “Thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước:
Khái niệm, hiệu quả và sự tác động (ảnh hưởng) của hiệu quả tới xã hội” của
3
PGS. TS. Nguyễn Văn Động năm 2010 [31], theo các tác giả: Thực hiện pháp
luật - xét 5 trong quy trình “quản lý nhà nước bằng pháp luật”, là sự tiếp nối
xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp
luật vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân và cần phải
đánh giá, xác định được hiệu quả THPL trong đời sống xã hội, nhất là làm rõ
sự tác động, ảnh hưởng của hiệu quả THPL của cơ quan nhà nước đối với xã
hội. Các kết quả nghiên cứu này gởi mở cho đề tài luận án một số cơ sở lý
luận để hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về TDTHPL và vận dụng một số nội
dung đối với việc hoàn thiện điều chỉnh pháp luật về TDTHPL ở Việt Nam
hiện nay. -Thi hành pháp luật tiếp cận ở phương diện quản lý Nhà nước Ở
phương diện nghiên cứu này, các cơng trình nghiên cứu tập trung làm rõ và
bàn sâu về trách nhiệm của Nhà nước và cơ chế đảm bảo THPL trong thực tế.
Điều này dễ nhận thấy trong hầu hết trong các cơng trình nghiên cứu sau: Các
cuốn sách: Thông tin khoa học pháp lý chuyên đề: “Chính quyền địa phương
với việc bảo đảm thi hành hiến pháp và pháp luật” năm 2002 [89], “Thực
trạng và nhu cầu phát triển, hoàn thiện các thiết chế lập pháp, thi hành pháp
luật, điều ước quốc tế, giải quyết tranh chấp và bổ trợ tư pháp” năm 2003 [90]
của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Trong 02 cuốn sách, các
tác giả đã làm rõ những hạn chế, bất cập của bộ máy THPL ở trung ương, ủy
ban nhân dân các cấp, các cơ quan đảm bảo THPL và xác định vai trò của
chính quyền địa phương trong việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật
là trực tiếp, cụ thể, thường xuyên và toàn diện nhất. Nghiên cứu này đã đặt ra
một số gợi mở cho việc TDTHPL hiện nay như: Theo dõi cần tập trung vào
các vấn đề: đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước; Năng lực, phẩm chất của đội
ngũ cán bộ, công chức trong các thiết chế THPL; Ý thức pháp luật của Nhân
dân… theo nguyên tắc:Việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện
4
tốt nhất thì phân giao đầy đủ thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn) và đảm bảo
những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về theo dõi
chấp hành pháp luật, tổng hợp và đánh giá thực tiễn theo dõi chấp hành pháp
luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở lý thuyết về
theo dõi chấp hành pháp luật đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả theo
dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn..
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về theo dõi chấp hành pháp
luật như khái niệm, nội dung, vai trò của các cơ quan của huyện Quế Sơn
trong việc thực hiện theo dõi chấp hành pháp luật; những mặt đƣợc và chưa
được trong công tác này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, thực tiễn theo dõi chấp hành pháp luật; quy định
của Hiến pháp và pháp luật về theo dõi chấp hành pháp luật; thực tiến công
tác theo dõi chấp hành pháp luật tại huyện Quế Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Địa bàn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam; Từ năm 2016, khi Chính phủ
ban hành Nghị định 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình thi hành pháp luật
cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
5
Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác-Lenin, quan điểm của Đảng ta về pháp luật và thi hành
pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được vận dụng để nghiên cứu Đề tài luận văn là:
Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê và luật học so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đối với các cơ quan nhà
nước tại huyện Quế Sơn trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi chấp hành
pháp luật trên địa bàn huyện.
7. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về theo dõi chấp hành pháp luật
Chương 2: Thực trạng theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
1.1. Nhận thức chung về theo dõi chấp hành pháp luật
1.1.1. Quan niệm về chấp hành pháp luật
Trước hết cần phải khẳng định rằng, chấp hành pháp luật và thi hành
pháp luật là các hình thức thực hiện pháp luật. Chấp hành pháp luật là nhận
lấy trách nhiệm để thực hành những điều mà pháp luật quy định.
Chấp hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định cho mình bằng hành động
tích cực. Ví dụ: Pháp luật quy định công dân nam từ 18 tuổi đến 25 tuổi phải
làm nghĩa vụ quân sự. Một thanh nhiên trong hạn tuổi trên bằng hành vi của
mình, khơng chờ ai nhắc nhở, chủ động đăng kí nhập ngũ, phục vụ trong
quân đội đúng thời hạn quy định, tức là thanh niên đó đã chấp hành pháp
luật.
Nét đặc trưng tiêu biểu của chấp hành pháp luật, với tính cách là một
trong những hình thức thực hiện pháp luật, là việc chấp hành quy định pháp
luật đối với chủ thể pháp luật là việc phải làm, dù muốn hay không muốn.
Cùng với tuân thủ pháp luật với tính cách là một hình thức thực hiện pháp
luật, chấp hành pháp luật có tầm quan trọng to lớn trong việc xác lập một trật
tự pháp luật bền vững trong đời sống của xã hội.
Tuân thủ pháp luật cũng là một trong những hình thức thực hiện pháp
luật. Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật có chủ thể là mọi cá nhân, cơ
quan tổ chức. Áp dụng pháp luật là hình thức của thực hiện pháp luật mà chủ
thể chỉ là các cá nhân có thẩm quyền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7
Trước khi nói về thi hành pháp luật, cũng cần phải nhấn mạnh các hình
thức thực hiện pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là chủ thể pháp luật kiềm chế mình để không thực
hiện điều pháp luật cấm. Tuân thủ pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện.
Bản chất của tuân thủ pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới dạng
hành vi không hành động. Đối tượng thực hiện tuân thủ pháp luật là mọi chủ
thể. Hình thức thể hiện của tuân thủ pháp luật thường thể hiện dưới dạng
những quy định cấm đốn. Tức quy phạm khơng bắt buộc chủ thể không
được thực hiện những hành vi nhất định. Ví dụ: Pháp luật cấm hành vi mua
bán dâm. Do đó, khơng thực hiện hành vi mua bán dâm được xem là tuân thủ
pháp luật.
Áp dụng pháp luật là việc người có chức vụ, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật. Áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện.
Bản chất của áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước, được thể hiện dưới hình thức hành vi hành động và hành vi không hành
động. Đối tượng thực hiện: Chỉ có những người có chức vụ, có thẩm quyền, cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hình thức thể hiện áp dụng pháp luật là các loại quy phạm. Bởi Nhà
nước quyền hạn và nghĩa vụ tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp
luật. Ví dụ: Khi bên A khởi kiện bên B, tịa án có trách nhiệm xem xét và thụ
lý đơn khởi kiện của bên A.
Sử dụng pháp luật là chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật cho
phép. Khơng mang tính bắt buộc thực hiện và phụ thuộc vào ý chí, sự lựa
chọn của từng chủ thể. Bản chất của sử dụng pháp luật có thể là hành vi hành
động hoặc hành vi không hành động tùy vào quy định của pháp luật. Đối
8
tượng thực hiện sử dụng pháp luật là mọi chủ thể. Hình thức thể hiện:
Thường được thể hiện dưới những quy phạm trao quyền, tức pháp luật quy
định về quyền hạn của các chủ thể.
Ví dụ: Khi bên A cho rằng mình bị xâm quyền và lợi ích hợp pháp bởi
bên B. Bên A có quyền khởi kiện B ra tịa án, vì pháp luật trao cho A quyền
được khởi kiện B ra tịa án có thẩm quyền. Khi đó, A được xem là đang sử
dụng pháp luật.
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn pháp luật ở Việt Nam, khái niệm
“thi hành pháp luật” được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau. Thi hành
pháp luật là việc chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều pháp luật yêu cầu.
Thi hanh pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Bản chất của thi hành
pháp luật có tính chủ động, tích cực, thực hiện pháp luật dưới hình thức
hành vi hành động. Thi hành pháp luật mang tính chủ động thực hiện điều luật
pháp yêu cầu. Đối tượng thực hiện thi hành pháp luật là mọi chủ thể. Hình
thức thể hiện của thi hành pháp luật thường thể hiện dưới dạng những quy
phạm bắt buộc. Do đó, chủ thể buộc phải thực hiện hành vi hành động mang
tính hợp pháp. Ví dụ, pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập
doanh nghiệp/thuế thu nhập cá nhân. Do đó, nếu khơng thuộc đối tượng
được miễn thuế, chủ thể đóng đầy đủ khoản thuế được coi là đang thi hành
pháp luật.
Theo quan điểm thứ nhất được thể hiện trong các giáo trình lý luận
nhà nước và pháp luật của một số cơ sở đào tạo luật như Đại học Luật Hà Nội,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…thường cho rằng “thi hành pháp luật”
(hoặc “chấp hành pháp luật”) chỉ là một trong bốn hình thức “thực hiện pháp
luật”. Theo đó, thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
hợp pháp của các chủ thể pháp luật thơng qua bốn hình thức: Tuân theo (tuân
thủ) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng
9
pháp luật. Theo quan điểm này, thi hành pháp luật là hình thức thơng qua đó
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật được hiện thực hóa bằng hành động
tích cực của chủ thể này. Đối với quan điểm này PGS, TS Nguyễn Văn
Mạnh nhận xét: “Việc phân chia các hình thức thực hiện pháp luật như vậy
khơng làm rõ được mối quan hệ, tính liên thơng của các hình thức thực hiện
pháp luật. Chẳng hạn, các cơ quan nhà nước sử dụng pháp luật thì khơng
thể tách rời với áp dụng pháp luật và tuân thủ pháp luật. Hạn chế này do sai
lầm về mặt phương pháp luận, đem phương pháp siêu hình thay cho phương
pháp biện chứng, không thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa các hình thức
đó” [18-8].
Quan điểm thứ hai, thi hành pháp luật được hiểu là mọi hoạt động nhằm
đưa pháp luật vào cuộc sống, biến quy định của pháp luật trở thành hành vi của
các chủ thể. Quá trình này gắn liền và là sự tiếp nối của quá trình xây dựng
pháp luật.[20]. Theo quan điểm này, thi hành pháp luật với thực hiện pháp luật
là đồng nhất với nhau, đây đều là những hoạt động có mục đích của các chủ
thể nhằm biến những quy định của pháp luật thành hoạt động thực tế của
mình. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong nội dung các bản Hiến pháp
qua các thời kỳ như:
+ Điều 96, Điều 98, Điều 99, Điều 100, Điều 112, Điều 114 Hiến pháp
năm 2013 quy định: Chính phủ “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước”, Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức thi
hành pháp luật”, “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... ban hành văn
bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của
luật”, Bộ trưởng “chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được
phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến
10
ngành, lĩnh vực trong phạm vi tồn quốc”, “Chính quyền địa phương tổ chức
và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương”, “Ủy ban
nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”.
+ Khoản 2 Điều 112, Điều 115 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ
có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”, Thủ tướng
Chính phủ có thẩm quyền “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ
ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó”.
+ Điều 52, Điều 59 Hiến pháp năm 1946 quy định: Chính phủ có quyền
“thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”, Ủy ban hành chính có
trách nhiệm “thi hành các mệnh lệnh của cấp trên”.
Như vậy, đối với các cơ quan nhà nước THPL trong trường hợp này là
hình thức để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, là
q trình hoạt động có mục đích, có ý chí, có lý trí của các cơ quan nhà nước và
những người có trách nhiệm, quyền hạn để pháp luật đi vào cuộc sống; với các
cá nhân và tổ chức khác thì THPL là việc họ sử dụng quyền và làm nghĩa vụ
pháp lý của mình.
Với tư cách là một thực thể tự nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội,
con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội.
Và xã hội cũng chỉ tồn tại và phát triển dựa trên sự giao tiếp giữa người và
người bằng ngôn ngữ. Vì vậy, cần xem xét quan niệm về thi hành pháp luật
dưới cả góc độ về ngơn ngữ.
Theo từ điển Luật học định nghĩa: “thi hành pháp luật là hình thức thực
hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật phải thực hiện một
thao tác nhất định mới có thể thực hiện pháp luật được” [17, tr 758]. Như
vậy, dưới góc độ ngơn ngữ khái niệm thi hành pháp luật cũng được hiểu là
11
một trong những hình thực thực hiện pháp luật, tuy nhiên khái niệm khác với
quan điểm trên bởi với hình thức thực hiện pháp luật này chủ thể không phải
chỉ thực hiện nghĩa vụ bằng hành vi tích cực mà hành động thực hiện pháp
luật ở đây có thể là thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ, vậy thi hành pháp luật
lúc này nó vừa là hình thức chấp hành pháp luật, vừa là sử dụng pháp luật
trong khoa học pháp lý. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm trên, dưới góc độ
ngơn ngữ và khoa học pháp lý, có thể hiểu thi hành pháp luật là hành vi hợp
pháp của chủ thể pháp luật trong quá trình hiện thực hóa hoặc đảm bảo hiệu
lực pháp lý của các quy phạm pháp luật trong đời sống.
1.1.2. Quan niệm về theo dõi chấp hành pháp luật
Khi chúng ta nói về theo dõi chấp hành pháp luật, cũng là nói về hình
thức thực hiện pháp luật, hiểu theo nghĩa rộng hơn là theo dõi thi hành pháp
luật. Tuy nhiên, khái niệm CHPL được hiểu theo nghĩa hẹp hơn so với khái
niệm THPL. Khái niệm về THPL còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, vì
vậy đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm
TDTHPL một cách chính xác, cụ thể. Do đó, có thể hiểu khái niệm TDTHPL
thơng qua phân tích về mặt từ ngữ như sau: “Theo dõi” là việc quan sát, kiểm
tra từng diễn biến, từng hoạt động để biết rõ hoặc có sự ứng phó, xử lý kịp
thời. “Thi hành pháp luật” là làm các quy phạm do nhà nước ban hành có
hiệu lực nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ trật tự xã hội. [37, tr
1458, 1515,1201]. Như vậy, theo dõi thi hành pháp luật là hoạt động xem xét,
xử lý kịp thời những chuyển biến của toàn bộ quá trình đưa pháp luật vào
đời sống nhằm đảm bảo hiệu lực của các quy định pháp luật.
Hiện nay quan điểm cơ bản về TDTHPL ở Việt Nam được chia làm ba
nhóm cơ bản sau đây:
12
Quan điểm thứ nhất cho rằng TDTHPL là việc cơ quan có thẩm quyền
xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, mức độ đạt mục tiêu đặt ra
và kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. [4, tr.365-366]. Với cách tiếp cận này, trong
hoạt động TDTHPL các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành thu thập thơng
tin một cách có hệ thống, sau đó phân tích, so sánh giữa thực tế đạt được so
với mục tiêu đề ra và chỉ ra sự tác động của quy định pháp luật cùng với
những tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những tồn tại, bất cập để có
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với mục tiêu mong muốn.
Quan điểm này có ý nghĩa trong việc tạo ra khả năng tìm kiếm các giải pháp
trên nhiều hướng khác nhau để đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, hạn
chế của quan điểm này tồn tại ở chỗ: TDTHPL là việc của cơ quan hành
chính nhà nước nên dẫn đến thực trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, vì vậy
khái niệm TDTHPL đã bị thu hẹp phạm vi nằm trong giới hạn của quản lý
hành chính, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Do đó, việc xác định các thành
tố hợp thành của TDTHPL gặp những vướng mắc nhất định.
Quan điểm thứ hai cho rằng TDTHPL là một cơng cụ quản lý nhà nước
qua đó giúp cho người quản lý tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi: Năng lực
thực hiện có đảm bảo và phù hợp khơng; Nguồn lực có đủ và có được sử
dụng tốt hay không; [38138, tr. 42-43], [16, tr. 80 - 88]. Quan điểm này đã
chú trọng đến tầm ảnh hưởng của chủ thể quản lý nhà nước đối với việc tổ
chức, thực hiện pháp luật và yêu cầu tối ưu hoạt động THPL trong thực tiễn.
Tuy nhiên, quan điểm này có mâu thuẫn khi quá đề cao vai trị của Nhà nước,
chưa tính đến tính tích cực của các chủ thể pháp luật khác, dẫn tới khó khăn
13
khi giải quyết những vấn đề có tính thống nhất và toàn diện của hoạt động
TDTHPL.
Quan điểm thứ ba cho rằng TDTHPL là hoạt động chủ yếu của cơ quan
hành chính nhà nước có sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nhằm xem xét,
đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về tổ chức thực hiện, điều kiện bảo
đảm, tình hình tuân thủ pháp luật nhằm kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật [7: Điều 3, Điều 7].
Quan điểm này giúp cho khoảng cách giữa pháp luật trên giấy và pháp luật
trong cuộc sống ngày càng thu nhỏ lại, đồng thời phản ánh sát thực đời sống
xã hội, tạo cơ sở cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp lý khác để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm này cũng dừng lại ở việc khẳng định
TDTHPL là hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước cịn cá
nhân, tổ chức chỉ có vai trị phối hợp thì chưa tồn diện, bởi trong q trình
thi hành pháp luật ln có sự tương tác giữa Nhà nước, cơng dân và các
thành viên khác trong xã hội nhằm làm sáng tỏ những quy phạm pháp luật
khơng hồn thiện, khơng hiệu quả để kiến nghị, đề xuất hoàn thiện quy phạm
pháp luật và hoàn thiện hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước.
Tổng hợp những quan điểm và phân tích trên, có thể hiểu khái niệm
theo dõi thi hành pháp luật một cách toàn diện nhất: TDTHPL là hoạt động
của cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân nhằm thu thập thông tin, xem
xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật trong thực tế để kịp thời hoàn
thiện quy phạm pháp luật và hoàn thiện hoạt động thi hành pháp luật, đảm
bảo pháp luật được thi hành hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho sự phát triển của
con người, sự bền vững của quốc gia, dân tộc.
Hiện nay, công tác theo dõi thi hành pháp luật đang tồn tại đồng thời
với một số hoạt động khác như thanh tra nhà nước, giám sát, kiểm tra THPL.
14
Các hoạt động này có một số điểm khác biệt và tương đồng với hoạt động
TDTHPL.
Theo điều 1 và điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 quy định “ Thanh tra
nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành”.
Như vậy, thanh tra là xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối
tượng nhất định nhằm phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái quy định của
pháp luật. Thanh tra là hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên
đối với cơ quan nhà nước cấp dưới. Bên cạnh đó thanh tra gắn liền với quản
lý nhà nước được thực hiện bởi cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ
tục luật định để đánh giá, xem xét, xử lý việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015: “Là việc chủ thể giám sát theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu,
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Như vậy, nếu thanh tra là sự
xem xét của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp
dưới thì giám sát là hoạt động xem xét, đánh giá của chủ thể bên ngoài
hệ thống đối với chủ thể được giám sát, giữa chủ thể giám sát và chủ
thể bị giám sát khơng có mối quan hệ trực thuộc lẫn nhau.
15
Khái niệm kiểm tra theo Từ điển tiếng Việt “là xem xét tình hình thực tế
để đánh giá nhận xét” [37, tr. 813]. Trong các văn bản QPPL ở những lĩnh
vực khác nhau khái niệm kiểm tra cũng có sự khác biệt nhất định, nhưng
nhìn chung kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ
của chính mình. Qua kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng
việc làm của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp để hoạt động tiếp theo
một cách hợp lý hơn. Hoạt động kiểm tra được tổ chức định kỳ, thường xuyên
hoặc đột xuất, do đặc thù và tính chất nhiệm vụ nên giữa chủ thể kiểm tra và
đối tượng kiểm tra có sự phân cấp nên hoạt động kiểm tra có tính quyền lực
cao. Do đó, cơ quan thực hiện nhiệm vụ kiểm tra có quyền ra quyết định
buộc đối tượng bị kiểm tra phải chấp hành quyết định kiểm tra, có quyền đình
chỉ, bãi bỏ các văn bản trái pháp luật của đối tượng kiểm tra.
Về cơ bản, TDTHPL với giám sát, thanh tra, kiểm tra việc THPL có
nghĩa gần như nhau là xem xét, đánh giá hoạt động của các chủ thể để hiến
pháp, pháp luật được thực hiện nghiêm minh, chính xác, đầy đủ, nhưng chúng
khác nhau về chủ thể thực hiện, về mục đích, nội dung, hình thức, phạm vi,
đối tượng chịu sự xem xét, đánh giá. Các đối tượng thanh tra, kiểm tra phải có
trách nhiệm thực hiện kết luận kiểm tra, thanh tra một cách đầy đủ, nếu
không thực hiện sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật. Trong khi
đó, hoạt động theo dõi thi hành pháp luật chưa quy định trách nhiệm cụ thể
của các đối tượng kiểm tra phải thực hiện kết luận kiểm tra, mà những kết
luận của hoạt động theo dõi thi hành pháp luật chỉ đề xuất, kiến nghị là chủ
yếu chứ khơng có những chế tài mang tính pháp lý cao như thanh tra, kiểm
tra.
Như vậy, có thể coi theo dõi thi hành pháp luật là việc thu thập một
cách hệ thống các thơng tin để phân tích so sánh giữa mục tiêu đề ra với thực
16
tế đạt được nhằm chỉ ra sự tác động của quy định pháp luật cùng những tồn
tại, bất cập do các nguyên nhân nào để có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung
chính sách, pháp luật hay tăng cường biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành
cho phù hợp với mục tiêu đặt ra [16].
1.1.3. Nguyên tắc chấp hành pháp luật
Xuất phát từ các quy luật phát triển khách quan của pháp luật trong xã
hội Việt Nam và chính sách pháp luật về TDTHPL phải phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn nhất định. Đồng
thời, để đảm bảo các hoạt động TDTHPL phát hiện và kịp thời có giải pháp
thống nhất tác động thích hợp đến các quy phạm pháp luật nên hoạt động
TDTHPL phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Điều 4 Nghị định số
59/2012/NĐ-CP quy định cụ thể TDTHPL phải tuân theo các nguyên tắc cơ
bản sau:
Một là, hoạt động TDTHPL phải đảm bảo tính khách quan, cơng khai
và minh bạch: Các cơ quan nhà nước vừa là đối tượng vừa là chủ thể của
theo dõi thi hành pháp luật. Vậy, việc theo dõi thi hành pháp luật phải bảo
đảm tính cơng khai, minh bạch, khách quan để kết quả theo dõi thi hành
pháp luật phản ánh chính xác về tính chất, nội dung và tình hình thi hành
pháp luật.
Hai là, ngun tắc thường xun, tồn diện, có trọng tâm, trọng điểm:
Theo dõi thi hành pháp luật phải được tiến hành từ trung ương đến địa phương
trên tất cảcác lĩnh vực một cách liên tục, không gián đoạn, không mang tính
vụ việc nhất thời; thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, ở mỗi thời điểm khác
nhau và trên mỗi địa bàn khác nhau, xuất hiện những vấn đề bức xúc, nổi
cộm, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội, địi hỏi phải có những giải
pháp khắc phục kịp thời.
17
Ba là, kết hợp theo dõi thi hành pháp luật theo lĩnh vực với theo địa
bàn: Hệ thống pháp luật bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhiều
ngành luật. Mỗi văn bản pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực cụ thể thuộc
phạm vi quản lý của từng bộ, ngành. Tuy nhiên, tất cả các văn bản đều phải
được thi hành trên các lĩnh vực cụ thể.
Bốn là, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong
quá trình theo dõi thi hành pháp luật: Chủ thể có trách nhiệm chính trong
việc theo dõi thi hành pháp luật là các cơ quan nhà nước. Theo dõi thi hành
pháp luật không đánh giá sự phù hợp về hành vi của các chủ thể với quy định
pháp luật mà tập trung đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật; xem xét,
đánh giá việc tổ chức thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật, mức độ tuân thủ
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân, không đánh giá việc chỉ đạo, điều
hành, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước; mục
đích của hoạt động theo dõi thi hành pháp luật nhằm phát hiện, xử lý các hạn
chế, vướng mắc có tính chất vĩ mô trong thi hành pháp luật không phải nhằm
phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm cụ thể.
Năm là, TDTHPL cần huy động sự tham gia của các tổ chức, của nhân
dân và các cơ quan truyền thông đại chúng: Theo dõi thi hành pháp luật là
một hoạt động có phạm vi rất rộng, nên địi hỏi các ngành phải được thực
hiện một cách khách quan. Hơn nữa, để hoạt động TDTHPL có hiệu quả cao
và mang tính cộng đồng cần huy động sự tham gia của đông đảo các lực
lượng xã hội tham gia vào hoạt động của cơ quan nhà nước.
Có thể thấy, với vai trò vừa là chủ thể sáng tạo cơ chế điều chỉnh pháp
luật về theo dõi nhưng đồng thời cũng là đối tượng của cơ chế điều chỉnh này
Nhà nước phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật và đây là vấn đề cần được thực hiện xuyên suốt trong các
18
quá trình thực hiện chức năng của Nhà nước, quá trình xây dựng, tổ chức thực
hiện và bảo vệ pháp luật. Các quá trình này cần thiết phải được thực hiện theo
những nguyên tắc trên.
1.1.4. Chủ thể theo dõi chấp hành pháp luật
Nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền nói
riêng là những chủ thể đóng vai trị hạt nhân trong TDTHPL. Lúc này, Nhà
nước với tư cách chủ thể xây dựng, sáng tạo pháp luật đồng thời là chủ thể
THPL và đảm bảo hiệu quả TDTHPL trên cơ sở tính tích cực của các chủ thể
xã hội. Theo đó, chủ thể TDTHPL đại diện cho Nhà nước là hệ thống các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước, bao gồm:
1.1.4.1. Bộ Tư pháp
“Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật, kiểm sốt thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản
lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư
pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành
chính và thi hành án và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước;
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Bộ”.
Theo quy định tại điều 15 Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 23/7/2015
Bộ Tư pháp là cơ quan theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong
phạm vi cả nước được thể hiện cụ thể như sau: “Trình Thủ Tướng Chính phủ
ban hành Chỉ tiêu thống kê quốc gia làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá
tình hình thi hành pháp luật ; Trình cơ quan có thẩm quyền ban hanh hoặc ban
hành theo thẩm quyền các VBQPL về theo dõi tình hình thi hành pháp luật;
19
Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
chính phủ, UBND các cấp trong việc thực hiện cơng tác theo dõi tình hình
thi hành pháp luật; Chủ trì, phối hợp với bộ, cơ quan nganh bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo dõi tình hình thi
hành pháp luật trong phạm vi cả nước và trong lĩnh vực thuộc phạm vị quản
lý liên ngành, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi
hành; hằng năm báo cáo Thủ Tướng Chính Phủ cơng tác theo dõi tình hình
thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước trước ngày 15 tháng 11”.
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật,
theo quy định tại khoản 6 Điều 15 Nghị định số 59/2012/NĐ- CP, Bộ Tư
pháp có trách nhiệm chung trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật như Bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ [11]. Bên cạnh những trách
nhiệm nêu trên, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện cơng tác theo dõi tình
hình thi hành pháp luật trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư
pháp.
1.1.4.2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Chỉ đạo, hướng dẫn, đơn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị trực thuộc
trong việc thực hiện cơng tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật; Ban
hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Xử lý kết quả theo dõi tình
hình thi hành pháp luật; bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện công tác
theo dõi tình hình thi hành pháp luật; hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về cơng
tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trước ngày 15 tháng 10. Ngoài ra,
theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 59/2010/NĐ-CP, các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm xây dựng, ban hành
20