Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

(Luận văn thạc sĩ) mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử theo yêu cầu của cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.72 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH TÙNG

MèI QUAN Hệ GIữA HOạT ĐộNG CÔNG Tố
Và HOạT ĐộNG XéT Xử THEO YÊU CầU
CủA CảI CáCH TƯ PHáP
Chuyờn ngnh: Lý lun và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thanh Tùng




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƢ PHÁP ....................................................................... 7
1.1.

Khái niệm hoạt động công tố và xét xử ............................................ 7

1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố ............................................................... 7
1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử ............................................................... 17
1.2.

Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt
động xét xử ........................................................................................ 20

1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp .................................... 20
1.2.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự .......................................................... 25
1.3.

Những yêu cầu của việc cải cách tƣ pháp đối với việc hồn
thiện mối quan hệ giữa hoạt động cơng tố và xét xử .................... 30

1.3.1. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án..................................... 32

1.3.2. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát ......................... 34
1.3.3. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra ..................... 34
1.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các Cơ quan tư pháp trong việc giải
quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng
gây ra .................................................................................................. 35
1.3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch –
vững mạnh .......................................................................................... 35


1.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách đảm
bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả ............ 36
1.3.7. Đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với
Nhân dân ............................................................................................ 36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ ............................ 38
2.1.

Khái quát chung về hoạt động tố tụng hình sự ............................. 38

2.2.

Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo pháp luật
hiện hành ........................................................................................... 45

2.2.1. Mối quan hệ phối hợp giữa hoạt động công tố và xét xử .................. 46
2.2.2. Mối quan hệ chế ước giữa hoạt động công tố và xét xử .................... 48
2.3.

Những bất cập của pháp luận hiện hành về mối quan hệ giữa
hoạt động công tố và xét xử ............................................................. 50


2.3.1. Vấn đề truy tố và rút truy tố ............................................................... 53
2.3.2. Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung .................................................. 58
2.3.3. Vấn đề giới hạn xét xử ....................................................................... 62
2.3.4. Vấn đề khởi tố vụ án hình sự ............................................................. 72
2.3.5. Vấn đề Toà án xác định sự thật của vụ án.......................................... 74
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN MỐI
QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CƠNG TỐ VÀ XÉT XỬ......... 76
3.1.

Quan điểm hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố
và xét xử ............................................................................................ 76

3.1.1. Xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ............ 76
3.1.2. Cải cách tư pháp phải được đặt trong q trình đổi mới hệ thống
chính trị và hoàn thiện bộ máy Nhà nước .......................................... 80
3.1.3. Cải cách tư pháp phải kết hợp chặt chẽ với cải cách nền hành
chính Nhà nước .................................................................................. 80


3.2.

Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố
và xét xử ............................................................................................ 88

3.2.1. Sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân ............................................... 88
3.2.2. Sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ................................... 93
3.2.3. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự .......................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không
ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ
quan trọng hiện nay của Nhà nước là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp,
chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo
cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt
động hiệu quả.
Các quan điển này được tiếp tục khẳng định và phát triển trong các Văn
kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết Trung ương của Đảng ta trong những
năm gần đây.
Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện
Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
…Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới… bảo đảm cho mọi vi phạm
đều bị xử lý, mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm
quyền làm chủ của công dân… 6.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra các biện pháp
tiến hành cải cách tư pháp ở nước ta là: “…Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao
tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, truy tố, xét xử…” 9.
Các yêu cầu của cải cách tư pháp đã được Bộ Chính trị Ban chấp hành

1



Trung ương Đảng chỉ rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI, Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục nghi nhận các nội dung: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy cải cách hoạt động xét xử làm
trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…
Theo tinh thần trên, các cơ quan tư pháp nói chung; Viện kiểm sát nhân
dân và Tồ án nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy việc nhận thức và thể hiện
mối quan hệ giữa các Cơ quan tư pháp nói chung, Cơ quan thực hiện hoạt động
công tố và Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử nói riêng vẫn chưa đúng: Hoặc là
quá coi trọng quan hệ phối hợp mà quên đi trách nhiệm chế ước; Quá nặng về
chế ước dẫn đến đối đầu, cản chở, gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện
nhiệm vụ. Bên cạnh đó là sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm, chưa có sự phân biệt rành mạch giữa các Cơ quan tư pháp nói
chung, Cơ quan thực hiện chức năng công tố và Cơ quan thực hiện chức năng
xét xử nói riêng.

2



Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa hoạt
động công tố và hoạt động xét xử theo yêu cầu của cải cách tư pháp” có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều cơng trình khoa học, nhiều nhà
nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở mức độ khác nhau đề cập đến các vấn đề tổ
chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động của Cơ quan
thực hiện chức năng công tố và xét xử nói riêng… Qua tìm hiểu các tài liệu
hiện hành cho thấy các cơng trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những
khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu chung gồm: Lê Hữu Thể: Hồn thiện mơ hình tố
tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành),
Hà Nội, 2011; Nguyễn Thái Phúc: Viện kiểm sát hay viện cơng tố (Tạp chí
chun ngành), Hà Nội, 2007; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất
lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề
thông khâu và chuyên khâu trong các cơng tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa
học cấp bộ), Hà Nội, 2004; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp-nội dung
cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí chuyên
ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương:
Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
(Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Trần Văn Độ: Phân định thẩm quyền
trong tố tụng hình sự (Tạp chí chun ngành), Hà Nội, 2008.
- Nhóm nghiên cứu về hoạt động cơng tố và hoạt động xét xử:
Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư


3


pháp, Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận
án tiến sỹ luật học), Hà Nội, 2002; Nguyễn Trương Tín: Mối quan hệ giữa
tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Tồ án (Tạp trí
chun ngành), Hà Nội, 2008; Nguyễn Minh Đức: Quyền công tố và tổ
chức thực hiện quyền cơng tố trong nhà nước pháp quyền (Tạp chí chun
ngành), Hà Nội, 2012.
Những cơng trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm
sát nhân dân, Tồ án nhân dân nói riêng; Đồng thời đã có một số cơng trình,
bài viết nghiên cứu về hoạt động công tố và hoạt động xét xử trên một số lĩnh
vực cụ thể. Các cơng trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu
tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hồn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và yêu cầu của cải cách tư pháp;
Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt
động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện chức năng
công tố và xét xử; mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử; chỉ
ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan này trong mối quan hệ trên để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy Cơ quan thực hiện chức năng công
tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền,
tổ chức, bộ máy các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử; mối quan

hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp.

4


+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về mối quan hệ
giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó
chỉ ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ
giữa các cơ quan này.
+ Đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật liên
quan đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ
chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét
xử là hoạt động trọng tâm, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận về lịch sử nhà nước và pháp
luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực
trạng pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Cơ sở lý luận của luận văn:
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật liên
quan đến tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động
cơng tố và xét xử nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; Kết hợp với
các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học.

5. Điểm mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn

5


thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của
Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử, cũng như mối quan hệ giữa
các cơ quan này theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác lý luận và thực tiễn,
đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu và giảng dạy. Vì vậy, có
một số đặc điểm sau:
- Làm rõ một số khái niệm, nội dung, phạm vi, các yêu cầu của cải cách
tư pháp đối với tổ chức và hoạt động; chức năng và nhiệm vụ của các Cơ
quan thực hiện chức năng công tố và xét xử.
- Chỉ ra những tồn tại, bất cập của pháp luật và áp dụng pháp luật hiện
hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động…. của các Cơ
quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa hoạt động công
tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa hoạt động công
tố và xét xử ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt
động công tố và xét xử.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG
CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
1.1. Khái niệm hoạt động công tố và xét xử
1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố
* Quyền công tố
Trên thế giới, “quyền công tố” đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã
hội lồi người. Quyền cơng tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất
của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công
quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và
mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền cơng tố
chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích cơng và lợi ích tư, về
trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay
đổi: Lợi ích cá nhân liên quan lợi ích cơng, tác động qua lại với nhau; chính vì
vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai
trị cơng tố càng được đề cao trong xã hội.
Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa
học pháp lý nói chung, chế định “quyền cơng tố” chưa được nghiên cứu một
cách tồn diện; chính vì vậy chưa có khái niệm chính thống về quyền cơng tố.
Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công
tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ năm 1960 đến nay do Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện. Tuy nhiên hiểu thế nào là “công tố”, “quyền cơng tố”,
bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan
điểm thống nhất chung.


7


Có quan điểm cho rằng, cơng tố là “hoạt động tố tụng đối với các vụ
mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước
khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”.
Theo từ điển tiếng Việt, cơng tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc
tội kẻ phạm tội trước Tòa án” 51, tr. 204.
Từ điển Luật học lại ghi: Công tố là “quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” 50, tr. 188.
Thuật ngữ quyền công tố lần đầu tiên được nghi nhận tại Hiến pháp
năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981, 1992 và 2002.
Từ điển Luật học định nghĩa về quyền công tố như sau: “Quyền công tố
là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” 50, tr. 188.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính
thức nội dung quyền cơng tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung,
lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể thực hiện quyền công tố. Nhưng về nội
dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền
công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về
quyền công tố như sau:
- Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước Hiến
pháp năm 1992). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân để xem xét quyền cơng tố; theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền cơng tố. Có nghĩa là ngay cả
khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các cơ quan Nhà nước khắc phục, sửa

chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội

8


thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền cơng tố. Quan điểm này cho rằng
công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là
một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát
nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào nội
dung các điều luật được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và 1992; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và 1992. Mặt khác, quan điểm này
cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên Xơ trước đây.
Khái niệm quyền cơng tố theo quan điểm trên là chưa chính xác, vì đã
đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng
thời cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các Luật.
- Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại
phiên tịa (thực hành quyền cơng tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện
quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung, cũng như phạm vi của
quyền công tố. Về lý luận cũng như thực tế, hoạt động thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát tại Tòa án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện Nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền
cơng tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên
trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của ngành luật,

quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động.
Theo quan điểm này thì nội dung quyền cơng tố là tổng hợp các biện pháp tư

9


pháp đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện
trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự và các lĩnh vực khác, nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất.
Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc tới trong
những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của
ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền cơng tố, dẫn đến xóa
nhịa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng
khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động
và hành chính.
- Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và
áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Đó là hoạt động tố tụng
của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy
định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và
áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội.
Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền cơng tố với ngun tắc
tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó,
mọi tội phạm xẩy ra đều xâm phạm đến các lợi ích chung của tồn xã hội, kẻ
phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị trừng trị bằng các chế tài

hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đó
là Cơ quan điều tra, Cơ quan Công tố, Cơ quan xét xử và thi hành án. Như

10


vậy, Tòa án, Cơ quan Thi hành án cũng là chủ thể thực hiện quyền công tố.
Quan điểm này đã xóa nhịa danh giới giữa các chức năng buộc tội và chức
năng xét xử trong tố tụng hình sự.
- Quan điểm thứ năm cho rằng quyền công tố bao gồm quyền khởi tố,
điều tra, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Đại diện cho quan điểm này
là các Luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Theo họ, quyền công tố
luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh công
quyền). Do vậy, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy
nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực
hành quyền công tố chỉ bao gồm: Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Cơ quan
công tố (Công tố viên). Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực
hành quyền buộc tội nhân danh Nhà nước tại phiên tịa chỉ thuộc về Cơ quan
cơng tố. Quyền cơng tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích cơng
(lợi ích chung của tồn xã hội), mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm
tội xâm hại.
- Quan điểm thứ sáu cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước
đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành
chính, Luật dân sự, Luật kinh doanh thương mại và Luật hình sự; quyền
cơng tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm
này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước; Nhà nước khơng thể khơng thực
hiện quyền cơng tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, và đồng thời là chủ thể tham gia vào nhiều quan
hệ pháp luật khác nhau.

Với tính cách là một quyền năng Nhà nước, quyền công tố được thực
hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình
sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự
tồn tại quyền cơng tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu

11


khách quan, nên Nhà nước không thể không thực hiện quyền lực của mình
trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và thực hiện công tố như một điều
kiện đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ
quan tài phán. Như vậy, quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu
hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự,
hình sự, hành chính, lao động), quyền tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào
khi xét thấy cần thiết, quyền yêu cầu Tịa án hoặc tự mình điều tra, xác minh
những vần đề cần làm sáng tỏ trong vụ án… Quyền cơng tố trong các hoạt
động tố tụng khác nhau thì khơng giống nhau về nội dung và hình thức thực
hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền cơng tố có nghĩa Nhà nước thực
hiện sự buộc tội đối với một con người phạm tội cụ thể, còn trong các hoạt
động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc Nhà nước trực
tiếp hay gián tiếp quy lỗi cho một người, một tổ chức nào đó vi phạm pháp
luật tương ứng.
- Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước
đưa các việc làm vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra Tịa án để
xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự
can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì
mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước
phải đứng ra điều hịa; đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là
quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, nhằm mục

đích duy trì trật tự cộng đồng, trật tự pháp luật, củng cố và phát triển các quan
hệ xã hội. Như vậy, quyền cơng tố khơng chỉ trong lĩnh vực hình sự, mà cịn
cả trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế và lao động.
Quan điểm thứ sáu và thứ bảy coi mọi việc đưa ra Tòa án để giải quyết
đều là do vi phạm pháp luật (liên quan đến trật tự xã hội chung). Trong thực

12


tiễn, hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát khơng phải lúc nào cũng nhằm
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người nào đó, mà có trường hợp chỉ
nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Ví
dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự, hành chính, lao động với lợi ích
chung hoặc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần… hoạt động trên của Viện
kiểm sát hồn tồn khơng phải là hoạt động thực hành quyền công tố, mà chỉ
là hoạt động thực hiện các quyền luật định của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ tám cho rằng, công tố quyền là quyền được hành xử
nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tịa án tun
một hình phạt đối với người phạm tội. Đại diện cho quan điểm này là các
Luật gia miền Nam nước ta trước năm 1975. Theo quan điểm này thì hành vi
đưa các phạm nhân gia Tòa án để xét xử là sự truy tố. Cái quyền truy tố đó là
cơng tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị kẻ phạm pháp qua
các đại diện của xã hội và các Thẩm phán được giao phó nhiệm vụ xử thực
hành công tố quyền là những Thẩm phán công tố.
Những người theo quan điểm này phân biệt rõ khái niệm cơng tố quyền
và dân tố quyền. Một tội phạm hình sự xẩy ra, phát sinh tố quyền, tố quyền
này nhân danh xã hội yêu cầu Tòa án tuyên phán một biện pháp chế tài hình
sự đối với một vi phạm trật tự xã hội do tội phạm gây ra; đây gọi là cơng tố
quyền. Nhưng tội phạm có thể làm phát sinh bên cạnh công tố quyền một tố

quyền của tư nhân bị tội phạm gây thiệt hại, đó là quyền yêu cầu Tòa án buộc
kẻ phạm tội bồi thường thiệt hại cho mình; đó là dân tố quyền theo các Luật
gia miền Nam. Về bản chất, quyền công tố thuộc về xã hội; do đó phạm vi
quyền cơng tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Tịa án.
Những quan điểm nêu trên về quyền cơng tố đều có sự hợp lý ở những
khía cạnh khác nhau, tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung hạn
chế, bất cập, cụ thể:

13


+ Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công
tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự,
hành chính, kinh tế, lao động.
+ Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn
đến sự xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của
Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công.
+ Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là
quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc
tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là khơng phân định rõ
ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực
hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều
quan điểm cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát
việc tn theo pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm
nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong
chức năng của Viện kiểm sát.

Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền cơng tố, cần
phải xem xét nó trong mối liên với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ
thể. Quyền cơng tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực
pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, khơng thể tách rời với
việc nhân danh Nhà nước (nhân danh cơng quyền) chống lại hình thức vi
phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Tội
phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới

14


đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình
quyền trừng trị kẻ phạm tội.
Trong tố tụng dân sự thì đối tượng của nó là tranh chấp dân sự liên quan
đến lợi ích của từng cá nhân. Một trong những đặc thù của tố tụng dân sự là
nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự. Ý trí, lợi ích, sự tự thỏa thuận của
các đương sự quyết định sự xuất hiện, vận động và chấm dứt hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về các đương sự;
trong khi cốt lõi của tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý kẻ phạm tội.
Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là
ngun tắc cơng tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành
trước hết và chủ yếu vì lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của tồn xã hội. Điểm
mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội.
Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi
cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Mặt khác hoạt động tố tụng hình sự ln tồn tại ba chức năng tố tụng

cơ bản: Buộc tội, bào chữa (gỡ tội) và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện
của cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra
lời cáo buộc đối với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những
bằng chứng cho sự cáo buộc đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực
hình sự gắn liền với buộc tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân
danh cơng quyền và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xẩy ra. Sự buộc tội
nhân danh công quyền này được gọi là quyền công tố.
Từ phân tích trên có thể rút ra kết luận: Quyền cơng tố là quyền nhân

15


danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên
cơ sở đảm bảo việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và
người phạm tội.
* Cơ quan thực hiện quyền công tố
Ở nước ta, căn cứ vào các quy định pháp luật từ năm 1960 đến nay, thì
Viện kiểm sát chính là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công
tố. Thực tiễn tổ chức và hoạt động mấy chục năm qua của Viện kiểm sát nhân
dân các cấp cho thấy, 100% các vụ án hình sự đều do Viện kiểm sát truy tố và
thực hiện sự buộc tội trước phiên tồ sơ thẩm, đưa ra kết luận của mình tại
phiên tồ theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Cùng với
những hoạt động đó, Viện kiểm sát các cấp cịn có trách nhiệm xem xét, bảo
đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn được
hợp lý và hợp pháp, có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc khởi tố
của Cơ quan điều tra và Toà án.
Theo quy định của pháp luật, tuy Cơ quan điều tra và Toà án các cấp
cũng thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số vụ án do Cơ quan điều
tra thực hiện việc khởi tố chiếm tới khoảng 96 - 97% số vụ án được khởi tố,

nhưng nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khơng có căn
cứ, thì chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền quyết định huỷ bỏ quyết định khởi
tố đó; Hoặc chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị quyết định khởi tố
vụ án hình sự khơng có căn cứ của Hội đồng xét xử. Cơ quan điều tra có
quyền khởi tố, bắt, tạm giam người phạm tội, tiến hành điều tra thu thập
chứng cứ… nhưng phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp. Toà án
chỉ đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm
sát, và chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền buộc tội bị cáo tại phiên tồ. Bản
án kết tội của Tồ án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của Viện kiểm sát đối
với người phạm tội.

16


Như vậy, ở Việt Nam những hoạt động trên đây của Viện kiểm sát hồn
tồn mang tính độc lập, khơng lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Duy nhất chỉ
có Viện kiểm sát được giao việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối
với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố của mình.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động công
tố là chức năng của Viện kiểm sát được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt q trình tố tụng nhằm đảm bảo khơng bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai
phạm của những người tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.
1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử
Sự ra đời của Toa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành
đặc điểm quan trọng nhất của Toà án. Ngay từ khi Nhà nước xuất hiện đã có
xét xử và có Tồ án. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì “tư pháp tức là
pháp đình, là Tồ án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi
pháp luật, do vậy “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi

vi phạm các quy định của pháp luật Nhà nước” 5, tr. 23.
Lúc mới ra đời hoạt động xét xử chỉ được áp dụng cho các “thần dân”
có hành vi chống lại Nhà nước, các vi phạm giữa các cá nhân được giải quyết
chủ yếu bằng con đường “tự xử”. Càng về sau các quyền tự do dân sự, chính
trị của cơng dân dần được pháp luật thừa nhận, sự vi phạm các quyền đó được
thừa nhận như là xâm phạm tới lợi ích, trật tự chung và do đó chúng là đối
tượng của hoạt động xét xử của Toà án.
Với chức năng xét xử thì Tồ án đại diện cho quyền lực tư pháp - một
trong ba nhánh quyền lực ở Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền, không những có quyền xét xử những tranh chấp, vi phạm thơng
thường mà cịn có thẩm quyền phán xử những vi phạm Hiến pháp. Trong Nhà
nước pháp quyền, Tồ án có vai trò quan trọng, là nơi biểu hiện tập trung của

17


quyền lực tư pháp, đồng thời là nơi thể hiện nền cơng lý, sự đối xử bình đẳng,
cơng bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là nơi thể hiện chất lượng
hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp.
Ở nước ta, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân đã được
khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt thực hiện quyền lực Nhà nước tiếp tục được thể hiện rõ ràng, rành
mạch hơn. Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta khẳng định Quốc hội thực hiện
quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân
thực hiện quyền tư pháp.
Bằng việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” 35, Điều 102, khoản 1,
Hiến pháp xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ
máy Nhà nước. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp,

thực hiện chức năng xét xử; Tịa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra
phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định pháp luật và
các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp
bằng quyền lực Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tịa án.
Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tịa án trong hệ thống tư
pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Hiến pháp quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của Tịa án nhân dân. Đó là
bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai
trị và chức năng của Tòa án nhân dân đã được xác định. Là cơ quan có chức
năng ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, Tịa án
nhân dân có vai trị rất quan trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

18


bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi
quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến
Tịa án như là tìm đến cơng lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp Tịa án là
biểu tượng của cơng lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý.
Như vậy, “Hiến pháp đã khẳng định hoạt động xét xử là chức năng chỉ
thuộc về Toà án, không một cơ quan Nhà nước, một tổ chức nào khác có thể
thay thế Tồ án thực hiện chức năng xét xử” 16. Khi thực hiện chức năng
xét xử, Toà án nhân danh Nhà nước xem xét nội dung vụ án hình sự và các
loại tranh chấp khác để cuối cùng ra phán xét ai đúng, ai sai. Chính vì nhân
danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử nên phán quyết của Tồ án cho dù
nó được thể hiện bằng quyết định hay bằng bản án vẫn có giá trị bắt buộc đối
với tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân.
Theo tinh thần này thì gắn cho Tồ án những chức năng khác như:

Trách nhiệm phát hiện tội phạm và khởi tố vụ án hình sự, trách nhiệm thu
thập chứng cứ để chứng minh tội phạm … không thuộc về xét xử là khơng
phù hợp với bản chất, vị trí, chức năng của Toà án trong Nhà nước hiện đại và
đồng thời cũng là sự vi phạm Hiến pháp.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động xét xử là hoạt
động tố tụng của Tồ án có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng pháp
luật vào trường hợp cụ thể như trong vụ án hình sự: Xem xét và phán quyết
người bị buộc tội có tội hay khơng có tội, nếu có tội thì trách nhiệm hình sự
như thế nào, cũng như vấn đề khác có liên quan, được thực hiện trong mối
quan hệ với với chức năng tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước.
Về nội dung, chức năng xét xử là tất cả các hoạt động của Toà án để
khẳng định hay bác bỏ yêu cầu buộc tội của bên buộc tội và các vấn đề khác
có liên quan. Chức năng xét xử bao gồm hai nội dung chính là sự kiện và

19


pháp lý. Nội dung sự kiện là trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ, Toà án phải
khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại những sự kiện đã xẩy ra trên thực tế.
Nội dung pháp lý là sau khi đã khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại của các
sự kiện thực tế, Toà án phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật cụ thể để đưa
ra những đánh giá pháp lý về các sự kiện thực tế đó, tức là các sự kiện thực tế
đó có dấu hiệu phù hợp và chịu sự điều chỉnh bởi các nội dung của quy phạm
pháp luật nào.
* Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử
Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật” 38; cơ cấu tổ chức của Tịa án nhân dân theo địa giới hành chính:

Ở Trung ương có Tịa án nhân dân tối cao; ở địa phương có các Tịa án nhân
dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngồi ra, cịn có các Tịa án qn sự được tổ chức
trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tịa
án đặc biệt.
1.2. Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt
động xét xử
1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp
* Một là, Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp
Theo quy định của pháp luật thì hệ thống Tồ án nhân dân từ năm 1960
đến nay được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Toà án nhân dân cấp
huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao. Bên cạnh hệ
thống Tồ án nhân dân thì ở nước ta cịn có hệ thống Tồ án qn sự được tổ
chức theo ba cấp: Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu và
Toà án quân sự Trung ương. Theo quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân

20


×