Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.53 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN NGỌC LỆ HUYỀN

GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội- 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN NGỌC LỆ HUYỀN

GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Thị Phượng

Hà Nội- 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Ngọc Lệ Huyền

i


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................... iv
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ v
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI
TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố
tụng hình sự ....................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................... 13
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
trong tố tụng hình sự ....................................................................................... 15

1.2.1. Mục đích của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố
tụng hình sự...................................................................................................... 15
1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố
tụng hình sự ..................................................................................................... 19
1.3. Mối quan hệ giữa biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp với
một số biện pháp ngăn chặn khác trong tố tụng hình sự ................................. 22
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 26
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................... 27
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp ................................................................. 27
ii


2.1.1. Đối tượng áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp ... 27
2.2.2. Các nguyên tắc và căn cứ áp dụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp .. 29
2.2.3. Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp .................. 36
2.2.4. Thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp ...................................... 38
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về giữ người trong
trường hợp khẩn cấp ........................................................................................ 40
2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 40
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ........................................ 50
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 56
Chương 3 CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP . 57
3.1. Các yêu cầu của việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp .......................................................................................................... 57
3.1.1. Yêu cầu về chính trị .............................................................................. 57
3.1.2. Yêu cầu về pháp luật ............................................................................. 59

3.1.3. Yêu cầu về nghiệp vụ ............................................................................ 62
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp ...................................................................................... 62
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp .................................................................... 64
3.2.2. Các giải pháp khác ................................................................................ 66
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮTDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cụm từ đầy đủ

Cụm từ viết tắt
BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

TTHS


Tố tụng hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VKS

Viện kiểm sát

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số liệu điều tra, truy tố trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang từ
2015-2018 ............................................................................................. 43
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang năm 2015-2017......................................................................... 44
Bảng 2.3: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang năm 2018 .................................................................................. 44

v


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền có nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con
người, việc hồn thiện hệ thống pháp luật là một trong những yêu cầu cấp
thiết đòi hỏi Nhà nước cần thực hiện đồng bộ, nhanh chóng và hiệu quả, trong
đó có hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2015 ra đời đã kế thừa và phát triển một bước về pháp luật tố
tụng hình sự của Nhà nước ta, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm
2013, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp; đáp ứng yêu cầu thực tiễn của
công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người.
Một trong những nội dung có nhiều điểm mới của BLTTHS năm 2015
là về các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn (BPNC) là biện pháp tố
tụng quan trọng nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn
cứ người bị buộc tội gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ
tiếp tục phạm tội thì cơ quan, người có thẩm quyền có thể áp dụng một trong
các biện pháp: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Khi
áp dụng một trong các biện pháp này luôn ảnh hưởng đến quyền con người,
quyền công dân nên pháp luật tố tụng hình sự ln có quy định rất chặt chẽ về
trình tự, thủ tục, điều kiện, thẩm quyền và về thời hạn áp dụng.
Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những
BPNC được quy định chi tiết tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
và thay thế cho biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" quy định tại
Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Trước đó, trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 có quy định “bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và
1


trong các trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang”. Việc bắt người còn là

vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị- xã hội, có tác động trực tiếp đến
quyền tự do về thân thể của công dân, một trong các quyền nhân thân quan
trọng nhất của con người. Sự sửa đổi này một mặt nhằm bảo đảm phù hợp với
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định
của Tịa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát” (Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 quy định khi có căn cứ bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền
được phép bắt trước, sau đó mới đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt).
Mặt khác cũng nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế sau hơn 10 năm thi
hành các quy định liên quan đến bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Với những điều chỉnh căn bản về căn cứ
và nội dung, biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần được tiếp tục
nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, nhằm đánh giá những mặt
tích cực, hạn chế, xác định những nguyên nhân, tồn tại trên cơ sở đó đưa ra
phương hướng hồn thiện những quy định của pháp luật về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thời
gian tới. Trong phạm vi luận văn này, tôi xin đề cập đến vấn đề: “ Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, các biện pháp ngăn chặn là vấn đề được nhiều
người quan tâm nghiên cứu và đã được thể hiện trong các cơng trình khoa học
được cơng bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành và luận văn thạc sĩ, một số
giáo trình giảng dạy mơn pháp luật, phần lớn đã tập trung làm rõ được các
vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan. Tiêu biểu là các cơng trình:
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2013;
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân, năm 2018;
2



Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Kiểm sát Hà
Nội, NXB Chính trị quốc gia sự thật, năm 2016;
Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, luận án tiến sỹ Luật
học, Trần Quang Tiệp, năm 2005;
Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam,
luận văn thạc sỹ luật học, Lê Văn Bình, năm 2010;
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sỹ Luật học, Nguyễn Trọng Phúc, năm 2010;
Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sỹ luật học,
Nguyễn Hồng Ly, năm 2011;
Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Thị Huân, năm 2013;
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, luận văn
thạc sỹ luật học, Nguyễn Thị Thu Hoài, năm 2015;
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ
luật học, Nguyễn Thị Ninh Bình, năm 2017;
Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn thạc sỹ luật học, Khổng Minh Quân, năm
2018;
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ luật học, Đặng Thị
Thảo Vân, năm 2019;
Biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, TS Vũ Gia Lâm, Tạp chí Kiểm
sát số 01 (01/2019).
3



Có thể nói, những vấn đề chung về BPNC cũng như một số biện pháp
ngăn chặn cụ thể đã được nhiều tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, sau khi Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2018 thì chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Luận văn trên cơ sở nghiên
cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng, xác định những hạn chế của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, để từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp bảo đảm đúng đắn trong
quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn. Do đó, đề tài "Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam" là mang tính cấp thiết và
nhằm mang lại hiệu quả thiết thực hơn trong quá trình áp dụng biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố
tụng hình sự (TTHS) và thực tiễn về áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần thi hành đúng
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong thời gian tới.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề lý luận về biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý
nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Đối tượng áp
dụng, thẩm quyền áp dụng, căn cứ và thủ tục giữ người trong trường hợp
khẩn cấp.
Phân tích, bình luận các quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Đánh giá thực trạng việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp. Tìm ra những ưu điểm, những điểm bất cập, hạn chế của thực trạng
4



trên. Từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp và góp phần
nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
* Về mặt lý luận
Là một cơng trình nghiên cứu độc lập và chuyên sâu về biện pháp ngăn
chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong pháp luật TTHS Việt Nam,
luận văn làm rõ những khái niệm, đối tượng, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn
chặn giữ người, từ đó góp phần bổ sung, hồn thiện hệ thống lý luận khoa học
về các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp nói riêng.
* Về mặt thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp ngăn
chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp giúp cho việc áp dụng các quy
định này được chính xác, đúng đắn, khơng bỏ lọt kẻ phạm tội, không làm oan
người vô tội. Từ đó, mở đầu cho một giai đoạn TTHS được chính xác, kịp
thời, nghiêm minh và đúng pháp luật.
Bên cạnh việc nghiên cứu thực trạng về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thời gian tới.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường
hợp khẩn cấp trong TTHS Việt Nam;
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn giữ
người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS;
- Thực tiễn áp dụng các quy định của luật tố tụng hình sự về biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

5


5.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015.
+ Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong vi một số tỉnh phía Bắc như:
Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Dương…
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh
phịng chống tội phạm. Đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp phân tích, so sánh luật học, bình luận được sử dụng để
tìm hiểu những vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh, đánh giá được sử dụng khi
tìm hiểu thực trạng pháp luật về giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo
pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn giải được sử dụng khi nghiên
cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giữ người trong trường hợp khẩn
cấp trong tố tụng hình sự
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giữ
người trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG
TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong
tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm
Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng trong luật
TTHS nước ta. Thời gian trước đây, các biện pháp này đã được quy định
trong Luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, sắc luật số 002-SLt ngày
18/6/1957 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc luật 02-SL ngày
15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hịa miền Nam Việt Nam
bao gồm các quy định về việc bắt người, giam, tha, khám xét và được gọi là
những biện pháp cưỡng chế [12,tr.198].
Các biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời
ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc người bị nghi là thực hiện tội phạm
(người bị nghi ngờ thực hiện tội phạm nhưng chưa bị khởi tố bị can), bị can,
bị cáo bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Các biện pháp ngăn chặn khi được
áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi
nhận trong Hiến pháp. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn gắn liền với sự
hạn chế một số quyền và tự do cá nhân đối với bị can, bị cáo, người có liên
quan đến việc thực hiện tội phạm, nhưng lại bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân khác như: người bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan.
Từ trước đến nay, khái niệm biện pháp ngăn chặn không được đưa ra
trong luật, tuy nhiên trong một số nghiên cứu ở nước ta, các tác giả đã đưa ra

nhiều khái niệm khác nhau về biện pháp ngăn chặn.
7


Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp ngăn chặn là:
Biện pháp cưỡng chế về mặt Tố tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ
đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây
cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [21,tr69].
Trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, khái niệm biện pháp ngăn chặn được hiểu như sau:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị
can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp
khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [10,
tr133].
Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu pháp
luật, cán bộ làm cơng tác thực tiễn phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
được cơng bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo,
tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích
nội dung của các quy phạm pháp luật tại BLTTHS cũng như thực tiễn áp dụng
chúng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
Trong BLTTHS năm 2015, các biện pháp ngăn chặn được quy định tại
Mục I Chương VII. Mặc dù khơng có khái niệm cụ thể về biện pháp ngăn
chặn nhưng tại điều 109 BLTTHS có chỉ ra các căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn như sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ
chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp

dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam,
8


bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.
Từ đây, chúng ta có thể hiểu biện pháp ngăn chặn là biện pháp do cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị nghi là
thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu
hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội [12,tr197].
Từ khái niệm về biện pháp ngăn chặn ngồi việc nêu rõ tính chất, mục
đích và đối tượng áp dụng của biện pháp ngăn chặn cần phải xác định đúng
chủ thể áp dụng. Chủ thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ là cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Theo quy định của pháp luật, một số
cơ quan khác cũng được áp dụng biện pháp ngăn chặn đó là người chỉ huy
đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi
sân bay, bến cảng trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang thì bất cứ ai
trơng thấy đều có quyền bắt.
BLTTHS năm 2015 quy định những biện pháp ngăn chặn gồm: giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Mỗi biện pháp ngăn
chặn có quy định cụ thể về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng nhằm đảm
bảo hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi.
Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những
biện pháp ngăn chặn được quy định chi tiết tại Điều 110 BLTTHS năm 2015
và thay thế cho biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" quy định tại
Điều 81 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, bắt
người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn độc lập và căn cứ
bắt được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 81, trong đó tại điểm a khoản 1 quy

định: “Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
9


rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều 17 BLHS năm
1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng quy định người chuẩn bị phạm
tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi họ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy: Một người chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và có thể bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn Bắt người trong trường hợp khẩn cấp nếu người đó chuẩn bị
thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Quy
định này nhằm mục đích ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội trong
trường hợp có đủ cơ sở để khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn
chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi chuẩn bị phạm
tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích của Nhà nước và cơng dân
nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa rất nghiêm trọng. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách, cần ngăn chặn ngay, không để tội phạm
xảy ra.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng Điều 81 của BLTTHS năm 2003 về Bắt
người trong trường hợp khẩn cấp” nói chung và đối với căn cứ áp dụng để bắt
khẩn cấp nói riêng, cịn một số bất cập, hạn chế như : Theo quy định của Điều
81 BLTTHS năm 2003 thì “bắt trước, phê chuẩn sau”, là chưa đảm bảo tinh
thần của Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của
Tịa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”; bên cạnh đó, căn cứ
để bắt khẩn cấp quy định “Khi có căn cứ để cho rằng... là cịn mang tính chất
định tính, chưa cụ thể.
BLTTHS năm 2015 đã có sự sửa đổi căn bản về cả căn cứ và nội dung
đối với trường hợp “Bắt người trong trương hợp khẩn cấp”, cụ thể đã được
sửa thành biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”.

Trong các tài liệu hiện nay, còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
10


- Theo giải thích của Từ điển Tiếng Việt của NXB Bách Khoa Việt Nam
năm 2006 thì giữ là làm cho ở ngun tại vị trí nào đó, khơng có sự di chuyển,
hoặc khơng rơi, khơng đổ. Theo đó có thể thấy, giữ người là một thuật ngữ dùng
để chỉ một hành vi tác động vào quyền tự do về thân thể của một người nào đó
nhưng đảm bảo được sự chủ động của người thực hiện hành vi trong việc nắm
giữ nhằm vơ hiệu hố sự chống cự hay sự tự do hoạt động của đối tượng bị giữ.
Về bản chất, đây là một hành vi mang tính chất cưỡng chế dùng quyền lực của
chủ thể thực hiện hoặc dựa vào quyền lực khác để buộc đối tượng bị áp dụng
phải tuân theo nhằm đạt được một mục đích nào đó.
- Theo Từ điển tiếng Việt năm 1997 của Trung tâm từ điển học, thuộc
Viện Ngơn ngữ học thì:
+ “Trường hợp” là tình hình cụ thể trong đó sự việc nói đến xảy ra hoặc
giả định xảy ra, trong quan hệ với các tình hình khác có thể có;
+ "Khẩn cấp" có hai nghĩa: cần được tiến hành, được giải quyết ngay,
khơng chậm trễ, và có tính chất nghiêm trọng, địi hỏi phải có ngay những
biện pháp tích cực để đối phó, khơng cho phép chậm trễ.
Như vậy, trường hợp khẩn cấp là tình hình cụ thể, trong đó sự việc nói
đến xảy ra hoặc giả định xảy ra, có tính chất nghiêm trọng, địi hỏi phải có
ngay những biện pháp tích cực để đối phó, khơng cho phép chậm trễ [15,tr8].
Trong pháp luật TTHS đương nhiên có rất nhiều trường hợp khẩn cấp
(như trường hợp khẩn cấp bị can sắp chết, bị can có thể hé lộ những tình tiết
đặc biệt quan trọng tới vụ án thì có thể hỏi cung vào ban đêm).
Trước đây, tại Luật số 103-SL ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân
dân và Sắc luật 002 ngày 18/6/1957 quy định cụ thể về các trường hợp phạm

pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp cũng đã có đề cập tới vấn đề này. Cụ
thể là tại Chương II Luật số 103-SL (Điều 4) thì những trường hợp phạm
11


pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp là những trường hợp đặc biệt do
luật quy định và được cụ thể trong Sắc lệnh số 002-SL ngày 18/6/1957 của
Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ:
Điều 2: Các trường hợp khẩn cấp
- Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp;
- Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt
thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp;
- Tìm thấy chứng cứ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người
tình nghi phạm pháp;
- Có hành động đang chuẩn bị trốn hoặc đang trốn;
- Có hành động tiêu huỷ chứng cứ, làm giả chứng cứ. Có sự thơng đồng
giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật;
- Căn cước, lai lịch không rõ ràng.
Hiện nay, những trường hợp khẩn cấp để giữ người thì đã được luật hóa
tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 bao gồm: Có đủ
căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Người cùng thực hiện tội phạm
hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và
xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn; Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc
nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Sau khi phân tích hai phạm trù trên thì khái niệm về giữ người trong
trường hợp khẩn cấp được hiểu như sau: Giữ người trong trường hợp khẩn
cấp là biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp

dụng, ngay lập tức làm hạn chế tự do về thân thể đối với người ở trong
trường hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn việc người đó thực hiện tội phạm hoặc
ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ [11 ,tr.201].
12


Việc đưa ra khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp có ý nghĩa
rất quan trọng. Khơng chỉ góp phần bổ sung, hoàn thiện các quy định của
pháp luật về biện pháp ngăn chặn mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có những điều kiện thuận
lợi để thực hiện tốt vai trị, chức năng của mình trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm
Căn cứ vào khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp nêu trên và
quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, ta có thể khái quát đặc
điểm cơ bản của giữ người trong trường hợp khẩn cấp như sau:
- Thứ nhất: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp trực tiếp ảnh hưởng
và tác động tới quyền con người của đối tượng bị giữ. Điều này thể hiện ở
chỗ: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phần nào hạn chế quyền được tôn
trọng và bảo vệ (quyền bất khả xâm phạm) về tự do thân thể (Điều 20) và
quyền tự do đi lại (Điều 23) được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đó
được coi là những quyền cơ bản, quan trọng của con người được Hiến pháp
và pháp luật bảo vệ trong trường hợp thơng thường. Tuy nhiên, do tính chất
khẩn cấp của tình huống mà việc hạn chế quyền con người của đối tượng bị
giữ là cần thiết và được pháp luật cho phép “trong khuôn khổ” về các trường
hợp nào thì mới được giữ, đối tượng bị giữ là ai, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
giữ như thế nào [15,tr10]. Chính vì vậy mà khơng chỉ BLTTHS có quy định
về căn cứ pháp lý để giữ khẩn cấp mà ngay tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
2013 đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc hạn chế quyền con người
của đối tượng bị áp dụng BPNC trong TTHS nói chung và đối tượng bị bắt

khẩn cấp nói riêng: Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
13


- Thứ hai: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một hình thức ngăn
chặn có tính độc lập tương đối được quy định tại Điều 109 và 110 BLTTHS
hiện hành. Sở dĩ nó được coi là một biện pháp bắt độc lập có tính chất ngăn
chặn vì nó có mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm
quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, văn bản tố tụng riêng, trong đó:
+ Mục đích áp dụng là để: Ngăn chặn tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng xảy ra; ngăn chặn người bị tình nghi trốn hoặc tiêu hủy,
tẩu tán dấu vết của tội phạm; tạo thuận lợi cho việc giải quyết vụ án hình sự;
+ Đối tượng bị áp dụng: Là những người chưa bị khởi tố hình sự về
hành vi đang được phát hiện, điều tra, nhưng lại có đầy đủ các căn cứ để cho
rằng chính đối tượng này là kẻ đã gây ra tội phạm đang được phát hiện, điều
tra. Các căn cứ này đã được luật hóa thành 3 trường hợp được phép giữ khẩn
cấp [15,tr10].
+ Căn cứ áp dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm
2015, căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là:
Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: khi có đủ căn cứ để xác định người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng;
Trường hợp khẩn cấp thứ hai: người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị
hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác
nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn;
Trường hợp khẩn cấp thứ ba: có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ
ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm

và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
+Thẩm quyền áp dụng: Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp là các chủ thể có cơ hội tiếp xúc với các đối
14


tượng có thể bị giữ khẩn cấp, trong đó có cả những chủ thể không phải là cơ
quan hay người tiến hành tố tụng như người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu
bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư
vùng. Tuy nhiên, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp vẫn được quy định rất chặt chẽ, chứ không phải là bất kỳ
ai cũng có quyền giữ như trong bắt quả tang hay bắt người đang bị truy nã.
Viện Kiểm sát không cần xem xét việc phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh
giữ người trong trường hợp khẩn cấp [15,tr10].
+ Thủ thủ áp dụng: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân
theo thủ tục luật định và bao gồm các thủ tục cơ bản như: Đọc lệnh (giữ người
trong trường hợp khẩn cấp); Hành vi khống chế đối tượng bị giữ khẩn cấp;
lập biên bản giữ khẩn cấp; lấy lời khai, kiểm tra, xác minh các thông tin liên
quan tới đối tượng bị giữ khẩn cấp và vụ việc đang xem xét.
+ Về văn bản áp dụng: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần sử
dụng và ban hành các văn bản tố tụng như: Lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản lấy lời
khai của người bị giữ.
+ Thời điểm giữ: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thể được tiến
hành bất kỳ vào thời điểm nào, kể cả vào ban đêm, khác hẳn trường hợp bắt bị
can, bị cáo để tạm giam.
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp trong tố tụng hình sự
1.2.1. Mục đích của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong
tố tụng hình sự

Mục đích của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự là vấn đề mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần đạt được khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đó. Theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm
15


2015 thì các biện pháp ngăn chặn để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có
căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án. Như vậy, việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn chính là nhằm đạt được các mục đích sau:
- Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm bao gồm:
+ Ngăn chặn tội phạm không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra.
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn khác nhau để ngăn
chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Trong
đó, biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện
pháp được áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Ngăn chặn tội
phạm ở đây là ngăn chặn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra.
Thông thường, khi thực hiện một tội phạm do cố ý, người phạm tội sẽ tìm
kiếm, sửa soạn cụng cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực
hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi
ích của Nhà nước và cơng dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị
đe dọa rất nghiêm trọng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách, cần ngăn
chặn ngay, không để tội phạm xảy ra.
+ Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục
tiếp diễn.
Bên cạnh đó, việc ngăn chặn tội phạm khi áp dụng biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp cũng là sự ngăn chặn không cho người phạm tội
thực hiện tội phạm được đến cùng. Đây là trường hợp tội phạm đang diễn ra,
đang xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, cho nên

việc kịp thời áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp sẽ ngăn
chặn được hành vi phạm tội tiếp diễn, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra [20,tr45].
16


- Thứ hai, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng để bảo đảm các điều kiện pháp
lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy
định của pháp luật như bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động
tố tụng khi cần thiết, bảo đảm bản án đã tuyên có đủ điều kiện thi hành án khi
bản án có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, cũng bảo đảm tính chính xác, khách
quan của hoạt động tố tụng đó như: Bảo đảm bí mật về điều tra, khơng cho bị
can, bị cáo có điều kiện để thông cung [17,tr20].
Tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà các biện pháp ngăn chặn chỉ có
mục đích bảo đảm cho một loại công tác như điều tra, hoặc truy tố, hoặc xét
xử hay thi hành án. Còn ở phạm vi cả quá trình tố tụng hình sự thì mục đích
cuối cùng của các biện pháp ngăn chặn do các cơ quan có thẩm quyền áp
dụng ở bất cứ giai đoạn nào cũng là bảo đảm cho việc quyết định của Tịa án
được khách quan, chính xác và được thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật
[17,tr20].
Trên thực tế, mỗi một biện pháp ngăn chặn cụ thể ở một giai đoạn tố
tụng đều do một cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng với mục đích là bảo đảm
cho cơ quan đó hồn thành chức năng nhiệm vụ của mình theo quy định của
pháp luật.
- Thứ ba, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự có một
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong hoạt động này, tính quyền lực hay sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước tạo nên sự bất bình đẳng cho các bên khi tham
gia quan hệ pháp luật tố tụng dẫn đến quyền con người trong tố tụng hình sự

lại là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng
nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền sống; quyền được bảo vệ
không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ
17


tùy tiện…. Do đó, hoạt động tố tụng hình sự trong mọi quốc gia phải thận
trọng và chú trọng việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân [24].
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền này lần đầu tiên được quy định
tại Điều 9 Tun ngơn tồn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR):
“Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”, sau đó được Cơng
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) cụ thể hóa hơn
tại Điều 9 như sau: “ Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an tồn cá
nhân. Khơng ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ
trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà
pháp luật đó quy định”.
Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 2, Điều 20 Hiến pháp năm
2013: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tịa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”.
Việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trực tiếp
ảnh hưởng và tác động tới quyền con người của đối tượng bị giữ. Điều này
thể hiện ở chỗ: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phần nào hạn chế quyền
được tôn trọng và bảo vệ (quyền bất khả xâm phạm) về tự do thân thể và
quyền tự do đi lại. Đó được coi là những quyền cơ bản, quan trọng của con
người được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ trong trường hợp thông thường.
Tuy nhiên, do tính chất khẩn cấp của tình huống mà việc hạn chế quyền con
người của đối tượng bị giữ là cần thiết. Và để đảm bảo tối đa quyền con
người, quyền công dân, việc giữ khẩn cấp một người phải được tiến hành theo
quy tắc nhất định, do những người có thẩm quyền quyết định và tn thủ trình

tự, thủ tục pháp luật quy định.
Như vậy, qua phân tích ở trên cho thấy, mục đích của giữ người trong
trường hợp khẩn cấp chính là ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc khởi tố,
18


×