Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giám đốc thẩm một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

QUẢN THỊ NGỌC THẢO

GIÁM ĐỐC THẨM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ:
60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - NĂM 2007


MỤC LỤC
`

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu

1

Chương 1: một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm


6

1.1. Khái niệm giám đốc thẩm

6

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật tố
tụng hình sự về giám đốc thẩm ở Việt Nam
1.2.1 Giai đoạn trước cách mạng Tháng 8 năm 1945
1.2.2. Giai đoạn từ cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến trước năm
1988.

16
16
17

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003

19

1.2.4. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay

21

1.3. So sánh giám đốc thẩm ở Việt Nam với một số nước trên thế
giới.
1.3.1. So sánh giám đốc thẩm ở Việt Nam với thủ tục phá án của Pháp.
1.3.2. So sánh giám đốc thẩm ở Việt Nam với cấp thượng thẩm
của Nhật Bản.
Chương 2. Thực trạng giám đốc thẩm ở Việt Nam.

2.1. Thực trạng pháp luật giám đốc thẩm ở Việt Nam.
2.1.1 Kháng nghị giám đốc thẩm

22
22
26
28
28
28

2.1.1.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm

28

2.1.1.2. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm

45

2.1.1.3. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm

47


2.1.1.4. Hậu qủa pháp lý của việc khán nghị giám đốc thẩm
2.1.2 Thủ tục giám đốc thẩm

49
51


2.1.2.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm

51

2.1.2.2. Phiên tòa giám đốc thẩm

53

2.2. Thực tiễn giám đốc thẩm ở Việt Nam.

62

2.2.1. Kết quả giám đốc thẩm

62

2.2.2. Hoạt động của các cơ quan thực hiện giám đốc thẩm.

66

2.2.2.1. Toà án nhân dân tối cao.

66

2.2.2.2. ở các Toà án nhân dân cấp tỉnh.

67

Chương 3 : nguyên nhân và các giải pháp nâng cao hiệu


quả

giám đốc thẩm.

3.1. Nguyên nhân của thực trạng giám đốc thẩm ở Việt Nam
3.1.1. Một số quy định về giám đốc thẩm.

69
69
69

3.1.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm.

69

3.1.1.2. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.

71

3.1.1.3. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm.

72

3.1.1.4. Hậu quả pháp lý của việc kháng nghị giám đốc

73

3.1.1.5. Phiên toà giám đốc thẩm.

75


thẩm.
3.1.2. Những hạn chế của việc áp dụng pháp luật.

82

3.1.3. Công tác xét xử

83

3.1.4. Về cán bộ.

84

3.1.5. Công tác kiểm sát pháp luật.

86

3.2 . Các giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm.

87

3.2.1. Về xây dựng pháp luật

87

3.2.2. Về áp dụng pháp luật

90


3.2.3. Về cán bộ

91

3.2.4. Về tổ chức thực hiện công tác giám đốc thẩm

91


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

93


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

Tồ án nhân dân

TAQS


Tồ án qn sự

TAQSTW

Tồ án quân sự trung ương

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSQSTW

Viện kiểm sát quân sự trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình khởi xướng và chỉ đạo công cuộc đổi mới Đảng ta đã
có nhiều Nghị quyết về cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách hệ thống pháp
luật như: Nghị quyết TW8, Nghị quyết TW3, Nghị quyết TW7, Nghị quyết
08- NQ/TW ngày 2/1/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 về “Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Các Nghị quyết
này đặt cơ sở cho việc từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ

quan thực hiện chức năng tư pháp, giúp cho cơng tác xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được
ban hành đã tạo khn khổ pháp lý ngày càng hồn chỉnh hơn để Nhà nước
quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng…Nguyên tắc pháp quyền XHCN từng bước được đề cao và phát huy
trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng
kể. Những tiến bộ đó góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh
tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước. Tuy nhiên nhìn chung hệ
thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế
xây dựng và sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý. Tiến độ xây dựng luật và
pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao, thiết chế bảo
đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu so với yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của việc chủ động hội nhập với nền

1


kinh tế khu vực và quốc tế. Công tác tư pháp chưa ngang tầm với yều cầu và
đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, làm giảm lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Để khắc phục tình trạng đó trong
BLTTHS năm 2003 tại chương XXX vẫn tiếp tục quy định thủ tục giám đốc
thẩm nhằm xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do các
quy định về giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản hướng
dẫn áp dụng còn nhiều điểm chưa rõ ràng và đầy đủ dẫn đến việc áp dụng các
quy định giám đốc thẩm trong thực tiễn cịn chưa đúng và chưa chính xác.
Thực trạng này, phản ánh hiệu quả hoạt động giám đốc thẩm còn hạn chế

chưa đáp ứng được yêu cầu xử lý tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân.
Mặt khác, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự đang cịn nhiều vấn
đề liên quan thực tiễn. Đây khơng phải là lần đầu tiên nguyên tắc chế định
giám đốc thẩm được đem ra mổ xẻ, nghiên cứu nhưng có lẽ là lần đầu tiên
chế định này được nghiên cứu một cách đồng bộ, toàn diện, đặc biệt trong
giai đoạn cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Đã có nhiều cơng trình, sách,
tạp chí bàn về giám đốc thẩm như: Trong sách tham khảo của Đinh Văn Quế
(1999), Thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đinh Văn
Quế (1997), Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự- những vấn đề lý luận và
thực tiễn; Phạm Thanh Bình (1997), "Một số vấn đề xung quanh các quyết
định giám đốc thẩm", Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Nguyễn Văn Hiện
(1997), "Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử
giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tịa án các cấp", Tạp chí Tịa án nhân
dân; Nguyễn Đức Mai (1994), "Thẩm quyền của Tòa án cấp giám đốc thẩm",

2


Tạp chí Tịa án nhân dân; Đinh Văn Quế (2004), "Những quy định mới của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm một
số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự; những quy định mới của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; thủ tục giám đốc thẩm
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ...Nhưng có lẽ chưa ai nghiên cứu sâu,
tồn diện và đặt giám đốc thẩm trong định hướng chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 của Nghị quyết 49 Bộ chính trị.
Vì vậy, từ những lý do nêu trên chúng tôi chọn: “ Giám đốc thẩm –
một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình
2. Mục đích của đề tài.
2.1. Về mặt lý luận.

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến chế định Giám đốc
thẩm trong tố tụng hình sự.
Góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta trong bối cảnh
cải cách tư pháp trên tinh thần của Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005
và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nhằm xây
dựng tại Việt Nam hệ tố tụng hoàn chỉnh, tiến bộ và vì con người.
Là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu.
2.2. Về mặt thực tiễn.
Thứ nhất, trong quá trình cải cách tư pháp, việc nghiên cứu chế định
giám đốc thẩm giúp chúng ta nhìn nhận lại thực tiễn xét xử tại Việt Nam
trong thời gian qua và xác định một bước đi đúng đắn cho nền tư pháp Việt
Nam với mong muốn đưa Toà án thực sự trở thành cơ quan độc lập, là linh
hồn của Nhà nước pháp quyền.

3


Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động xét xử nói chung và giám đốc thẩm nói riêng từ đó đưa ra các giải pháp
khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng giám đốc thẩm.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các
vấn đề sau:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm như: đặc điểm,
khái niệm, ý nghĩa của giám đốc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự.
Những quy định của pháp luật thực định thể hiện nội dung của chế
định giám đốc thẩm cũng như nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế định này
trong hoạt động giám đốc thẩm ở Việt Nam trên cơ sở đó có đối chiếu với
pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới.

Nguyên nhân của thực trạng giám đốc thẩm ở Việt Nam những năm
qua và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc thẩm
trước yêu cầu của cải cách tư pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Ngoài phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chung là chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật thì cơng trình nghiên cứu về pháp
luật tố tụng hình sự cịn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
lịch sử…
5. Cơ cấu luận văn:

4


Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm.
Chương 2: Thực trạng giám đốc thẩm ở Việt Nam.
Chương 3: Nguyên nhân và các giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc
thẩm.
Do hạn chế về khuôn khổ luận văn, thời lượng và tài liệu tham khảo
cũng như kiến thức pháp lý của bản thân cho nên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các nhà khoa học, các thầy, cơ và các bạn để cho luận văn được hồn
thiện hơn.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC THẨM
1.1. KHÁI NIỆM GIÁM ĐỐC THẨM


5


Trong quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm
vụ áp dụng mọi biện pháp của luật tố tụng hình sự qui định nhằm chủ động
phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội. Tuy nhiên, trên thực tế không phải tất cả các bản án đã có
hiệu lực pháp luật thì vụ án đều đã được giải quyết khách quan, cơng bằng,
đúng người, đúng tội mà có một số trường hợp vẫn cịn phát hiện ra các tình
tiết mới làm thay đổi tính chất của vụ án hoặc phát hiện ra những sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nên việc khắc phục những sai lầm,
khiếm khuyết của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án là việc làm cần thiết mang tính tất yếu được qui định trong Luật tố tụng
hình sự. Sai lầm của bản án hoặc quyết định của Toà án được thể hiện theo
hai hướng: để lọt tội phạm (là bỏ lọt hành vi phạm tội và kẻ phạm tội) và làm
oan người vô tội ( xét xử người khơng có tội, tội nhẹ xử nặng khơng tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm do người có hành vi phạm tội gây ra;
hành vi của họ khơng cấu thành tội phạm hình sự). Điều đó gây thiệt hại đến
lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, ảnh hưởng đến uy tín
của các cơ quan tiến hành xét xử, gây mất niềm tin trong nhân dân, vi phạm
các nguyên tắc của BLTTHS (như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án,
nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân..v.v.).
Những sai lầm được phát hiện từ những bản án hoặc quyết định của Tồ
án đã có hiệu lực pháp luật do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan
và nó tồn tại như một quy luật. Bởi lẽ, nhận thức chân lý là một qúa trình
phản ánh nhận thức của con người từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều,
từ hiện tượng đến bản chất. Đó là q trình trải qua hai giai đoạn tất yếu từ
nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) đến nhận thức lý tính ( tư duy trừu


6


tượng), từ việc thu thập, kiểm tra chứng cứ đến việc đánh giá tổng hợp các
chứng cứ đã thu thập được nhằm làm rõ tình tiết của vụ án. Mặt khác, nhận
thức cịn là một q trình mâu thuẫn: giữa biết ít và biết nhiều, biết chưa đầy
đủ và biết đầy đủ và phải đặt các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ tổng
thể, luôn vận động biến đổi nên nó phụ thuộc rất nhiều vào các chủ thể của
q trình nhận thức. Do vậy, có những nhận thức sai lầm là khơng tránh khỏi.
Để khắc phục tình trạng này thì vấn đề đi giải quyết những sai lầm đó là
mang tính tất yếu, là u cầu khách quan đặt ra đối với Toà án và các cơ quan
tiến hành tố tụng khác. Theo pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ chứng
minh nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn người bị kết án có quyền
nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội. Qui định như vậy, bởi vì
quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội.
Nhà nước với tư cách là chủ thể của mối quan hệ pháp luật hình sự có quyền
quy định hành vi nào là tội phạm đồng thời buộc người có hành vi phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án của Tồ án hoặc các quyết
định của cơ quan có thẩm quyền. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền để truy cứu trách nhiệm của một người buộc Nhà nước phải có những
chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm tội và đi ngược lại với lợi ích
của xã hội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được hành
vi phạm tội của họ thì khơng thể buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự họ.
Để việc thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của một người
nào đó đạt hiệu quả Nhà nước lập ra các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ
chứng minh tội phạm. Ở Việt Nam các cơ quan đó là cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tồ án. Các cơ quan này có nhiệm vụ phải áp dụng các biện pháp
cần thiết để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy


7


đủ, đúng người, đúng tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những
chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiện hình sự. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghĩa vụ
chứng minh, pháp luật quy định cho các cơ quan này được áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ chứng minh tội phạm
đồng thời phải đảm bảo tôn trọng các quyền tự do của công dân. Nhưng trong
q trình điều tra, truy tố, xét xử nếu có giai đoạn một trong những cơ quan
tiến hành tố tụng mắc sai lầm mà bản án hoặc quyết định của Tồ án đã có
hiệu lực pháp luật mới phát hiện ra sai lầm đó thì nghĩa vụ khắc phục phải là
các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị kết án khơng có nghĩa vụ chứng minh
là mình vơ tội nhưng có quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu để chứng minh
là mình khơng có tội.
Khi bản án hoặc quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật mới
phát hiện có sai lầm thì tuỳ theo từng hình thức và mức độ của sai lần đó mà
chia thành các dạng khác nhau thông thường được luật tố tụng hình sự các
nước phân chia làm hai loại: Thứ nhất, phát hiện ra các tình tiết mới của vụ án
mà trong các giai đoạn tố tụng trước đó không xác đụnh được; Thứ hai, phát
hiện ra những vi phạm pháp luật trong qúa trình giải quyết vụ án của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản
án hoặc quyết định mà trong quá trình giải quyết vụ án chưa xác định được.
Những tình tiết mới này do những người tiến hành tố tụng không phát hiện và
xác định được khi giải quyết vụ án và nó ảnh hưởng đến tính khách quan của
vụ án thì được được xét lại theo trình tự tái thẩm. Khi tiến hành theo thủ tục

8



này thì bản án hoặc quyết định đó có thể được điều tra lại, truy tố lại hoặc xét
xử lại.
Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
phát hiện có những vi phạm pháp luật thì được tiến hành theo trình tự giám
đốc thẩm. Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục
đặc biệt của tố tụng hình sự. Thủ tục này chỉ có thể tiến hành khi có kháng
nghị của những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm
quyền. Tuy nhiên, không phải tất cả các vi phạm pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án được phát hiện đều là căn cứ để xem xét lại bản án theo thủ tục
giám đốc thẩm mà chỉ là những vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng tới tính
khách quan của bản án. Qui định này nhằm đảm bảo sự ổn định của các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên nhưng vi phạm không nghiem
trọng, không ảnh hưởng nhiều tới tính khách quan của vụ án và đặc biệt là
ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự của người bị kết án thì thì khơng được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc “xét lại” bản án đã có hiệu lực pháp luật của cấp giám đốc thẩm
được hiểu đó là hoạt động thẩm tra, xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn
cứ của bản án hoặc quyết định đó có phù hợp với các quy định của luật hình
sự khơng và q trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có tuân
thủ những qui định của luật tố tụng hình sự khơng. Khi xác định tính hợp
pháp phải xem xét một số vấn đề như: việc định tội có đúng tội danh quy định
trong BLHS khơng? Căn cứ quy định hình phạt có đúng khơng? áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng có đúng với quy định Luật hình sự
không, phần kết luận của bản án hoặc quyết định đó có phù hợp với các tình
tiết khách quan của vụ án, các chứng cứ, tình tiết được thẩm tra, xác minh tại
phiên tịa khơng…

9



Như vậy, giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm tuy có điểm chung là
cùng xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện
ra sai lầm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án và trách nhiệm hình sự
đối với người bị kết án nhưng khác nhau ở chỗ nếu phát hiện ra tình tiết mới
làm thay đổi bản chất vụ án thì xem xét lại theo thủ tục tái thẩm cịn nếu
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong qúa trình giải quyết vụ án
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Chính sự khác biệt này của
hai thủ tục đã quyết định nội dung việc xem xét và phán quyết của bản án tái
thẩm và giám đốc thẩm. Nếu như quyết định tái thẩm liên quan đến nội dung
của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Tồ án thì bản án quyết định
giám đốc thẩm chỉ xác định có hay khơng có vi phạm pháp luật trong qúa
trình giải quyết vụ án.
Giám đốc thẩm cũng khác với giám đốc xét xử. Giám đốc xét xử là việc
Tòa án cấp trên kiểm tra hoạt động xét xử của TAND cấp dưới về cơng tác
xét xử thơng qua đó kịp thời uốn nắn, sửa chữa hoặc hủy bỏ những sai lầm,
thiếu sót nhằm đảm bảo bản án được ban hành đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Giám đốc xét xử bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như: Kiểm
tra, phát hiện những thiếu sót thơng qua đồn thanh tra; giải quyết các khiếu
nại, tố cáo của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, bị cáo, người bị hại, người
có quyền lợi- nghĩa vụ liên quan và của các công dân khác; thẩm định lại các
bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới; kháng nghị bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thực
hiện xét xử giám đốc thẩm; hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất
pháp luật; tổng kết kinh nghiệm hàng năm của TAND tối cao.
Như đã phân tích, thì tính chất của thủ tục giám đốc thẩm là xét lại bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Tính chất này của


10


giám đốc thẩm là một trong những căn cứ để phân biệt với thủ tục phúc thẩm
cũng như thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự. Một vấn đề được đặt ra là để
xác định được vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án thì cơ
chế phát hiện, trình tự, thủ tục mà tồ án và các cơ quan tiến hành tố tụng phải
tuân theo là gì để hướng tới mục đích khắc phục sai lầm, trả lại sự khách
quan, công bằng cho cho những đối tượng liên quan đến vụ án. Những nội
dung này được qui định trong luật tố tụng hình sự các nước và tuỳ theo đặc
điểm kinh tế, xã hội, pháp luật cũng như tình hình đấu tranh chống tội phạm
của mỗi quốc gia mà có những qui định cho phù hợp. Việc phát hiện vi phạm
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
pháp luật các nước đều qui định cho mọi công dân, các cơ quan nhà nước và
tổ chức xã hội, nhưng trước hết thuộc về người bị kết án, cơ quan cơng tố và
cơ quan tồ án. Qui định này xuất phát từ quyền được giám sát đối với hoạt
động của cơ quan nhà nước nói chung và và các cơ quan tiến hành tố tụng
trong hoạt động tư pháp nói riêng của cơng dân và xã hội. Ở nước ta theo qui
định tại điều 274 BLTTHS thì: “ Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi
công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật và thơng báo cho những
người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án
hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Tịa án
phải thơng báo cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ
luật này”.
Chủ thể của quyền phát hiện vi phạm pháp luật đối những bản án và
quyết định có hiệu lực của tồ án rất rộng, có thể nói đó là quyền của tất cả xã
hội nhưng việc xác định và chấp nhận sự phát hiện đó lại thuộc về một số cơ
quan tiến hành tố tụng, thơng thường là thuộc về tồ án cấp trên của toà án đã


11


ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm. Do đặc điểm về cơ
cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước ta nên Viện kiểm sát ngồi chức
năng thực hành quyền cơng tố cịn có chức năng kiểm sát việc tn theo pháp
luật trong tố tụng hình sự. Vì vậy, việc xem xét và chấp nhận phát hiện vi
phạm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được luật tố tụng hình sự
được qui định đối với cả những người có thẩm quyền của cơ quan toà án và
viện kiểm sát. Việc chấp nhận phát hiện vi phạm của bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật được thể hiện bằng quyết định kháng nghị của người có
thẩm quyền theo qui định của pháp luật và phải dựa trên những căn cứ nhất
định. Thơng thường, luật tố tụng hình sự các nước qui định căn cứ kháng nghị
thuộc về bốn nhóm vấn đề, đó là: 1/ Thủ tục điều tra, xét hỏi tại phiên tồ
phiến diện hoặc khơng đầy đủ; 2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 3. Có sự vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; 4. Có
những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự. Nội dung của
những căn cứ này thực chất là những biểu hiện của việc phạm pháp luật trong
các bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của tồ án.
Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tồ án bị kháng
nghị thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc thẩm tra, xem xét
những bản án, quyết định bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm được tiến
hành theo các qui định của luật tố tụng hình sự nhằm xác định lại sự thật
khách quan vụ án. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là Hội đồng giám đốc thẩm
không xử lại bản án mà chỉ xem xét và xác nhận có hay khơng sự vi phạm
pháp luạt ở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, các quyết
định của Hội đồng giám đốc thẩm thường là: 1/ Không chấp nhận kháng nghị
và giữa nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đây là sự

khẳng định khơng có sự vi phạm nghiêm trong trong bản án có hiệu lực pháp

12


luật, việc kháng nghị là khơng có căn cứ. 2/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, trường hợp này được coi là có sự vi
phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến việc giải quyết vụ án không khách
quan, sự việc phạm tội khơng xẩy ra hoặc có sự việc phạm tội nhưng hành vi
của người bị kết án không cấu thành tội phạm. Vì vậy, bản án có hiệu lực
pháp luật bị Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy đồng thời với quyết
định đình chỉ vụ án. 3/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để điều tra lại hoặc xét xử lại. Đây là trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm xác
nhận và khẳng định có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và cần phải tiến hành lại ở các giai đoạn này để đảm
bảo tính khách quan của vụ án.
Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm là chung thẩm không bị kháng
nghị và có hiệu lực thi hành ngay sau khi quyết định đó được tuyên. Đây là
hậu quả pháp lý của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự buộc các bên
liên quan phải thi hành. Đồng thời, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
cịn có ý nghĩa khắc phục những vi phạm, sai lầm của các hoạt động tố tụng
trước đó, trả lại sự khách quan, cơng bằng cho vụ án.
Từ những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy giám đốc thẩm có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, Giám đốc thẩm là sự khắc phục những sai lầm của các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật.
Thứ hai, Thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành khi có sự phát hiện
và khẳng định có vi phạm của bản án có hiệu lực pháp luật và được nnhững
người có thẩm quyền kháng nghị dựa trên những căn cứ được qui định trong

luật.

13


Thứ ba, giám đốc thẩm không phải là một giai đoạn mà chỉ là thủ tục
của tố tụng hình sự nhằm xem xét, khẳng định vi phạm của bản án có hiệu lực
pháp luật.
Trước yêu cầu cải cách tư pháp những năm gần đây, khoa học pháp lý tố
tụng hình sự nước ta đã có những nghiên cứu tương đối toàn diện làm sáng tỏ
cơ sở lý luận cho việc đổi mới của hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, việc đưa ra
khái niệm khoa học về giám đốc thẩm còn rất kiêm tốn, ngoài định nghĩa ở
hai Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003 thì các nghiên cứu về tố tụng hình
sự cịn ít đề cập. Điều 241 BLTTHS 1988 quy định: “Giám đốc thẩm là xét
lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án”. Với quy định này dễ
dẫn tới cách hiển là bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng có thể được giải quyết
theo thủ tục giám đốc thẩm. Để khắc phục những hạn chế đó tại Điều 272
BLTTHS 2003 đưa ra khái niệm giám đốc thẩm: “Giám đốc thẩm là xét lại
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát
hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”, nếu có vi
phạm pháp luật nhưng chưa nghiêm trọng thì khơng bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm.
Những định nghĩa nêu trên của Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và
BLTTHS 2003 đã nêu được tính chất, căn cứ và nội dung của việc kháng nghị
để bản án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tuy nhiên, định nghĩa này còn thiếu những đặc điểm quan trọng của giám
đốc thẩm với tư các là một thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự nhằm khắc
phcụ nhưng vi phạm, sai lẩm trong quá trình giải quyết vụ án.
Vì vậy, từ sự phân tích của minh tại mục này, chúng tôi đưa khái niệm

về giám đốc thẩm như sau: Giám đốc thẩm là một thủ tục của Luật tố tụng

14


hình nhằm xác định và khắc phục vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án dựa trên những căn cứ
kháng nghị của người có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm được quy định với mục đích nhằm kịp
thời sửa chữa khắc phục những sai lầm trong bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật khi có kháng nghị của người có thẩm quyền. Việc sửa chữa
được thực hiện thơng qua quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm. Bằng các
quyết định của mình Hội đồng giám đốc thẩm khắc phục gián tiếp bằng việc
hủy án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại hoặc
đình chỉ vụ án. Thơng qua hoạt động đó Tịa án cấp giám đốc thẩm thực hiện
mục đích bảo vệ lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tránh
bỏ lọt tội phạm, làm oan người vơ tội. Ngồi những mục đích trên giám đốc
thẩm có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động tổng kết xét xử của ngành Tòa án
hàng năm. Kết qủa thống kê toàn ngành giúp cho Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao đề ra các Nghị quyết hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan ra
Thông tư liên tịch hướng dẫn Tòa án các cấp trong hoạt động xét xử. Qua việc
giám đốc thẩm, Tòa án phát hiện ra những quy định bất hợp lý của BLHS và
BLTTHS để kịp thời có những kiến nghị nhằm sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM Ở VIỆT NAM.

Trong quá trình nghiên cứu chế định giám đốc thẩm thì việc nghiên cứu
một cách khoa học và đầy đủ có hệ thống quá trình hình thành và phát triển
các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giám đốc thẩm là thực sự

cần thiết. Nó cung cấp cho chúng ta một kiến thức pháp lý, khoa học để từ đó

15


giúp cho việc hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung và chế định giám
đốc thẩm nói riêng cho phù hợp với tình hình thực tế xã hội.
1.2.1. Giai đoạn trước cách mạng Tháng 8 năm 1945.
Trong thời kỳ pháp thuộc, nền tư pháp nước ta là nền tư pháp thuộc địa
và nửa phong kiến được đặt dưới chính sách chia để trị. Thời kỳ này Việt
Nam chia thành ba kỳ, mỗi kỳ được đặt dưới một chế độ chính sách khác
nhau. Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ và Bắc Kỳ được đặt dưới sự
bảo hộ của Pháp. Tại Trung Kỳ, chính quyền nhà Nguyễn tuy vẫn có một số
quyền lực nhất định nhưng đều bị thực dân Pháp kiểm sốt gắt gao. Cịn Bắc
Kỳ tuy không phải là thuộc địa nhưng hầu hết mọi quyền lực đều tập trung
vào tay nhà cầm quyền Pháp. Do khác nhau về chế độ chính trị nên hệ thống
Tồ án ở Việt Nam trở nên phức tạp. Có thể phân thành hai loại: Toà án Pháp
và Toà án Việt Nam.
Tại khắp ba kỳ, các Toà án Pháp đủ các cấp được thành lập, có thẩm
quyền xét xử hầu hết các vụ án hình sự, dân sự, thương sự. Những Toà án này
thuộc hệ thống tư pháp thuộc địa Pháp. đặt dưới quyền kiểm sốt của Tồ phá
án Paris. Nguyên tắc xét xử hai cấp được áp dụng khá triệt để. Đương sự có
quyền kháng cáo một lần đề nghị Tồ thượng thẩm xét lại bản án hình sự. Các
Toà án thượng thẩm xét xử phúc thẩm các bản án của Toà án cấp dưới bị
kháng cáo. Các Bản án phúc thẩm chỉ có thể được xét lại bởi Tồ phá án Paris
theo trình tự phá án (giám đốc thẩm).
Bên cạnh đó tại mỗi kỳ cịn có Tồ án Việt Nam do người Việt Nam
đảm nhiệm nhưng đặt dưới sự kiểm sốt của cơng viên sứ người Pháp. Hệ
thống Toà án này bao gồm Toà sơ cấp và Toà thượng thẩm. Các Toà án này
xét xử những vụ án liên quan đến quyền lợi người Việt Nam. Hệ thống Toà án


16


Việt Nam khơng có Tồ phá án nên quyền hạn giám đốc thẩm giao ln cho
Tồ thượng thẩm.
Thời kỳ này thủ tục giám đốc thẩm chưa được quy định chặt chẽ nhưng
nó cũng đặt nền tảng cho việc phát triển các quy phạm sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1988.
Khi cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
được thành lập. Nhà nước ta đã ban hành một số sắc lệnh nhằm điều chỉnh tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như: Sắc lệnh số 33/SL ngày
13.9.1945 về thiết lập TAQS [21, tr.400- 402]; Sắc lệnh số 13/SL ngày
24.1.1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán [21, tr.412- 427];
Sắc lệnh số 51/SLngày 17.4.1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân
cơng trong Tồ án [21, tr.452- 456]; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22.5.1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng [21, tr.516- 421].
Khi miền Bắc hoàn tồn giải phóng, thẩm quyền của Tồ án ngày càng
được mở rộng đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án xuất hiện những sai
lầm, thiếu sót của cơ quan tiến hành tố tụng. Hơn nữa, nhiều người bị kết án
trong thời kỳ cải cách ruộng đất đã khiếu nại xin được xem xét lại việc họ bị
kết án trước đó. Vì vậy, để đảm bảo ngun tắc pháp chế và sự công bằng Bộ
tư pháp thống nhất với TAND tối cao ra thông tư số 02/TT ngày 13.1.1959 và
thông tư số 04/TT ngày 3.2.1959 quy định về thủ tục xét lại bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật nay phát hiện có sai lầm. Trong hai thơng tư này
quy định rõ ràng chỉ đặt ra việc xét lại bản án hoặc quyết định hình sự đã có
hiệu lực pháp luật đối với các can phạm đang bị giam giữ thi hành án và thuộc
một trong ba trường hợp: xử oan, tội nặng xử nhẹ, tội nhẹ xử nặng.

17



Xử oan: Là trường hợp Toà án tiến hành xét xử và ra bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Sau đó xuất hiện bằng chứng chứng minh can
phạm bị xử khơng phạm tội, có phạm tội nhưng được đại xá hoặc những căn
cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng tìm được khơng đủ cơ sở kết luận chính xác
là can phạm đã phạm tội. Nếu phát hiện ra vụ án bị xử oan TAND tối cao sẽ
ra quyết định tiêu án và giao cho Toà án cấp phúc thẩm xử lại và tha cho
người bị oan.
Tội nặng xử nhẹ: Là trường hợp Toà án áp dụng hình phạt nhẹ hơn so
với hình phạt đáng lẽ phải áp dụng hoặc đã áp dụng điều luật nhẹ hơn so với
điều luật đáng lẽ phải áp dụng.
Tội nhẹ xử nặng: Là những trường hợp Toà án áp dụng hình phạt đối
với bị cáo cao hơn so với hình phạt đáng lẽ phải áp dụng.
Tại Nghị định 318/ TTG ngày 20.10.1959 quy định TAND tối cao là cơ
quan xét xử cao nhất có nhiệm vụ, quyền hạn xử lại hoặc chỉ thị cho Toà án
cấp dưới xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm.
Tại Thông tư số 29/TT ngày 11/11/1959 quy định đối với bản án có
hiệu lực pháp luật của Tồ án phúc thẩm cần báo ngay cho TAND tối cao để
TAND tối cao tiêu án và tuỳ từng trường hợp có thể tự mình xử lại hoặc giao
cho TAND cấp tỉnh xử lại.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển của xã hội Hiến pháp đã được
nhiều lần thay thế cụ thể là Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980. Trong
các Hiến pháp đều quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của TAND tối cao.
Nhằm cụ thể hoá các quy định này luật tổ chức TAND được ban hành ngày
14/7/1960 sau đó được thay thế bởi Luật tổ chức TAND năm 1980. Trong
những lần thay đổi đó có một số thay đổi liên quan đến chế định giám đốc

18



thẩm như: về thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, thẩm quyền kháng nghị giám
đốc thẩm ….
Các quy định này đã góp phần rất lớn trong cơng việc đấu tranh phòng
chống tội phạm cũng như kịp thời sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án các cấp. Tuy
nhiên, do tình hình chính trị, kinh tế, xã hội chưa ổn định nên các quy định về
giám đốc thẩm cịn có những hạn chế nhất định nên việc hồn thiện các quy
định pháp luật cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống là rất cần thiết.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo hướng xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước đã đưa đến những thành tựu trong việc ổn
định về chính trị, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, ngồi những mặt tích cực thì
cũng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực mới, pháp luật có lúc bị bng
lỏng, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, còn nhiều vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tố tụng hình sự dẫn đến oan sai, vi phạm quyền và lợi ích của
cơng dân trong điều tra, truy tố, xét xử. Trong tình hình đó, những văn bản
pháp luật tố tụng hình sự đơn lẻ đã ban hành thể hiện sự khơng tồn diện,
khơng đồng bộ và có nhiều quy định khơng cịn phù hợp, khơng thực sự đáp
ứng u cầu đấu tranh phịng và chống tội phạm. Mặt khác, BLHS năm 1985
cũng đòi hỏi phải có một hệ thống các văn bản pháp luật tố tụng hình sự hồn
chỉnh, thống nhất và đồng bộ nhằm thực hiện các quy định của BLHS, giải
quyết tốt các vụ án hình sự cả về nội dung và hình thức. Để đáp ứng yêu cầu
trên ngày 18/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, khoá VIII, Quốc hội đã thơng qua
BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 ( gọi tắt là BLTTHS năm
1988). BLTTHS năm 1988 ra đời đánh dấu sự phát triển của pháp luật tố tụng

19



hình sự. Bộ luật này là thành tựu khoa học lớn, là kết quả của quá trình kế
thừa và phát triển các kinh nghiệm và kiến thức trong quá trình xây dựng và
phát triển khoa học luật tố tụng hình sự. Lần đầu tiên các quy phạm pháp luật
về giám đốc thẩm được pháp điển hoá và được quy định chi tiết ở chương
XXIX, gồm 19 Điều, từ Điều 241 đến Điều 259 BLTTHS năm 1988. Trong
Bộ luật này, các quy định về giám đốc thẩm đã được quy định một cách có hệ
thống, đầy đủ và khoa học, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
xét xử trong thời kỳ mới.
BLTTHS năm 1988 đã có sự kế thừa các quy định pháp luật trong thời
kỳ trước, giữ nguyên một số quy định về những vấn đề cơ bản như: tiếp tục
phân biệt thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, xác định tính chất của giám đốc
thẩm, duy trì quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm và quyền hạn của Hội
đồng giám đốc thẩm. BLTTHS năm 1988 đã quy định cụ thể về bốn căn cứ
kháng nghị giám đốc thẩm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
BLTTHS năm 1988 cũng quy định thêm về quyền của người bị kết án, cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc phát hiện những vi
phạm pháp luật trong các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tồ án và thơng báo cho người có thẩm quyền kháng nghị.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay.
Qua mười lăm năm thực hiện, BLTTHS năm 1988 đã được sửa đổi bổ
sung vào tháng 6 năm 1990, tháng 12 năm 1992 và lần thứ ba tháng 6 năm
2000 nhưng các quy định trong BLTTHS năm 1988 nói chung và các quy
định về giám đốc thẩm nói riên đã bộc lộ những thiếu sót, nhược điểm khơng
cịn phù hợp với tình hình xã hội có nhiều thay đổi, khơng còn phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ của nền kinh tế, cải cách hành chính, cải cách từ pháp. Vì
vậy, việc sửa đổi một cách toàn diện BLTTHS hiện hành là yêu cầu cấp thiết

20



×