Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hoạt động phổ biển, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.01 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG PHÚC

HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THANH HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG PHÚC

HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THANH HOÁ

Chuyên ngành
Mã số

: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
: 6.01.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KH: TS.TRẦN NHO THÌN

HÀ NỘI - 2005


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung
của luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong bất kì cơng trình khoa
học nào khác.

Hà Nội, ngày…….tháng…….năm 2005
Tác giả Luận văn

Lê Thị Hồng Phúc


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình đổi mới toàn diện ở nước ta thực chất là một cuộc cải cách
sâu sắc. Trên cơ sở cải cách kinh tế, Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới từng
bước hệ thống chính trị, trong đó nhiệm vụ trung tâm là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước mà ở đó tính tối cao của pháp
luật được tơn trọng và trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có
sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các
Bộ luật, Luật đến các văn bản dưới luật, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi

nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cũng được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nhiều nghị quyết
của Đảng và các văn bản của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, xác định đúng đắn vị trí của nó trong tăng cường pháp chế
XHCN, trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 7
tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành
kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 - 2002
và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày
09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Những quyết định có tính
chất bước ngoặt nói trên trong cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo cơ
sở chính trị - pháp lý cần thiết cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
trong thời kỳ mới.


Đối với tỉnh Thanh Hố, trong những năm qua cơng tác phổ biến, giáo
dục pháp luật luôn luôn được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm,
xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm gắn chặt với cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng và là nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh đã có nhiều
cố gắng để tiến hành phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Bằng nhiều biện pháp tích cực, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Thanh
Hoá đã và đang thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp luật vào cuộc sống trên
địa bàn tỉnh vẫn cịn nhiều bất cập. Ở một số nơi cơng tác phổ biến, giáo dục
pháp luật vẫn mang tính hình thức, chưa thực sự đi vào chiều sâu; thông tin

pháp luật đến với nhân dân chưa kịp thời, chưa cập nhật và chưa thống nhất;
việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được coi trọng đúng mức,
còn chạy theo phong trào mang tính bề nổi, kém hiệu qủa; hệ thống tư vấn
pháp luật và trợ giúp pháp lý cịn yếu, chưa đủ sức để tư vấn giúp cơng dân và
doanh nghiệp hiểu biết pháp luật, làm theo pháp luật; nội dung và hình thức
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sát với đối tượng. Vẫn còn
một bộ phận khá lớn nhân dân hiểu biết pháp luật cịn sơ sài, hời hợt, nhiều
cán bộ, cơng chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật như:
Vi phạm pháp luật kinh tế, thương mại, hành chính, dân sự,…; vi phạm pháp
luật ở một số nơi còn xảy ra, thậm chí phổ biến. Trong khi đó một số nơi cán
bộ chính quyền cịn thờ ơ với cơng tác này.
Là cán bộ đang công tác giảng dạy tại trường Chính trị tỉnh Thanh Hố
tơi nhận thấy, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân tỉnh nhà là
vấn đề cần đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” để làm
luận văn Thạc sỹ Luật học. Đây cũng là một đề tài cần thiết, có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh Thanh Hố trong tình hình hiện
nay.


2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật không phải là vấn đề mới trong
khoa học pháp lý Việt Nam, song việc tiến hành nghiên cứu có phần chậm
hơn so với yêu cầu “Nhà nước quản lý bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN ” đã được ghi nhận từ Hiến pháp 1980. Trước những
năm 1990 mới chỉ có một số ít nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này như:
“Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án Phó tiến sỹ
Luật học của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên Xô cũ năm 1977);
“Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN”, Luận án
Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên Xô cũ năm

1988).
Từ năm 1990 tới nay vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật được nhiều
cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, có thể kể tên một số cơng trình tiêu biểu sau:
+ Cơng trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương
Thanh Mai, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1995; Xây dựng ý thức và lối
sống tuân theo pháp luật do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản
lý hành chính của TS. Lê Đình Khiên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2002.
+ Các đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến,
giáo dục pháp luật:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223. ĐT của
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; Tìm kiếm mơ hình giáo dục
pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người. Đề tài khoa học cấp Bộ
của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo
dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay. Đề tài
khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở


lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến,
giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư
pháp, 2004…
+ Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật:
Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà
nước ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Lê Đình
Khiên, 1996; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án
Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật

trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên
luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Đinh Xuân
Thảo, 1996 và một số luận văn thạc sỹ luật học của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến chủ đề phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp
luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà
nước… được công bố trên các phương tiện thơng tin đại chúng.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập
thể và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phổ biến, giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có một cơng trình, luận
án, luận văn, đề tài khoa học nào nghiên cứu về hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật nói riêng ở tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên các cơng trình, luận văn,
luận án... đã tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục nghiên
cứu, đánh giá đúng thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa, phân tích những ưu điểm và hạn chế, từ đó xác định
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn:


Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục
pháp luật, đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh
Thanh Hóa trong thời gian hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau
đây:
* Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật;

* Phân tích những yếu tố tác động đến hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa qua những hình thức cụ thể và
thực trạng hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của các nhóm dân cư trên
địa bàn, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của thực
trạng trên;
* Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là phạm trù có nội hàm rộng.
Trong phạm vi đề tài đã chọn, tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn một địa phương cụ thể - tỉnh
Thanh Hóa thơng qua việc nghiên cứu những hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật cụ thể và thực trạng hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của các
nhóm dân cư trên địa bàn tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, về phổ biến, giáo dục pháp luật. Phương pháp luận trong
nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin.


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiờn cứu cụ thể như: Phương
pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối tồn
diện, có hệ thống về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở một địa bàn cụ
thể – tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của các
cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt động

này trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ, nhân dân tỉnh Thanh Hóa, bảo
đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh và thống nhất;
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác chỉ đạo hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật cho các địa phương khác có điều kiện kinh
tế - xã hội tương tự như tỉnh Thanh Hóa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu trớch dẫn, tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật;
Chương 2: Thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Nghiên cứu cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật là phân tích,
làm rõ các khái niệm, phạm trù: Bản chất, mục đích, vai trị của phổ biến,
giáo dục pháp luật; chủ thể, khách thể, đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp
luật; nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật và đánh
giá hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, từ đó rút ra các quan điểm hợp lý
nhằm định hướng cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thực tiễn.
1.1. Bản chất, mục đích và nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật
Bất cứ ngành khoa học nào cũng cần có hệ thống khái niệm riêng của
nó, đó là một hình thức của tư duy dùng để phản ánh những đặc trưng chung,
chủ yếu của các sự vật, hiện tượng mà ngành khoa học đó nghiên cứu. Vì vậy,

xây dựng khoa học phổ biến, giáo dục pháp luật không thể không chú ý xây
dựng hệ thống khái niệm khoa học của nó, khơng thể khơng ln ln bổ
sung và điều chỉnh để làm cho các khái niệm đó phản ánh đúng đắn, đầy đủ
và hồn chỉnh những nhận thức mới của khoa học phổ biến, giáo dục pháp
luật, về thực tiễn hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay. Nghiên cứu
lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật cần làm rõ các vấn đề cơ bản: Bản chất,
nội dung, mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật vì tồn bộ lý luận về phổ
biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào việc xác định đúng đắn các vấn đề cơ
bản đó.
1.1.1. Bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật
Để làm rõ bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật, cần phải phân biệt
các khái niệm tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Trong thực tế
khơng ít người có quan niệm đồng nhất giữa tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật. Thực chất, xét về mặt lý luận, đây là những khái niệm khác nhau về
mặt nội dung.
Gắn liền với các khái niệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
là khái niệm thông tin pháp luật.Thông tin pháp luật là thông tin về các văn


bản quy phạm pháp luật, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký
kết hoặc tham gia, các tin tức, tri thức, dữ kiện được tạo lập và thu nhận trong
quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong nghiên cứu và giảng dạy pháp
luật.
Thông tin pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thơng tin pháp luật là nguồn nội dung cho
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt
động truyền tải các thông tin pháp luật tới mọi thành viên trong xã hội, đến
các đối tượng khác nhau bằng các hình thức, phương tiện thích hợp.
Tun truyền pháp luật hồn tồn khơng giới hạn về phạm vi thông tin
và đối tượng tiếp nhận thông tin. Thông tin trong tun truyền pháp luật là

những thơng tin tồn diện và chung nhất về những vấn đề liên quan đến pháp
luật, trước hết là hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là điểm khác với phổ biến
pháp luật.
Phổ biến pháp luật là sự truyền tải những thông tin cụ thể của pháp luật
đến một loại đối tượng nhất định nhằm để đạt được mục đích cụ thể. Nếu đối
tượng của tuyên truyền pháp luật là chung nhất và nhu cầu về thông tin pháp
luật đối với người nghe không xác định một cách cụ thể thì ngược lại, phổ
biến pháp luật thường chỉ nhằm vào những đối tượng cụ thể mà hành động
của họ có liên quan trực tiếp đến sự điều chỉnh của một loại văn bản pháp luật
cụ thể, giúp họ nắm vững để điều chỉnh hành vi của mình. Ví dụ, khi các văn
bản pháp luật được thơng qua, ngồi tun truyền chung, các văn bản pháp
luật cần phải được phổ biến một cách đầy đủ đến mọi tầng lớp nhân dân để họ
nắm vững và tuân thủ sự điều chỉnh của các quy định pháp luật.
Khác với hai khái niệm trên, giáo dục pháp luật là sự chuyển tải những
thơng tin pháp luật theo mục đích chung, nhằm nâng cao ý thức pháp luật để
từ đó hình thành lối sống tuân thủ pháp luật đối với các thành viên trong xã
hội. Giáo dục pháp luật nhằm mục đích trang bị cho cơng dân những kiến
thức pháp luật, hình thành ở họ phong cách sống và làm việc theo pháp luật.


Giáo dục pháp luật chính là q trình phát triển nhận thức pháp luật theo các
nấc thang tạo lập ý thức, trang bị kiến thức để nâng cao sự hiểu biết pháp luật,
từ đó khẳng định hành vi xử sự của bản thân.
Xung quanh vấn đề giáo dục pháp luật là gì, hiện vẫn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau, chưa có một khái niệm rõ ràng, nhất quán.
Quan niệm đa số cho rằng, giáo dục pháp luật chỉ là một bộ phận của
giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Do đó, nếu tiến hành giáo dục chính trị
tư tưởng hay đạo đức tốt thì tự khắc, trên thực tế có thể đạt được sự tơn trọng
pháp luật ở mọi cơng dân.
Quan niệm khác lại đơn giản hố, đồng nhất giáo dục pháp luật với

việc tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật.
Có quan niệm coi giáo dục pháp luật đồng nghĩa với dạy và học pháp
luật ở các nhà trường, còn việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở ngồi xã
hội khơng phải là giáo dục pháp luật.
Quan niệm cực đoan của một số người lại cho rằng, khơng tồn tại khái
niệm giáo dục pháp luật vì pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung và mọi người đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, do đó khơng cần đặt vấn
đề giải thích pháp luật. Điều pháp luật cần làm chỉ là công bố và phổ biến văn
bản pháp luật để mọi người dân biết và thực hiện.
Tất cả các quan niệm trên đều “phiến diện, giản đơn một chiều, chưa
thấy hết đặc thù của sự tác động hoặc giá trị xã hội vốn có pháp luật”. Vì vậy,
“đã vơ tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò giá trị xã hội của pháp luật” và tất yếu
làm cho hiệu lực và hiệu quả của pháp luật giảm sút do các quan niệm đó
khơng tạo ra khả năng triển khai hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều dạng, nhiều nhánh,
nhiều hình thức, phương pháp và phương tiện khác nhau tác động lên ý thức
con người. Giáo dục pháp luật là một dạng trong hệ thống giáo dục chung đó.
Tuy nhiên giáo dục pháp luật là một dạng giáo dục độc lập trong hệ thống


giáo dục, bởi vì bên cạnh những đặc trưng chủ yếu trong một quá trình giáo
dục, giáo dục pháp luật có những nét đặc trưng riêng biệt:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức
pháp luật cao góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật;
Thứ hai, giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác
động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói
chung, của một quốc gia nói riêng về hai hiện tượng Nhà nước và pháp luật,
trong đó pháp luật thực định của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất;

Thứ ba, giáo dục pháp luật có những nét đặc thù riêng về chủ thể,
khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục.
Từ những đặc thù nói trên của giáo dục pháp luật, cho phép chúng ta
phân biệt phạm trù “giáo dục pháp luật” với phạm trù “hình thành ý thức
pháp luật” của cá nhân, vốn là hai phạm trù quan hệ mật thiết nhưng không
phải là đồng nhất. Hoạt động giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở cá nhân con người và đóng vai trị chủ đạo
trong q trình ấy. Hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố
chủ quan mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ định, có mục tiêu xác
định là hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục
phù hợp với yêu cầu của nền pháp chế XHCN. “Hình thành ý thức pháp luật”
có nội hàm rộng hơn giáo dục pháp luật. Sự hình thành ý thức pháp luật là sản
phẩm của cả điều kiện khách quan (thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, mà tác
động trực tiếp là đời sống pháp luật của xã hội), lẫn sự tác động định hướng
của nhân tố chủ quan giáo dục pháp luật.
Thực tế cho thấy, người có trình độ hiểu biết rộng, nhận thức đúng đắn về
vai trò quan trọng của pháp luật trong cuộc sống thì họ có đủ khả năng để
lựa chọn cách xử sự sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và thường
họ không làm những điều pháp luật cấm. Nếu khơng xác định được vai trị,


tầm quan trọng của hoạt động giáo dục pháp luật, khơng chú trọng đến
cơng tác giáo dục pháp luật thì các hành vi phạm pháp, tiêu cực sẽ tăng do
người có hành vi vi phạm pháp luật hạn chế hiểu biết về pháp luật, về vai
trò của pháp luật trong cuộc sống. Giáo dục pháp luật tác động lên nhận
thức và trình độ hiểu biết, thái độ tình cảm, lịng tin vào pháp luật của
cơng dân, là cơ sở hình thành ý thức pháp luật tốt, làm hạn chế sự phát
triển của các hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, qua những phân tích trên có thể kết luận: Giáo dục pháp luật
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của sự nghiệp giáo dục

tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên để
cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối
tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen
hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của nền pháp
chế hiện hành.
Với khái niệm nêu trên, giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích
quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng cường pháp chế XHCN. Giáo dục
pháp luật nhằm hình thành ý thức tơn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công
dân, phát huy vai trị và hiệu lực của pháp luật trong cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hoạt động giáo dục pháp luật là trách nhiệm
của các tổ chức Đảng, của các cơ quan ban, ngành, các tổ chức kinh tế, xã
hội,... trong đó trách nhiệm trước hết phụ thuộc vào các cơ quan có chức năng
giáo dục, đào tạo con người. Giáo dục pháp luật liên kết một cách hữu cơ và
tương hỗ với các dạng giáo dục khác trong hệ thống giáo dục, trước hết là các
dạng giáo dục có cùng mục đích (giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức,...) tác
động lên hành vi của con người, lên sự hợp lý, hợp pháp của hành vi trong mối
quan hệ với xã hội. Thực tiễn chỉ ra rằng, hình thành được ý thức, thói quen
thực hiện và tuân thủ pháp luật ở công dân là công việc không đơn giản. Không
tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật - hoạt động có tính định hướng, hệ
thống thì sẽ khơng giải quyết được cơng việc đấy. Các dạng giáo dục khác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức - dù có sức mạnh tác động rất lớn cũng


không thể thay thế được giáo dục pháp luật mà chỉ trong mối quan hệ biện
chứng, gắn bó tác động qua lại, tương hỗ với nhau thì mới tạo được hiệu lực và
hiệu quả của pháp luật.
Như vậy cả cụm từ “phổ biến, giáo dục pháp luật” ở đây được hiểu là
việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm
tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật của đối tượng.
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật

Mục đích xã hội của phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong
những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật, là đặc trưng
đầu tiên và quan trọng nhất để phân biệt nó với các dạng giáo dục khác. Mục
đích xã hội cần đạt được trong q trình giáo dục pháp luật phải đáp ứng các
yêu cầu của xã hội, ở từng giai đoạn trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Việc
xác định đúng đắn mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan
trọng trong lý luận và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật bởi vì các phạm
trù nội dung, hình thức, phương pháp của phổ biến, giáo dục pháp luật phần
lớn phụ thuộc vào việc xác định các mục đích xã hội đã được đặt ra trước quá
trình giáo dục. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cịn giúp cho việc
xác định hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật. Kết quả đạt được bao giờ
cũng được đánh giá so với mục đích đề ra để xác định được chỉ số hiệu quả
của công tác này.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của mục đích phổ biến, giáo dục
pháp luật, vấn đề đặt ra là không thể coi nhẹ việc xác định mục đích xã hội
của hoạt động này, cần xác định mục đích phù hợp với thực tiễn và đáp
ứng được các nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ để góp phần nâng cao
hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta. Mục đích phổ biến, giáo
dục pháp luật phải nhằm trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức
pháp luật, xuất phát từ đòi hỏi của các đối tượng giáo dục khác nhau, phù
hợp với các điều kiện và hồn cảnh cụ thể; đồng thời phải nhằm hình


thành lịng tin vào pháp luật của cơng dân xây dựng thói quen suy nghĩ và
xử sự theo những địi hỏi của pháp luật ở cơng dân.
Khi tiến hành tìm kiếm, xác định mục đích của phổ biến, giáo dục pháp
luật cần phân biệt giữa mục đích trước mắt và mục đích lâu dài; mục đích có
tính tổng qt, chiến lược và mục đích giáo dục pháp luật cụ thể …
Mục đích tổng quát, chiến lược của phổ biến, giáo dục pháp luật là
nhằm góp phần hình thành và nâng cao văn hố pháp lý của từng cá nhân

trong tồn xã hội. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phổ biến, giáo dục
pháp luật có các mục đích cụ thể như sau:
- Thứ nhất, mục đích hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ
thống tri thức pháp luật cho cơng dân (gọi chung là mục đích nhận thức).
Mục đích nhận thức bao gồm tri thức về các quy phạm pháp luật, những
quan niệm và cách đánh giá về mặt pháp lý các sự kiện xã hội. Đây được xem
là mục đích hàng đầu vì sự am hiểu pháp luật, nhận thức đúng đắn về vai trò và
giá trị xã hội của pháp luật là điều kiện cần thiết đảm bảo sự phát triển ý thức
pháp luật, tư duy pháp lý và hình thành tình cảm, lịng tin, thái độ tích cực đối
với pháp luật ở mọi cơng dân. Có tri thức pháp luật sẽ giúp cho mỗi cơng dân
có khả năng tự đánh giá, phê phán, đối chiếu hành vi của mình đối với các
chuẩn mực pháp luật để từ đó tổ chức một cách ý thức các hành vi xử sự. V.I.
Lê nin đã cho rằng: Sự am hiểu, trong đó có sự am hiểu pháp luật là điều kiện
cần thiết, mà thiếu nó khơng nên nói về chính trị, người mù chữ thì đứng ngồi
chính trị. Hồ Chủ tịch, trong “Lời kêu gọi chống nạn thất học” tháng 10/1945
cũng đã từng nói: Mỗi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà, trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên, sự am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự am hiểu đơn
giản một vài quy phạm pháp luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống về
pháp luật, nhận thức thấu đáo về nội dung pháp luật, về giá trị xã hội và vai


trò của pháp luật, biết đánh giá các sự kiện pháp luật để hành động một cách
hợp pháp.
Mục đích nhận thức trong mối quan hệ với các mục đích khác của phổ
biến, giáo dục pháp luật là mục đích đầu tiên, là tiền đề và cơ sở cho sự phát
triển các mục đích khác. Thơng qua mục đích nhận thức để nhận biết, đánh
giá và nhìn nhận các mục đích khác. Do đó, từ đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
IV đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc tạo điều kiện để quyền

làm chủ của dân phải được thực hiện và không ngừng nâng cao gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mở mang dân trí, hiểu biết pháp luật.
- Thứ hai, mục đích hình thành lịng tin pháp luật (cịn gọi là mục đích cảm
xúc).
Đây là mục đích có ý nghĩa rất quan trọng. Mục đích cảm xúc phụ
thuộc vào trình độ tri thức pháp luật, về sự am hiểu các quy phạm, các nguyên
tắc pháp lý, đánh giá các sự kiện pháp lý… Tri thức pháp lý càng đầy đủ thì
tình cảm pháp luật càng mạnh mẽ. Tình cảm pháp luật được nuôi dưỡng trên
cơ sở các khái niệm, quan niệm, các phạm trù về pháp luật, thiếu những điều
đó không thể tồn tại cảm xúc pháp luật. Tuy nhiên, có tri thức pháp luật mà
thiếu tình cảm tơn trọng đối với pháp luật thì khơng dự đốn và đảm bảo hành
vi hợp pháp, con người dễ dàng hành động khơng phù hợp chuẩn mực pháp
luật vì lợi ích cá nhân. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, con người nếu thiếu
lịng tin thì hành vi của họ thường lệch khỏi các chuẩn mực xã hội. Thực tiễn
thực hiện pháp luật đã cho thấy sự đúng đắn của luận điểm này.
Trong đa số sách báo nghiên cứu pháp lý phân tích về nội hàm của giáo
dục cảm xúc pháp luật đã kết luận mục đích của giáo dục cảm xúc pháp luật
chỉ đạt được qua việc giáo dục tình cảm cơng bằng, tình cảm trách nhiệm,
tình cảm khơng khoan nhượng và tình cảm pháp chế. Tất cả các tình cảm này
quan hệ với nhau và phụ thuộc vào nhau.
+ Giáo dục tình cảm cơng bằng: Là giáo dục cho công dân biết đánh
giá các quy phạm pháp luật, nhận thức được chuẩn mực pháp luật để đánh giá


về tính cơng bằng của pháp luật, từ đó tổ chức hành vi xử sự hợp lý, hợp pháp
đối với người khác và với chính mình theo các quy định pháp luật;
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm: Để người được giáo dục ý thức về
nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình, tận tâm thực hiện các quy định của pháp
luật, các nghĩa vụ pháp lý trong mối quan hệ pháp lý với các công dân khác;
+ Giáo dục tình cảm khơng khoan nhượng ở mọi cơng dân đối với

những hành vi vi phạm pháp luật: Giáo dục ý thức không thể khoan dung đối
với những biểu hiện chống đối pháp luật. Giáo dục tình cảm khơng khoan
nhượng ở cơng dân đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành hành vi tích
cực trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực;
+ Giáo dục tình cảm pháp chế: Là giáo dục nhằm hình thành ý thức
tn thủ pháp luật của cơng dân ở mọi nơi, mọi lúc; phê phán, lên án những
biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp; cũng như đồng tình,
ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Người được
giáo dục phải hình thành ý thức rằng mọi quyết định của mình phải dựa vào cơ
sở của pháp luật.
Sự hình thành lịng tin vững chắc của cơng dân vào sự cần thiết tuân
theo những quy phạm pháp luật phụ thuộc vào sự tác động định hướng của
quá trình giáo dục các tình cảm trên, vào sự am hiểu tri thức pháp luật.
- Thứ ba, mục đích hình thành động cơ hành vi và thói quen xử sự hợp
pháp tích cực (gọi là mục đích hành vi).
Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện ở hành vi xử
sự theo pháp luật của con người. Mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc của
q trình phổ biến, giáo dục pháp luật là để phục vụ cho mục đích hình thành
động cơ, hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực của cơng dân. Thói quen
xử sự của cơng dân phải là thói quen xử sự hợp pháp, thói quen tuân thủ các
quy phạm pháp luật, thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp
lý cũng như việc sử dụng tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể


để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà nước
và của xã hội.
Nhờ vào hoạt động giáo dục pháp luật, cung cấp tri thức pháp luật, lòng
tin sâu sắc vào sự cần thiết phải tuân thủ một cách tự nguyện những quy định
của pháp luật, giáo dục tình cảm cơng bằng, ý thức trách nhiệm và lòng khoan
dung đối với các vi phạm pháp luật, ở con người mới hình thành được động

cơ và hành vi hợp pháp, tự nguyện và tích cực. Giáo dục cho cơng dân thói
quen xử sự theo những địi hỏi của pháp luật là nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp. Chỉ khi giáo dục được cho công dân lòng tin vào giá trị xã hội và vai trò
của pháp luật khi đấy mới chuyển hoá thành ý thức tự giác pháp luật, hành vi
xử sự hợp pháp sẽ trở thành thói quen lặp đi lặp lại dù trong bất kỳ mối quan
hệ pháp lý nào như là thói quen của con người hàng ngày. Đó là thói quen
tuân theo những quy phạm pháp luật, kiềm chế thực hiện những hành vi bị
cấm đốn. (Ví dụ: Khơng đi vào khu vực có biển báo cấm); thói quen thực
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý, như là thói quen tự nhiên khi thực hiện hành
vi tích cực bảo vệ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. (Ví dụ: Thói quen
đội mũ bảo hiểm khi đi mơ tơ, xe máy trên đường quốc lộ); thói quen sử dụng
các quy phạm pháp luật, thói quen áp dụng pháp luật là thói quen biết vận
dụng một cách thành thạo các tri thức pháp luật trong thực tiễn cuộc sống.
Các thói quen này tạo thành mục đích hành vi của phổ biến, giáo dục pháp
luật.
Như vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình tác động định hướng
của các nhân tố chủ quan nhằm hình thành tri thức pháp luật (mục đích nhận
thức), lịng tin pháp luật (mục đích cảm xúc) và động cơ, hành vi hợp pháp
(mục đích hành vi). Giữa các mục đích có sự đan xen quan hệ qua lại thống
nhất, chặt chẽ. “Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác, từ tính tự giác tới tính
tích cực, từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật”[35, 39].
Phổ biến, giáo dục pháp luật phải được tiến hành một cách có hệ
thống, đồng bộ, nhất quán tới mọi tầng lớp nhân dân, trong các cơ quan, đoàn
thể với những mục tiêu xác định phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn,


hồn cảnh cụ thể. Đổi mới hệ thống chính trị nói chung, cải cách bộ máy nhà
nước nói riêng đang tiến hành ở nước ta, trên thực tế không thể tiến hành và
tồn tại bên ngồi q trình phổ biến, giáo dục pháp luật, khơng thể khơng tính
đến kết quả và mức độ phổ biến, giáo dục pháp luật.

1.1.3. Nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của q
trình giáo dục pháp luật, nội dung đó được xác định trên cơ sở mục đích,
nhiệm vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật. Mục đích đó là: Trang bị tri thức
pháp luật; bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật; hướng dẫn hình thành thói
quen xử sự tích cực theo pháp luật. Mỗi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật đều phải nhằm định hướng cho người được giáo dục cả về tri thức, tình
cảm, hành vi. Do đó, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm việc
cung cấp thường xun, có hệ thống thơng tin về pháp luật, thực tiễn thi hành,
bảo vệ pháp luật (không chỉ phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật mà
cịn phải làm rõ tính chấp hành và những hậu quả pháp lý nếu vi phạm các
quy định đó), qua đó bồi dưỡng các đối tượng, giỳp họ nhận thức được những
tình cảm đúng đắn, lịng tin đối với pháp luật, rèn luyện khả năng nghiên cứu
những tri thức đó để phân tích, phê phán, lý giải một cách có căn cứ về những
vấn đề thực tiễn làm cơ sở định hướng và lựa chọn cách xử sự phù hợp trong
những hoàn cảnh cụ thể.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật có phạm vi tương đối rộng,
nhưng có đặc thù riêng, khơng lẫn với các nội dung giáo dục khác, bao gồm:
Các thông tin về pháp luật (gồm cả kiến thức pháp luật cơ bản và văn bản
pháp luật thực định); các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi
phạm pháp luật và tội phạm, về việc điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật; các
thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện, áp dụng
pháp luật; về vị trí, tác động của từng văn bản pháp luật đối với đời sống xã
hội, đối với từng đối tượng và ý kiến của nhân dân, của các chuyên gia trong
từng lĩnh vực đánh giá hiệu lực pháp lý, hiệu quả kinh tế - xã hội của các văn
bản pháp luật và các biện pháp thi hành pháp luật; các thông tin hướng dẫn


hành vi pháp luật cụ thể (các quy trình, thủ tục đơn giản để người dân có thể
tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình). Việc cung cấp đầy đủ, kịp thời,

chính xác và thường xuyên các loại thơng tin trên cho người được giáo dục để
họ có khả năng phân tích, đánh giá một cách khoa học và định hướng hành vi
của mình khi gặp những sự kiện pháp luật trong trường hợp cụ thể.
Có thể phạm vi hoá nội dung cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật
theo từng nhóm đối tượng, giáo dục như sau:
- Thứ nhất, nội dung tối thiểu của phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi
công dân. Mọi công dân sống trong xã hội được quản lý bằng pháp luật, nhất
thiết phải được trang bị những kiến thức tối thiểu về pháp luật và có khả năng
sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác, của Nhà nước và tồn xã hội. Đó chính là nội dung tối thiểu của phổ
biến, giáo dục pháp luật phổ cập bao gồm: Hiểu biết những thông tin cơ bản về
tổ chức bộ máy nhà nước, về thực thi pháp luật, đặc biệt là cơ chế bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân; hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ pháp lý
cơ bản của công dân do Hiến pháp và một số đạo luật quy định; kiến thức về
thủ tục, trình tự pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện
nghĩa vụ của công dân.
Ở mức độ này, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành ý thức pháp
luật của cơng dân. Sự nhận thức về vị trí của họ trong mối quan hệ với Nhà
nước, với cá nhân khác để biết mình có quyền và nghĩa vụ pháp lý như thế
nào, mình cần phải làm gì và đến đâu trong từng trường hợp cụ thể để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của toàn xã hội.
- Thứ hai, nội dung giáo dục pháp luật theo yêu cầu của từng ngành
nghề. Công dân trong từng lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội khác
nhau lại có nhu cầu hiểu biết và sử dụng quy định của pháp luật ở mức độ cao
hơn, mang đậm nét của định hướng nghề nghiệp. Do đó, nội dung phổ biến,
giáo dục pháp luật ở nhóm, đối tượng này được mở rộng và chuyên sâu hơn


mức độ tối thiểu cho công dân ở trên và có thể bao gồm: Hệ thống các khái

niệm cơ bản của khoa học pháp lý thường gặp trong thực tiễn (bản chất nhà
nước và pháp luật, các nguồn và hình thức pháp luật,…); các quy định của
pháp luật thực định liên quan đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng; các
quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động nghề nghiệp; quá trình tố tụng và vị trí các chủ thể tố tụng để thực hiện,
bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó.
- Thứ ba, nội dung giáo dục chuyên ngành cho những người hành nghề
pháp luật. Đây là cấp độ cao nhất của nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà nước và cho các tổ chức
nghề nghiệp luật. Những hiểu biết, thái độ, tình cảm cũng như những kỹ năng
sử dụng pháp luật của các luật gia phải là chuẩn mực của ý thức và hành vi
tuân thủ pháp luật. Do đó, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
những người hành nghề luật phải bao gồm ít nhất ba phần:
+ Hệ thống trí thức pháp luật cơ bản về chuyên ngành luật, bao gồm cả
những quan điểm, học thuyết về Nhà nước và pháp luật trong lịch sử và hiện
tại; sự hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp luật trong nước và quốc
tế và lĩnh vực chuyên sâu của từng người (Luật Hình sự, Dân sự, Hành chính
…).
+ Kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là kỹ năng vận dụng sáng tạo và chính
xác pháp luật vào việc xử lý các sự kiện pháp lý cụ thể (các tranh chấp, các vi
phạm pháp luật… ).
+ Nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp: Nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật ở đây thường tập trung vào việc cung cấp, giải thích các quy phạm
pháp luật cụ thể, về những hậu quả pháp lý do việc chấp hành hay vi phạm các
quy phạm đó, những hướng dẫn hành vi xử sự cụ thể trong các tình huống cụ
thể. Do đó, những người hành nghề luật vừa là đối tượng của phổ biến, giáo
dục pháp luật vừa là chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật, họ phải ln đề
cao đạo đức hành nghề, có nhận thức đúng và tâm lý sẵn sàng, thiện chí giúp



đỡ, hướng dẫn cơng dân trong những tình huống pháp lý cụ thể. Tuyệt đối tuân
thủ theo pháp luật không vì lợi ích cá nhân. Ở đối tượng này cịn có kỹ năng
quan trọng và đặc thù là kiến thức lập pháp, khả năng tham gia vào việc hoàn
thiện pháp luật.
Việc xác định phạm vi, mức độ của nội dung phổ biến, giáo dục pháp
luật đóng một vai trị rất quan trọng trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp
luật, là điều kiện cần để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đạt tới mục
tiêu cuối cùng là hình thành ý thức, thói quen sống và làm việc theo pháp luật
của công dân, hướng tới một xã hội văn minh, ổn định. Với mỗi nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể cần nghiên cứu hình thức,
phương tiện giáo dục pháp luật phù hợp, phối hợp giữa chúng với nhau để đạt
tới mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật đặt ra cho mỗi đối tượng. Đây cũng
là yêu cầu nhất thiết được đặt ra trong tồn bộ q trình phổ biến, giáo dục
pháp luật.

1.2. Chủ thể, khách thể, đối tƣợng của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật
Về vấn đề chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật hiện cịn có những nhận
thức khác nhau. Theo lý luận giáo dục học: Chủ thể giáo dục là thầy, cô giáo
và những người làm công tác giáo dục khác.
Vận dụng lý luận giáo dục về chủ thể giáo dục, thỡ chủ thể phổ biến,
giáo dục pháp luật là các giáo viên giảng dạy pháp luật ở các nhà trường, các
cơ quan hành chính, tư pháp, các cơ quan tuyên giáo, thông tin; báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật ở các ngành, các cấp, các đoàn thể. Ngồi ra chủ
thể giáo dục pháp luật cịn là các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, cán bộ
công chức khi thi hành công vụ với mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật;
thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên - thông qua hoạt động xét xử
cũng là chủ thể tích cực của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Bên cạnh
đấy, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức tư vấn pháp



lý, trợ giúp pháp lý, các luật gia, luật sư cũng tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các thành viên và khách hàng của mình.
Như vậy, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu là tất cả
những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham
gia góp phần thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể
phổ biến, giáo dục pháp luật khi căn cứ vào mối liên quan giữa mục tiêu
phổ biến, giáo dục pháp luật và chức năng, nhiệm vụ do luật định của chủ
thể đó là: Chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.
- Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người mà nhiệm vụ chủ yếu trực
tiếp là thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật; thực hiện hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật theo chức năng, nhiệm vụ. Đây là lực
lượng hoạt động có nghiệp vụ, có chương trình, kế hoạch, có nội dung và
thường xác định được đối tượng tác động cụ thể, bao gồm: Các giảng viên
giảng dạy pháp luật trong các nhà trường; các cán bộ chuyên gia làm công tác
nghiên cứu và chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ quan nhà nước,
tổ chức, xã hội; các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật; các phóng
viên, biên tập viên các báo, đài truyền hình phụ trách các chuyên mục pháp
luật hoặc các nội dung liên quan đến pháp luật. Đây cũng là lực lượng nòng
cốt của các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiện nay, tham gia thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật là một lực lượng đông đảo cán bộ chuyên
trách (cán bộ tư pháp, pháp chế doanh nghiệp) các cán bộ kiêm nhiệm, báo
cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, giáo viên dạy pháp luật trong các nhà
trường, các cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, hòa giải viên ở cơ sở,
những người có uy tín trong cộng đồng dân cư.
- Chủ thể không chuyên nghiệp: Là những người tuy chức năng chính
khơng phải là phổ biến, giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của
họ là bằng hoặc thông qua các hoạt động của mình để thực hiện các mục đích
phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể, gắn liền với mục đích của hoạt động



chun mơn chính. Chủ thể này thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật theo
trách nhiệm của người cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, gắn với thi
hành công vụ hoặc thông qua trách nhiệm của người đứng đầu một cơ quan,
tổ chức, đơn vị.
Với mỗi loại chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật, cần nghiên cứu đầy
đủ về vị trí, trách nhiệm, tính đặc thù trong phương thức tiến hành hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như cách thức, phạm vi hoạt động của từng
loại chủ thể và các yêu cầu về trình độ, năng lực, đào tạo và các điều kiện cần
thiết khác cho việc thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; sự vận
hành cơ chế phối hợp giữa các chủ thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
chung. Việc không nghiên cứu đầy đủ, nhận thức rõ các yêu cầu trên đối với
từng loại chủ thể là nguyên nhân của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
khơng có định hướng, do đó khơng đạt được mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp
luật và hiệu quả phổ biến, giáo dục bị giảm sút là hậu quả tất yếu.
Như vậy, để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện
một cách có hệ thống, thường xuyên và có hiệu quả, các chủ thể cần phải xác
định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của mình trong hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật để xây dựng các chương trình, kế hoạch từng thời kỳ; xác định
rõ nội dung, phương thức, phạm vi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
của từng loại chủ thể; xác định rõ yêu cầu đối với từng loại chủ thể (yêu cầu
về trình độ hiểu biết, năng lực tổ chức công việc, về phẩm chất, nhân cách, về
tính gương mẫu, tuân thủ pháp luật,...). Bên cạnh đấy yêu cầu về trạng thái ý
thức pháp luật, tâm lý pháp lý, nhu cầu, điều kiện cụ thể để tiếp nhận pháp
luật và tác động giáo dục của các đối tượng được giáo dục là yêu cầu cần thiết
cho việc tìm ra cách tiếp cận thích hợp nhất giữa của chủ thể với đối tượng
được giáo dục pháp luật, làm tăng hiệu quả giáo dục pháp luật.
Khi xác định rõ các yêu cầu đối với chủ thể phổ biến, giáo dục pháp
luật, có thể đề ra những định hướng, biện pháp, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

và tổ chức công việc của chủ thể sao cho phù hợp nhất với các điều kiện làm
việc của họ, để đạt được các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật.


×