Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VÂN ANH

HỢP ĐỒNG MUA BN DOANH NGHIP
THEO PHP LUT VIT NAM

luận văn thạc sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VÂN ANH

HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Chí Hiếu

Hµ néi - 2009



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP

6

1.1.

Tổng quan về hoạt động mua bán doanh nghiệp

6

1.1.1.

Lược sử ra đời và phát triển của hoạt động mua bán
doanh nghiệp

6


1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của hoạt động mua bán
doanh nghiệp trên thế giới

6

1.1.1.2. Sự ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh
nghiệp tại Việt Nam

9

Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh
nghiệp

11

1.1.2.1. Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động
mua bán doanh nghiệp

11

1.1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp

16

1.1.2.

1.2.

Hợp đồng mua bán doanh nghiệp


19

1.3.

Điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng mua
bán doanh nghiệp

24

1.3.1.

Vai trò của pháp luật trong ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán doanh nghiệp

24

1.3.2.

Mơ hình pháp luật về hợp đồng mua bán doanh

26

1


nghiệp
1.3.3.

Những nội dung cấu thành pháp luật về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp


30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở

33

VIỆT NAM
2.1.

Các quy định về hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh

33

nghiệp
2.1.1.

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh

33

nghiệp
2.1.1.1. Chủ thể trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp phải là

33

những tổ chức, cá nhân được quyền mua bán doanh
nghiệp
2.1.1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp


37

2.1.1.3. Hình thức của hợp đồng mua bán doanh nghiệp

41

2.1.2.

Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu

2.1.2.1. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do bị lừa

43
43

dối
2.1.2.2. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do vi phạm

45

quy định về đồng tiền thanh toán
2.1.2.3. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp vô hiệu do vi phạm

46

các quy định của pháp luật cạnh tranh
2.2.

Các quy định về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng


47

mua bán doanh nghiệp
2.3.

Thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp và trách
nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng mua bán doanh
nghiệp

2

57


2.3.1.

Thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp

57

2.3.2.

Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng mua bán

59

doanh nghiệp
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG


63

VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
3.1.

Sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng mua bán doanh nghiệp

63

3.2.

Phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

70

hợp đồng mua bán doanh nghiệp
3.3.

Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng mua bán doanh nghiệp

74

3.3.1.

Xây dựng, ban hành văn bản pháp luật riêng về mua
bán doanh nghiệp để thống nhất sự điều chỉnh pháp
luật đến mối quan hệ mua bán doanh nghiệp


74

3.3.2.

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp

77

3.3.3.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng

79

3.4.

Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan có thẩm
quyền về hoạt động mua bán doanh nghiệp

79

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84


3


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế hiện nay, làn sóng sáp nhập, mua
bán doanh nghiệp đang phát triển khá mạnh mẽ, đặc biệt ở một số nước có
kinh tế thị trường phát triển. Trên thế giới, hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp (gọi tắt là M&A) được hình thành khá sớm và được coi là một
trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo ra xu
thế tập trung lại để thống nhất, tập hợp nguồn lực tài chính, cơng nghệ, nhân
lực, thương hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hoạt động
M&A nói chung và mua bán doanh nghiệp nói riêng đều phát sinh và thể hiện
quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt doanh nghiệp của người chủ sở hữu.
Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động M&A được pháp luật thừa nhận
và có khung pháp luật điều chỉnh, nhất là các nước có thị trường M&A phát
triển như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản…
Hiện tượng sáp nhập, mua lại doanh nghiệp đối với thế giới khơng có
gì xa lạ, nhưng đối với Việt Nam lại là một hiện tượng kinh tế, pháp lý khá
mới. Trong những năm gần đây, hoạt động mua bán doanh nghiệp diễn ra khá
nhộn nhịp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước chưa có nhiều thơng tin,
hiểu biết về các điều kiện, thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động này tại Việt Nam chưa được quy định cụ thể, việc tính
tốn xác định chi phí thực hiện giao dịch mua lại doanh nghiệp chưa rõ
ràng..., bởi vậy, hoạt động mua bán doanh nghiệp chưa thật hiệu quả. Hợp
đồng mua bán doanh nghiệp do vậy sẽ mang tính rủi ro cao, đặc biệt là việc
xác định tài sản vơ hình của doanh nghiệp bán hoặc doanh nghiệp được sáp
nhập. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
còn rất sơ khai, một số quy định bộc lộ sự mâu thuẫn và không thống nhất.


4


Đối nghịch với sự chậm thích ứng của pháp luật thì thị trường M&A trong
nước đang có xu hướng phát triển bởi đầu tư theo hình thức mua bán doanh
nghiệp được xem là sự lựa chọn ưu tiên số một đối với các nhà đầu tư trong
thời điểm khủng hoảng này.
Từ những cơ sở trên, có thể nhận thấy rằng hoạt động M&A đóng vai
trị tích cực trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, khung pháp
lý về vấn đề này và những quy định riêng về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
lại chưa hoàn thiện, gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Chính sự
cấp thiết này nên tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: "Hợp đồng mua bán
doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo các quy định của pháp luật Việt
Nam là một đề tài khá mới hiện nay. Qua tìm hiểu, hiện nay chỉ có một số bài viết
trên các trang báo điện tử về hoạt động M&A như: "FDI và M&A ở Việt Nam",
/>"M&A tại Việt Nam: con đường mới bắt đầu", />index.php?area=1&p=news&newsid=348; "Thị trường M&A ở Việt Nam",
/>"M&A tại Việt Nam - Những vấn đề cần lưu ý", ngày 06/11/2007,
VN/M-A/Kien-thuc/2007/11/3B9B1C2E; "Làn sóng
mạnh mẽ của hoạt động mua bán và sáp nhập", ngày 19/08/2007,
"Tổng quan về hoạt động
M&A", ngày 10/08/2007, />08/3B9AF9EE; "Một số quy định pháp luật về mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp", ngày 29/08/2007, />08/3B9AFC9A; "Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở
Việt Nam", />
5


Những bài viết trên các trang báo này chỉ nêu khái quát về hoạt động

mua bán doanh nghiệp và không đi cụ thể vào những vấn đề pháp lý liên đến
hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Do vậy, có thể nói, hiện nay chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc và đầy đủ chi tiết về các vấn đề
pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo
pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam.
Thông qua cơ sở lý luận về hoạt động mua bán doanh nghiệp và hợp đồng
mua bán doanh nghiệp, kết hợp với những đánh giá thực tiễn của hoạt động
này trong thời gian qua để làm sáng tỏ một số vấn đề trong các quy định pháp
luật hiện hành, đồng thời, nêu ra những điểm bất cập, vướng mắc để căn cứ
vào đó có những kiến nghị về giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng mua bán doanh nghiệp cũng như hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp tại Việt Nam.
Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận về hoạt động mua bán doanh
nghiệp, pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp;
- Nghiên cứu, phân tích những quy định pháp luật hiện hành về hợp
đồng mua bán doanh nghiệp;
- Đánh giá, tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp
luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng.

6


4. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp hay cịn được gọi tắt là
M&A ln là một cụm từ song hành với nhau, tuy nhiên giữa chúng lại tồn tại
hai khái niệm khác nhau và cách thức tiến hành việc kết hợp hai doanh nghiệp
theo một trong hai hình thức này cũng khơng giống nhau. Việc nghiên cứu
các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng của hai hình thức này sẽ có nhiều
vấn đề cần được đề cập. Do vậy, với phạm vi một đề tài nghiên cứu khoa học,
tác giả sẽ không đi sâu nghiên cứu hết các vấn đề về hoạt động M&A và pháp
luật về hợp đồng của hai hình thức này mà chỉ tập trung nghiên cứu các vấn
đề pháp lý của Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Trên cơ sở đó,
kết hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh để đưa ra một số giải pháp nhằm
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động M&A nói chung và pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phép biện chứng
duy vật của triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên
cứu. Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng phối
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, lý
giải, lập luận những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo
các quy định pháp luật hiện hành.
- Phương pháp so sánh dùng để so sánh các loại hợp đồng gần giống
với hợp đồng mua bán doanh nghiệp để thấy rõ điểm khác của hợp đồng này
với hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
6. Những điểm mới của luận văn
Với đề tài này, luận văn đã nêu ra được những điểm mới sau đây:

7


- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng

mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam;
- Đưa ra khái niệm khái quát về hợp đồng mua bán doanh nghiệp dựa
trên sự phân tích các đặc trưng pháp lý cơ bản của hợp đồng này;
- Nêu và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp tại Việt Nam;
- Đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hồn thiện pháp
luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH
NGHIỆP
1.1.1. Lƣợc sử ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh nghiệp
1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh
nghiệp trên thế giới
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đánh dấu thời kỳ đỉnh cao
trong quá trình tập trung tư bản của nền kinh tế thế giới cùng sự phát triển với

tốc độ mà ngày nay chúng ta gọi là "nóng" của các cường quốc mới nổi như
Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản. Đây là thời kỳ được coi là chuyển giao từ chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền với sự hình thành
của các tập đồn cơng nghiệp khổng lồ. Chính sự chuyển giao này đã dẫn đến
sự phát triển của hoạt động M&A, mà thơng qua đó các cơng ty có thể thực
hiện việc thâu tóm quyền lực quản trị của mình tại doanh nghiệp cũng như
thâu tóm thị trường.
Bước sang thế kỷ XX nền kinh tế thế giới đã chứng kiến lịch sử phát
triển thăng trầm của hoạt động M&A. Đặc biệt, nền kinh tế Hoa Kỳ đã chứng
kiến 5 chu kỳ đỉnh cao (hay cịn gọi là làn sóng chuyển nhượng) của hoạt động
sáp nhập cơng ty. Làn sóng đầu tiên về M&A trên thế giới được nhận biết một
cách rõ nét. Cuộc đại sáp nhập này (1895 - 1905) bắt nguồn từ tình trạng
khủng hoảng thừa năm 1893 khi lượng cầu suy yếu kéo theo giá tiêu dùng
giảm mạnh. Đứng trước nguy cơ này, hàng loạt công ty Mỹ đã thực hiện sáp

9


nhập ngang nhằm tạo ra những dây chuyền sản xuất khổng lồ, điển hình là vụ
PepsiCo. mua 80% cổ phần nước uống hoa quả Sandora LLC Ucraina.
Tiếp theo những năm sau đó, nền kinh tế Hoa Kỳ cịn tiếp tục chứng
kiến bốn làn sóng sáp nhập nữa vào những năm 1920; nửa sau thập niên 60;
nửa đầu thập niên 80; và nửa sau thập niên 90. Các chu kỳ sáp nhập đều rơi
vào những giai đoạn kinh tế phát triển thịnh vượng và hoạt động kinh doanh,
nhất là thị trường chứng khốn tăng trưởng mạnh.
Làn sóng chuyển nhượng thứ hai đã diễn ra vào cuối những năm 1910
và liên tục đến những năm 1920. Những cuộc sáp nhập vào cuối những năm
1920 hầu hết được diễn ra giữa các công ty nhỏ với nhau để thoát khỏi sự độc
quyền được tạo nên trong làn sóng chuyển nhượng trước. Sự thiếu hụt nguồn
vốn cần thiết để cung cấp cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh, hiệu lực thi

hành của đạo luật chống độc quyền; những phán quyết của Tòa án tối cao trong
vụ Northern Securities Co. US., vào năm 1904 cấm tất cả những vụ sáp nhập
giữa hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên cùng một thị trường (sáp nhập ngang)
cùng với sự suy yếu của thị trường chứng khoán và sự giảm sút của nền kinh
tế vào năm 1929 đã khởi đầu cho sự sụp đổ của làn sóng sáp nhập thứ hai.
Sự suy thối của nền kinh tế trên khắp thế giới vào những năm 1930
và tiếp theo là sự bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã làm gián đoạn
sự phát triển của một làn sóng chuyển nhượng mới trong vài thập niên. Làn
sóng M&A thứ ba chỉ diễn ra trong những năm 1950 và kéo dài gần 20 năm.
Điểm phát triển cao nhất của làn sóng này vào năm 1968 khi cuộc khủng
hoảng dầu mỏ đẩy nền kinh tế thế giới vào sự suy thối.
Làn sóng chuyển nhượng thứ tư bắt đầu vào năm 1981 khi thị trường
chứng khốn được khơi phục từ sự suy thối kinh tế trước đó. Sự bắt đầu của
làn sóng chuyển nhượng này diễn ra cùng thời điểm với sự thay đổi trong
chính sách chống độc quyền, sự bãi bỏ quy định về độc quyền trong dịch vụ

10


tài chính, sự thiết lập những cơng cụ tài chính và thị trường mới (thị trường
trái phiếu), cũng như sự phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp điện
tử. Đặc điểm của sự kiểm soát liên kết cho thị trường vào thời điểm này được
thể hiện bởi một số lượng lớn các giao dịch mang tính chất loại trừ, sự chuyển
nhượng giữa các đối thủ cạnh tranh và những giao dịch cá nhân. Cũng như
những làn sóng chuyển nhượng trước đó, làn sóng thứ tư này một lần nữa lại
bị suy yếu dần sau sự tụt dốc của thị trường chứng khốn vào năm 1987.
Làn sóng chuyển nhượng lần thứ năm bắt đầu vào năm 1993. Nó phát
triển trong thời điểm nền kinh tế toàn cầu đang trên đà tăng trưởng, sự cải tiến
kỹ thuật, sự bãi bỏ quy định và việc tư nhân hóa cũng như sự bùng nổ của thị
trường tài chính và kinh tế. Điểm nổi bật đầu tiên của làn sóng chuyển

nhượng này đó là sự lan truyền của nó và sự xuất hiện một số lượng lớn các
giao dịch mua bán sáp nhập có yếu tố nước ngoài.
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới tiếp tục chứng kiến một làn
sóng M&A mới, dưới những hình thức đa dạng và quy mơ lớn chưa từng có.
Đợt sóng này khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi các nền kinh tế phát triển mà
còn lan tỏa sang các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển như Hàn Quốc,
Singapore, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông... Sự bùng phát của hoạt
động chuyển nhượng cũng trùng khớp với sự khôi phục dần của thị trường tài
chính và nền kinh tế sau khi giảm sút được bắt đầu vào năm 2000. Các giao dịch
mua bán hiện tại dường như chú tâm đến các thỏa thuận mang tính thiện chí
hơn là thơng qua việc đấu thầu có tính cạnh tranh, vì số lượng các giao dịch
thơng qua đấu thầu giữa các đối thủ cạnh tranh chỉ ở mức độ khiêm tốn [26].
Qua đây có thể nhận thấy rằng, sự phát triển của hoạt động M&A
trong nền kinh tế Hoa Kỳ được xem như một mơ hình kiểu mẫu. Từ sự phát
triển thăng trầm của nó mà các nước có nền kinh tế mới nổi hoặc đang phát
triển sau này xem đây như một nguyên lý đế định hướng cho hoạt động M&A
tại từng quốc gia. Và cho dù có thực hiện theo phương thức nào đi nữa, các

11


làn sóng chuyển nhượng đều phát triển theo q trình tỷ lệ thuận với sự phát
triển của nền kinh tế và thị trường chứng khốn. Nó chịu sự tác động bởi
những thay đổi trong các quy định pháp luật của bộ máy chính quyền cũng
như thường bị cuốn theo sự thay đổi mang tính đột phá trong kỹ thuật và công
nghệ. Tuy nhiên, hiệu quả mà các hoạt động chuyển nhượng này mang lại đó
là khả năng đem lại cơ hội phục hồi nền kinh tế thường rất cao.
1.1.1.2. Sự ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh
nghiệp tại Việt Nam
Nếu như trước đây cụm từ "M&A" còn khá mới mẻ so với các doanh

nghiệp Việt Nam thì hiện nay nó đang dần trở thành một trào lưu khá quen
thuộc và có thể nói nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong điều kiện
nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập ở nước ta hiện nay. Ở Việt Nam,
hoạt động mua bán doanh nghiệp đã được quan tâm kể từ khi ban hành Luật
Doanh nghiệp năm 1999. Trước đó, phần lớn các giao dịch mua bán doanh
nghiệp diễn ra trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi theo Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1996. Tuy nhiên, kể từ sau thời điểm Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì mua
bán doanh nghiệp mới thực sự phát triển một cách mạnh mẽ. Năm 2007 đã
chứng kiến sự tăng vọt của số vụ M&A, 113 vụ, tổng giá trị giao dịch 1.753
triệu USD (Nguồn: Thomson Financial). 6 tháng đầu năm 2007 đã có 46 vụ
(tổng giá trị 626 triệu USD) so với 32 vụ (245 triệu USD) của cả năm 2006 và
18 vụ (61 triệu USD) của cả năm 2005 (Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ
Công thương). Một số vụ mua bán doanh nghiệp điển hình là: Cơng ty Cổ
phần Doanh nghiệp trẻ Đồng Nai mua lại Cheerfield Rama, Dai-ichi mua lại
Bảo Minh CMG, Kinh Đô mua lại Kem Wall’s, Anco mua lại nhà máy sữa
của Nestlé. Trong năm 2008, các hoạt động này cũng diễn ra khá mạnh mẽ:
Indochina Capital Vietnam Holding mua 20% cổ phần của Công ty Thời trang
Việt - Ninomaxx, Tập đoàn Goldman Sachs đầu tư 30% cổ phần của Công ty

12


cổ phần Diana, hay việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho
Eximbank bán 25% vốn điều lệ cho 4 nhà đầu tư nước ngoài là: Sumitomo
Mitsui Banking Corporation (SMBC),...
Cơ hội thu hút vốn đầy tiềm năng từ thị trường chứng khoán cùng sự
kiện Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 đã tạo động lực thúc đẩy
tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nỗ lực mở rộng kinh
doanh của khu vực tư nhân, tạo nguồn cung và cầu "hàng hóa - cơng ty" dồi

dào cho các hoạt động tài chính, đầu tư. Trên một sân chơi phổ biến hơn và
khung khổ pháp lý đã trở nên thuận lợi hơn, các doanh nghiệp Việt Nam ở tất
cả các thành phần kinh tế nhanh chóng làm quen và sử dụng M&A như một
công cụ chiến lược để phát triển hay cơ cấu lại doanh nghiệp của mình, đối
phó với sức nóng cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường.
Với những thương vụ mua bán "đình đám" đã nêu trên, có thể thấy
rằng các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đã thấy được những cơ
hội lớn tại thị trường Việt Nam. Bởi lẽ, thông qua việc mua lại doanh nghiệp,
nhà đầu tư có thể tiếp cận thị trường một cách nhanh nhất dựa trên những giá
trị sẵn có của cơng ty bị mua, bị sáp nhập tại Việt Nam. Đồng thời, việc đầu
tư bằng hình thức này sẽ làm giá tăng giá trị của doanh nghiệp mới ở Việt
Nam bằng thương hiệu, uy tín, chất lượng, hiệu quả, cơng nghệ, kỹ năng, kinh
nghiệm quản trị,…
Thơng qua q trình phát triển hoạt động mua bán doanh nghiệp tại
Việt Nam đã nêu trên, có thể thấy rằng nguyên nhân cơ bản cho sự phát triển
thị trường mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam chính là sự thay đổi trong
chính sách pháp luật để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế cũng như với cam
kết gia nhập WTO. Cụ thể, việc ra đời các luật và nghị định về kinh doanh
như Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Chứng
khốn năm 2007 giúp cho thị trường tài chính nói chung và thị trường mua

13


bán doanh nghiệp nói riêng trở nên minh bạch hơn thu hút được nhiều nhà
đầu tư cả trong nước lẫn ngoài nước. Hơn nữa, hoạt động mua bán doanh
nghiệp tuy mới ở Việt Nam, tuy nhiên, tại nước ngoài, hoạt động này đã
tương đối phổ biến và các nhà đầu tư nước ngồi đã có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động này nên họ sẽ có thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt Nam theo
hình thức này.

Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng đối với sự phát
triển của M&A đó là xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam đã bắt đầu mở
cửa trong các lĩnh vực dịch vụ như viễn thơng, ngân hàng và tài chính - những
lĩnh vực trước đây vốn thuộc về sự quản lý độc quyền của nhà nước. Với sự
thơng thống trong chính sách đầu tư cùng với sự tăng trưởng nóng của nền
kinh tế đã "sinh ra" quá nhiều công ty hoạt động trong các lĩnh vực vốn có
tính cạnh tranh cao này. Vì thế, để tồn tại và phát triển, các cơng ty có xu
hướng liên kết với nhau. Hơn nữa, hiện luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam tiếp tục tăng mạnh và một trong những cách thức để nhà đầu tư nước
ngoài chiếm lĩnh thị trường Việt Nam chính là thơng qua các đối tác Việt
Nam, điều này càng tạo đà cho hoạt động M&A phát triển.
1.1.2. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động mua bán
doanh nghiệp
Khái niệm: M&A trong tiếng Anh là từ viết tắt của thuật ngữ "Merger
and Acquisition" (sáp nhập và mua lại). Sáp nhập và mua lại được coi là một
hình thức đầu tư trực tiếp. Trong đó, các nhà đầu tư đem tiền đến mua lại
hoặc sáp nhập với cơ sở kinh doanh đã sẵn có. Khái niệm này bao gồm trong
đó nhiều hình thức điều chỉnh doanh nghiệp và không chỉ giới hạn trong hoạt
động sáp nhập hoặc mua lại mà có thể cịn nhiều các hình thức khác như chia,
tách, hợp nhất... Khi nói đến mua bán, sáp nhập doanh nghiệp người ta nghĩ
ngay đến thuật ngữ M&A. Chính vì lý do đó, M&A dường như trở thành một

14


cụm từ được phát âm cùng nhau, cùng nghĩa với nhau, tuy nhiên về bản chất
lại có những điểm khác biệt nhau.
Theo quan niệm của các nước trên thế giới, mua bán doanh nghiệp liên
quan đến việc một công ty mua lại một công ty khác. Nếu như một công ty

chiếm lĩnh được hồn tồn một cơng ty khác và đóng vai trị người chủ sở hữu
mới thì việc mua lại công ty đối tác được gọi là mua lại - Acquisition [25, tr. 7-8].
Trên góc độ pháp lý, cơng ty bị mua lại sẽ ngừng hoạt động, công ty tiến hành
mua lại sẽ nắm giữ quyền quản lý hoạt động kinh doanh của công ty kia, tuy
nhiên cổ phiếu của công ty đi mua lại vẫn được tiếp tục giao dịch bình
thường. Một cơng ty có thể mua lại một công ty khác bằng tiền mặt, cổ phiếu
hay kết hợp cả hai loại trên. Một hình thức khác phổ biến trong những thương
vụ mua bán nhỏ hơn là mua tất cả tài sản của công ty bị mua. Công ty X mua
tất cả tài sản của công ty Y bằng tiền mặt đồng nghĩa với việc công ty Y chỉ
cịn lại tiền mặt (và nợ, nếu như có nợ trước đó). Đương nhiên, cơng ty Y chỉ
là vỏ bên ngoài và cuối cùng sẽ thanh lý hoặc phải chuyển sang một lĩnh vực
kinh doanh khác.
Sáp nhập được hiểu là việc hai cơng ty, thường là có cùng quy mơ,
thống nhất sẽ cùng tham gia hợp nhất với nhau và trở thành một doanh
nghiệp. Một vụ sáp nhập với tính chất công bằng thường được gọi là "sáp
nhập cân bằng". Với một thương vụ sáp nhập như thế, cổ phiếu cũ của hai
cơng ty sẽ khơng cịn tồn tại mà công ty mới ra đời sẽ phát hành cổ phiếu thay
thế [25, tr. 7-8]. Tuy nhiên, trên thực tế những trường hợp sáp nhập cân bằng
thường hiếm khi xảy ra. Thông thường sẽ là một công ty mua lại công ty mua
lại một công ty khác với các điều khoản cho phép công ty bị mua tuyên bố
rằng hai bên sáp nhập cân bằng, mặc dù thực chất của thương vụ này là một
vụ mua lại, hay nói cách khác là thâu tóm. Và cũng có một số trường hợp một
thương vụ mua lại cũng được gọi là sáp nhập nếu Ban giám đốc, mà điển hình

15


là Giám đốc điều hành của các bên thỏa thuận sẽ hợp tác ngồi cùng nhau để
mang lại những lợi ích tối ưu cho cả hai bên. Ngược lại, nếu như tính "hữu
hảo" khơng tồn tại, nghĩa là khi bên bị mua lại khơng mong muốn bị sáp

nhập, thậm chí dùng các biện pháp tài chính để chống lại thì lúc này nó lại
mang hình ảnh của một thương vụ mua lại. Như vậy, khi xem xét một vụ
chuyển nhượng để biết chính đó là sáp nhập hay mua lại cần xét đến tính chất
hợp tác hay khơng thù địch của hai bên. Hay nói cách khác, đó chính là việc
xem xét cách ban giám đốc, lao động và cổ đông của công ty bị mua lại nhận
thức về mỗi thương vụ như thế nào?
Như vậy, quan niệm nêu trên được rút ra từ kinh nghiệm những nước
đã xây dựng nền tảng cho hoạt động M&A như Mỹ, Anh và một số nước
Châu Âu lục địa… Và thông thường cũng theo quan niệm của những nước
này thì đằng sau quyết định mua lại hay sáp nhập với một công ty khác là
phải tạo ra được giá trị cho cổ đông bao trùm và lớn hơn tổng giá trị hiện tại
của hai cơng ty khi cịn đứng riêng rẽ - đây được xem là nguyên nhân cơ bản
để tiến hành M&A.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, khái niệm mua bán doanh nghiệp
còn khá mới mẻ và lạ lẫm. Tuy nhiên, khái niệm này cũng được quy định
trong một số văn bản quy phạm pháp luật như Luật Doanh nghiệp năm 2005,
Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Đầu tư năm 2005…. Tại Điều 17, Luật Cạnh
tranh quy định việc sáp nhập doanh nghiệp là "việc một hoặc một số doanh
nghiệp chuyển tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình
sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp
bị sáp nhập", còn "mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn
bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm sốt, chi phối
tồn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại".

16


Hay như Điều 21 Luật Đầu tư năm 2005 lần đầu tiên đã quy định "đầu
tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp" như một trong những
hình thức đầu tư trực tiếp, theo đó được thực hiện dưới các hình thức như:

- Góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp thơng qua việc góp vốn điều lệ
vào cơng ty TNHH hoặc công ty cổ phần phát hành để tăng vốn điều lệ của
công ty cổ phần;
- Mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần đã phát hành của thành viên
hoặc cổ đơng của cơng ty, hình thức này khơng giống như hình thức góp vốn
trực tiếp vào doanh nghiệp vì hình thức này khơng làm tăng vốn điều lệ của
doanh nghiệp nhưng có thể làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn góp/ cổ phần của
doanh nghiệp;
- Mua bán doanh nghiệp chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp tư
nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp và một số doanh nghiệp nhà nước,
bộ phận doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật về giao, bán,
khoán khốn kinh doanh, cho th cơng ty nhà nước.
Như vậy, thuật ngữ mua lại và sáp nhập là khái niệm được sử dụng để
chỉ một cơng ty tìm cách nắm giữ quyền kiểm sốt đối với một cơng ty khác
thơng qua thâu tóm tồn bộ hoặc một tỷ lệ số lượng cổ phần hoặc tài sản của
công ty mục tiêu đủ để có thể khống chế tồn bộ các quyết định của cơng ty
đó. Tỷ lệ này có thể khác nhau theo quy định cụ thể trong Luật Công ty của
từng nước. Ví dụ ở Việt Nam tỷ lệ này là 75% (đối với việc mua bán giữa các
doanh nghiệp trong nước; riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của từng ngành và lộ trình cam kết
gia nhập WTO của Việt Nam), trong trường hợp Điều lệ công ty mục tiêu quy
định mức thấp hơn (tối thiểu là 65%) thì áp dụng mức đó. Sau khi kết thúc
chuyển nhượng, công ty mục tiêu sẽ chấm dứt hoạt động (bị sáp nhập) hoặc
trở thành một công ty con của công ty thâu tóm.

17


Mặc dù được quy định trong một số văn bản pháp luật, thuật ngữ
"sáp nhập và mua lại" theo quy định pháp luật Việt Nam không những

không chuyển tải hết khái niệm M&A (về mặt ngơn ngữ) mà cịn chưa thể
hiện đầy đủ các hình thức của hoạt động này. Chẳng hạn như trường hợp
thơn tính mang tính thù địch đối thủ cạnh tranh (tạm dịch thuật ngữ hostile
takover) thông qua phương thức "lôi kéo cổ đông bất mãn" rõ ràng không
phải là "mua lại".
Từ những định nghĩa trên về hoạt động M&A, có thể đưa ra một định
nghĩa chung nhất cho việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp. Theo đó, sáp
nhập là một vụ giao dịch mà ở đó hai cơng ty kết hợp với nhau. Thơng thường
một công ty mới sẽ ra đời, cổ đông của công ty mới là tất cả hay nói cách
khác chủ yếu là cổ đông của hai công ty cũ kết hợp lại. Thực chất bên trong
của một thương vụ sáp nhập bao giờ cũng thể hiện sự đồng thuận về ý chí,
mục tiêu hoạt động của hai bên. Trong một số trường hợp thuật ngữ sáp nhập
cũng áp dụng trong một giao dịch mà thực chất đó là một thương vụ mua bán ở đó khơng có sự đồng nhất về ý chí của các bên hay cịn gọi là sáp nhập ngược.
Cụ thể, "Sáp nhập ngược" sẽ xảy ra khi một cơng ty tư nhân có triển vọng lớn,
muốn tăng vốn sẽ mua một công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khốn để biến mình thành một cơng ty đại chúng và được phát hành cổ phiếu.
Mua bán doanh nghiệp là một vụ giao dịch mà ở đó một cá nhân, tổ
chức được biết đến như một bên đề nghị (bên mua) giành quyền quản lý hoạt
động cũng như tài sản của công ty bị mua lại. Việc mua bán này có thể diễn ra
một cách trực tiếp khi bên mua trở thành người sở hữu toàn bộ tài sản liên
quan đến công ty đã bán hoặc cũng có thể qua hình thức gián tiếp thơng qua
việc kiểm sốt, quản lý mọi hoạt động của cơng ty bị mua hoặc mua một số
lượng lớn cổ phần để giành quyền quản lý hoạt động của cơng ty đó.
* Đặc trưng cơ bản của hoạt động mua bán doanh nghiệp:

18


Với định nghĩa trên, có thể thấy rằng tuy M&A được nhắc như một
khái niệm luôn song hành cùng nhau nhưng về bản chất thì giữa chúng có sự

khác biệt rõ ràng. Sự khác biệt này chỉ có thể được nhận biết khi xác định
được bản chất thực sự của thương vụ chuyển nhượng đó. Và cho dù được hiểu
theo cách này hoặc cách khác thì hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng có
những điểm chung nhất định, nó được thể hiện qua những đặc trưng cơ bản
nhất để dẫn đến sự hình thành và phát triển của hoạt động M&A trên thế giới
nói chung cũng như tại Việt Nam nói riêng.
Thứ nhất, hầu hết các vụ mua lại đều được diễn ra giữa các công ty
của các nước đang phát triển và việc điều tiết hoạt động mua bán doanh
nghiệp khơng chỉ bằng luật cạnh tranh mà cịn điều chỉnh bằng các tiền lệ; đối
với Châu Âu lục địa thường chỉ diễn ra các vụ mua bán nhỏ, chủ yếu được
tiến hành giữa các cơng ty nhỏ và có tính chất gia đình.
Thứ hai, hoạt động mua bán doanh nghiệp diễn ra chủ yếu theo chu kỳ
phát triển kinh tế, mà không chịu ảnh hưởng nhiều từ những thay đổi khung
khổ pháp luật. Nếu xuất hiện nhu cầu nội tại, bằng nhiều cách thức đa dạng
khác nhau, các công ty vẫn cố gắng thực hiện mua bán doanh nghiệp để đạt
được mục đích của mình. Khi đó, luật pháp chỉ có thể ngăn cản được những
vụ sáp nhập lớn đe dọa rõ ràng đến tính cạnh tranh của thị trường.
Thứ ba, các thương vụ mua bán, sáp nhập thường chỉ tập trung vào
một số lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, cơng nghiệp dầu khí, dược phẩm,
cơng nghệ thơng tin và ngành công nghiệp ôtô với sự chi phối trong những
hoàn cảnh cụ thể liên quan đến một ngành cơng nghiệp nhất định; ở các ngành
khác ít diễn ra các vụ mua bán, sáp nhập lớn. Ngoài ra, cùng với việc mua
bán, sáp nhập là xu hướng phân tán đầu tư, bởi ở đó các cơng ty tìm kiếm
những lĩnh vực có tiềm năng phát triển mạnh hơn ngồi lĩnh vực kinh doanh
chủ lực của mình.

19


Thứ tư, mục tiêu cuối cùng của tất cả các thương vụ mua bán đều nhằm

mục đích tạo ra sự cộng hưởng và nâng cao giá trị của các bên. Do đó, việc ghi
nhận về mua bán khơng phải lúc nào cũng mang tính tích cực, nó phụ thuộc vào
việc có đạt được sự cộng hưởng của các bên hay khơng? Vì vậy, một số thương
vụ mua lại doanh nghiệp đôi khi cũng đem lại kết quả không như mong muốn.
1.1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp
Với hình thức là một hoạt động tập trung kinh tế, mua bán doanh
nghiệp đang trở thành một hình thức đầu tư ngày càng phố biến tại Việt Nam.
Việc phát triển hình thức đầu tư này đã đem lại nhiều hiệu quả trong hoạt
động kinh doanh của một số nước phát triển trên thế giới như Mỹ, Anh và
một số nước Châu Âu lục địa. Bởi lẽ, sự phát triển của nó khơng những mở
rộng quy mơ kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tạo khả năng ảnh hưởng
trên thị trường thông qua sự gia tăng thị phần và tăng vốn một cách nhanh
chóng. Về mặt xã hội, mua bán doanh nghiệp thúc đẩy quá trình sắp xếp, tái
cơ cấu lại những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Đối với một số nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì việc phát triển hoạt động mua bán
doanh nghiệp được xem như nền tảng cho sự phát triển kinh tế của một quốc
gia. Thông qua mua bán doanh nghiệp sẽ thu hút một số lượng vốn rất lớn từ
trong nước cũng như nước ngồi. Chính vì vậy, mua bán doanh nghiệp khơng
chỉ đem lại lợi ích cho chính bản thân các doanh nghiệp mà còn đem lại nhiều
khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
Có nhiều lý do để các doanh nghiệp chọn việc mua lại doanh nghiệp
cho mục đích tái cơ cấu doanh nghiệp của mình. Điều này được giải thích
thơng qua những lợi ích mà hoạt động này mang lại, trong đó có những lợi ích
của chính các doanh nghiệp bị mua lại để tránh nguy cơ tan vỡ do lạm phát và
tình trạng chứng khốn phát triển khơng ổn định. Các doanh nghiệp đều nhận

20



thức rõ lợi ích từ việc mua bán doanh nghiệp, trong đó có yếu tố mở rộng thị
trường và tăng cường năng lực quản lý. Mua lại doanh nghiệp luôn là một
trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tổ chức lại công ty nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Về nguyên tắc, khi tiến hành mua bán doanh
nghiệp, giá trị của công ty mua lại bao giờ cũng lớn hơn giá trị của mỗi công
ty riêng lẻ và sau khi mua lại, cả doanh thu và lợi nhuận đều phải tăng. Từ các
công ty nhỏ lẻ kết hợp lại thành một cơng ty có quy mơ lớn nên khả năng bị
triệt tiêu trên thương trường rất khó xảy ra; đồng thời các cơng ty cũng có thể
đáp ứng tốt hơn yêu cầu về nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, giảm
bớt rủi ro trong kinh doanh, tiết kiệm được chi phí cố định (quản lý, điều
hành, quảng cáo, văn phòng, tiếp thị...), tiết kiệm được chi phí đào tạo do
sắp xếp, bố trí hợp lý hơn nguồn nhân lực, tăng khả năng cạnh tranh cho
sản phẩm, tăng vốn đầu tư, có cơ hội mở rộng ngành nghề kinh doanh...
Không những thế, thông qua việc mua lại doanh nghiệp, sự kết hợp chuyên
môn và công nghệ giữa các cơng ty sẽ tạo ra những tập đồn mới có tính
chun sâu, cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hiện đại hơn
và tiên tiến hơn.
Đối với nền kinh tế, hoạt động mua bán doanh nghiệp sẽ thanh lọc
những doanh nghiệp yếu, tạo nên những doanh nghiệp mới có tiềm lực mạnh
hơn, hoạt động hiệu quả hơn, và làm lành mạnh hóa nền sản xuất. Thêm vào
đó, thông qua sự phát triển của mua bán doanh nghiệp nó tạo kênh huy động
vốn đầu tư từ nước ngồi tạo khả năng phát triển kinh tế của đất nước. Cũng
xuất phát từ mục đích gia tăng giá trị và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mà hiện nay, nhiều công ty không gặp phải khó
khăn nhưng cũng tham gia vào thị trường mua bán doanh nghiệp để tìm kiếm
thêm đối tác, tạo thêm sức mạnh cho mình trong thị trường đầy cạnh tranh
hiện nay.

21



Những lợi ích nêu trên đã lý giải phần nào cho sự phát triển của M&A
ở một số nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, hoạt động M&A được dự báo
sẽ tiếp tục diễn ra hết sức sôi động trong thời gian tới, với nhiều thương vụ
M&A "khổng lồ". Nguyên nhân là do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế
thời gian qua đã "sinh ra" quá nhiều công ty hoạt động trong những ngành có
tính cạnh tranh cao như: kế tốn kiểm tốn, tài chính ngân hàng, chứng
khốn... Vì thế, các cơng ty sẽ có xu hướng liên kết với nhau để cùng tồn tại
và phát triển. Hơn nữa, hiện luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp
tục tăng mạnh, và một trong những cách thức để nhà đầu tư nước ngoài chiếm
lĩnh thị trường Việt Nam chính là thơng qua các đối tác Việt Nam, điều này
càng tạo đà cho hoạt động M&A phát triển. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là để
"hôn nhân" này có được kết quả tốt đẹp như hai bên mong đợi thì việc xác lập
một hợp đồng M&A chặt chẽ là điều hết sức quan trọng. Thơng qua đó doanh
nghiệp có thể bảo vệ được quyền lợi của chính mình.
1.2. HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
Để thực hiện việc mua bán doanh nghiệp, các bên phải ký với nhau
một hợp đồng. Hợp đồng này là hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Đối với
việc mua bán doanh nghiệp, xác lập hợp đồng được xem là yếu tố rất quan
trọng. đây sẽ là cơ sở để bên bán, bên mua doanh nghiệp thiết lập các điều
khoản để ràng buộc các cam kết, trách nhiệm pháp lý với nhau và với các cơ
quan công quyền.
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một loại hợp đồng, bởi vậy nó mang
đầy đủ các đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự. Bên cạnh những đặc điểm
chung, hợp đồng mua bán doanh nghiệp cịn có những đặc thù riêng, cụ thể:
Thứ nhất, trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp, mục đích của việc
mua lại doanh nghiệp là nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách

22



của doanh nghiệp mua lại. Điều này hoàn toàn khác với việc mua một phần
hoặc mua toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Bởi vì, mục đích của việc mua
bán tài sản doanh nghiệp chỉ nhằm hướng đến một số lượng tài sản, quyền tài
sản nhất định để có thể thực hiện quyền quản lý và kiếm soát đối với doanh
nghiệp bán tài sản. Việc bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
chỉ nhằm xác lập quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp cho bên mua. Và trong
trường hợp này, doanh nghiệp bán lại tài sản vẫn phải tiếp tục thực hiện các
trách nhiệm pháp lý và hoạt động kinh doanh với tư cách của doanh nghiệp
mình. Trong khi đó, ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, tư cách để tiến hành
hoạt động kinh doanh sẽ được chuyển sang cho bên mua lại doanh nghiệp,
không những thế bên mua lại còn phải nhân danh doanh nghiệp của mình để
giải quyết hàng loạt các vấn đề về pháp lý do doanh nghiệp bán để lại, với
hợp đồng mua bán tài sản doanh nghiệp, bên mua không phải thực hiện các
vấn đề này.
Thứ hai, đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, quyền sở hữu doanh
nghiệp sẽ được chuyển từ tổ chức, cá nhân này sang tổ chức, cá nhân khác.
Bên mua lại doanh nghiệp không chỉ sở hữu đơn thuần tài sản hay cổ phiếu
của doanh nghiệp bán mà được sở hữu tồn bộ doanh nghiệp đó, bao gồm
quyền sở hữu các giá trị tài sản hữu hình và vơ hình của doanh nghiệp bán và
cả tư cách chủ thể kinh doanh. Khi mua lại doanh nghiệp, bên mua sẽ kế thừa
một số quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bán để lại như việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến nhân sự, tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã ký kết với
khách hàng hoặc được quyền hưởng các ưu đãi về đầu tư do doanh nghiệp cũ
để lại.
Ở đặc điểm này, hợp đồng mua bán doanh nghiệp hoàn toàn khác với
hợp đồng cho thuê doanh nghiệp. Ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, bên
mua sẽ được chuyển giao quyền sở hữu toàn bộ doanh nghiệp, nghĩa là được
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt các vấn đề liên quan đến doanh


23


×