Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật về mua sắm công ở việt nam luận văn ths luật 6 01 05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ MINH LOAN

PHÁP LUẬT VỀ MUA SẮM CÔNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ MINH LOAN

PHÁP LUẬT VỀ MUA SẮM CÔNG Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 105

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN NIÊN

HÀ NỘI – NĂM 2004


LỜI CAM ĐOAN

Bản luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn hết


sức tận tâm và nhiệt tình của thầy giáo, PGS. TS. Nguyễn
Niên và sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp. Em xin bày
tỏ lòng cảm ơn chân thành tới tất cả những sự giúp đỡ quý
báu đó!


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, để thực hiện thành công các mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ
chế, chính sách nhằm khai thác và huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh
tế-xã hội. Đồng thời, cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý và
sử dụng các nguồn lực này một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Trong đó, phải kể
đến là các quy phạm pháp luật để quản lý hoạt động Mua sắm công.
Khái niệm “Mua sắm công” (tiếng Anh là “public procurement”) hoặc “mua
sắm chính phủ” (tiếng Anh là “government procurement”) được sử dụng rộng rãi
trên thế giới cũng như trong hệ thống pháp luật của nhiều nước. Tuy nhiên, ở Việt
nam, khái niệm này chưa được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật.
Trong luận văn này, chúng tôi xin được sử dụng một khái niệm chung là “Mua sắm
công”.
Pháp luật về Mua sắm công tuy mới được xây dựng và phát triển trong vong
10 năm trở lại đây nhưng cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Với sự ra đời
và ngày càng hoàn thiện Quy chế đấu thầu, là những quy định cốt lõi của pháp luật
về mua sắm công, chúng ta đã thiết lập được một khuôn khổ pháp lý hiện đại cho
hoạt động Mua sắm công. Qua thời gian thực hiện, hoạt động Mua sắm công dựa
trên cơ chế đấu thầu đã dần đi vào nề nếp; bảo đảm được sự cạnh tranh, công bằng
và hiệu quả kinh tế. Đồng thời, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động mua
sắm công cũng ngày càng được tăng cường. Mặc dù vậy, pháp luật về mua sắm cơng
hiện tại vẫn cịn ít nhiều bất cập, có nhiều vấn đề quản lý đối với hoạt động mua sắm

cơng hiện vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Để có đủ cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng
pháp luật về mua sắm công, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về Mua
sắm công trở thành một yêu cầu cần thiết.
Trên phương diện nghiên cứu nói chung và với phạm vi luận văn Thạc sỹ Luật
học nói riêng, cho đến nay, đây vẫn là một lĩnh vực mới mẻ và chưa có nhiều đề tài,


cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập vấn đề này. Chính vì vậy, chúng tơi xin mạnh
dạn lựa chọn đề tại “Pháp luật về Mua sắm công ở Việt Nam” làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ Luật học với mong muốn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
chung cũng như thực trạng pháp luật về mua sắm cơng ở Việt nam, từ đó đề xuất
một vài ý kiến nhằm tiếp tục xây dựng pháp luật về Mua sắm cơng trong thời gian
tới.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Với mục đích đóng góp một số ý kiến để tiếp tục xây dựng pháp luật về Mua
sắm công ở Việt Nam, trước hết, luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý
luận chung về mua sắm cơng và pháp luật về Mua sắm cơng, sau đó nghiên cứu thực
trạng pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện mua sắm công trong thời gian qua
nhằm đưa ra những đánh giá xác thực về ưu điểm và hạn chế, từ đó rút ra những cơ
sở cho việc đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục xây dựng pháp luật về mua sắm
công.

3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà bản luận văn đặt ra,
chúng tôi đã sử dụng phương pháp biện chúng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lê nin,
dựa trên đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã
hội và các nội dung khác có liên quan. Trong những trường hợp cụ thể, chúng tôi kết
hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp,
phân tích... nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.


4. Những đóng góp của Đề tài.
Luận văn là một trong những cơng trình khoa học đầu tiên ở cập Thạc sỹ Luật
học đề cập vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về Mua sắm công. Thông qua


nội dung đề tài, chúng tơi hy vọng góp phần vào việc nghiên cứu và tiếp tục xây
dựng pháp luật về Mua sắm công ở Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về Mua sắm công và Pháp luật về
Mua sắm công. Các nội dung như khái niệm và đặc điểm của Mua sắm công, sự
khác nhau cơ bản giữa mua sắm công và mua sắm ở khu vực tư nhân, khái niệm và
phạm vi điều chỉnh của pháp luật về mua sắm công, mối quan hệ giữa pháp luật về
mua sắm công với các chế định pháp luật khác đã được đi sâu phân tích, nghiên cứu.
Từ đó cho thấy vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo những mục tiêu cần đạt
được trong mua sắm công. Đây là những cơ sở lý luận cơ bản để có thể nhận thức
sâu sắc về Mua sắm công và Pháp luật về Mua sắm công.
Thứ hai, khái quát về sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời gian
qua, đồng thời hệ thống hoá các quy định của pháp luật hiện hành để từ đo đưa ra
bức tranh toàn cảnh về pháp luật Mua sắm công của Việt Nam.
Thứ ba, đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn thực hiện
để phân tích, làm rõ những ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt động thực
thi pháp luật về Mua sắm công hiện nay.
Thứ tư, từ những nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn pháp luật, kết hợp
với việc nghiên cứu pháp luật về mua sắm công của một số nước trên thế giới, chúng
tơi tìm ra những cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về mua sắm công ở Việt
Nam. Từ đó, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị cho việc tiếp tục xây dựng pháp
luật về Mua sắm công của Việt nam trong thời gian tới.

5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, 2 phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 99 trang được kết cấu thành 3 chương bao gồm:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về Mua sắm công và Pháp luật về Mua sắm
công.
- Chương 2: Pháp luật hiện hành về Mua sắm công ở Việt nam và thực tiễn
thực hiện.


- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm tiếp tục xây dựng pháp luật về Mua sắm
công ở Việt Nam.


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương 1:

Một số vấn đề chung về mua sắm công
và Pháp luật về mua sắm công

1

1.

Mua sắm công

1

1.1

Khái niệm mua sắm công


1

1.2

Đặc điểm của mua sắm công

3

2.

Pháp luật về mua sắm công

8

2.1

Khái niệm và đối tượng điều chỉnh của pháp luật
về mua sắm công

2.2

Mối quan hệ giữa pháp luật về mua sắm công với các
chế định pháp luật khác
11

3.

Vai trị của pháp luật về mua sắm cơng
13


3.1

Pháp luật về mua sắm cơng đảm bảo tối đa hố
tính hiệu quả và kinh tế trong mua sắm công
13

3.2

Pháp luật về mua sắm công đảm bảo thực hiện các mục tiêu
chính trị-xã hội của Nhà nước trong mua sắm cơng
17

4.

Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật về
mua sắm công ở Việt Nam
19

Chương 2:

Pháp luật hiện hành về mua sắm công ở Việt Nam
và thực tiễn áp dụng
22

8


1.


Tổng quan về hệ thống văn bản pháp luật hiện hành
về mua sắm cơng
22

2.

Hình thức và quy trình thực hiện mua sắm cơng
25

2.1

Hình thức thực hiện mua sắm cơng
25

2.2

Quy trình thực hiện mua sắm công
26

2.2.1 Chuẩn bị đấu thầu
26
2.2.2 Thực hiện đấu thầu
34
3.

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động mua sắm công
45

3.1


Nguồn vốn thực hiện trong mua sắm công
45

3.2

Phân cấp quản lý trong mua sắm công
47

3.3

Các quy định đối với cán bộ thực hiện mua sắm công
49

3.4

Quản lý thông tin trong mua sắm công
50

3.5

Hoạt động kiểm tra, thanh tra,
giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động mua sắm công
52

4.

Thực tiễn tổ chức thực hiện mua sắm công
trong thời gian qua
55


4.1

Những kết quả đạt được trong hoạt động mua sắm công
55

4.2

Một số tồn tại cần khắc phục trong mua sắm công
60

Chương 3

Một số kiến nghị nhằm tiếp tục xây dựng pháp luật


về mua sắm công ở Việt Nam
64
1.

Các cơ sở để tiếp tục xây dựng pháp luật
về mua sắm công ở Việt nam
64

1.1

Nguyên nhân những hạn chế, bất cập hiện tại trong pháp luật
về mua sắm công
64

1.2


Đáp ứng các mục tiêu của mua sắm công trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường Việt nam định hướng XHCN
65

1.3

Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua,
đồng thời phù hợp với chiến lựơc phát triển chung của pháp luật VN
69

1.4

Hài hồ với pháp luật về mua sắm cơng của các nước
cũng như các quy định về mua sắm công của các
tổ chức quốc tế
70

2.

Tham khảo pháp luật về mua sắm công của một số nước
trên thế giới và khả năng vận dụng ở Việt Nam
71

2.1

Pháp luật về mua sắm công ở Ba Lan
72

2.2


Pháp luật về mua sắm công ở Trung Quốc
76

3.

Một số kiến nghị nhằm tiếp tục xây dựng pháp luật
về mua sắm công ở Việt Nam
81

3.1

Bãi bỏ những quy định chồng chéo, mâu thuẫn hiện có
trong pháp luật về mua sắm cơng, bổ sung những quy định
cịn thiếu, tiến tới xây dựng một đạo luật riêng biệt
về mua sắm công.
81


3.2

Tiếp tục xây dựng các quy định về hình thức
và quy trình đấu thầu.

85
3.2.1 Đối với các quy định về các hình thức đấu thầu
kém tính cạnh tranh
85
3.2.2 Các quy định liên quan đến giá trần, giá sàn
87

3.2.3 Xây dựng Hồ sơ mời thầu mẫu
90
3.3

Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và tăng cường công tác
kiểm tra thực hiện các hợp đồng mua sắm cơng.
91

3.3.1 Hồn thiện pháp luật về hợp đồng.
91
3.3.2 Bổ sung quy định về cơ chế kiểm tra giám sát
thực hiện hợp đồng.
93
3.4

Thực hiện cải cách về mặt tổ chức quản lý trong việc thực hiện
mua sắm cơng mà mục tiêu chính là thành lập một
Cơ quan quản lý mua sắm công độc lập cấp quốc gia
95

3.5

Xây dựng hệ thống đào tạo các chuyên gia thực hiện
mua sắm công là biện pháp cần thực hiện
song song với vấn đề cải cách tổ chức quản lý
98

Kết luận
Phụ lục 1:


Các văn bản pháp luật có liên quan đến mua sắm công ở Việt
Nam

Phụ lục 2:

Những nội dung của Quy chế đấu thầu được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định 66/2003/NĐ-CP so với các nội dung của Quy chế
đấu thầu theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP và 14/2000/NĐ-CP

Danh mục tài liệu tham khảo


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ MUA SẮM CÔNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA SẮM CƠNG
1.

Mua sắm cơng

1.1

Khái niệm mua sắm cơng
Để thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước cần đến rất nhiều các trang

thiết bị, nguyên vật liệu, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác. Đặc biệt, để thực hiện
chức năng kinh tế cũng như chức năng xã hội, Nhà nước cần phải đầu tư để xây
dựng các cơ sở hạ tầng, các cơ sở kinh tế Nhà nước, các cơng trình văn hố xã hội.
Hoạt động sử dụng ngân quỹ Nhà nước để mua sắm hàng hoá, thuê dịch vụ nhằm
thực hiện các chức năng của Nhà nước hoặc phục vụ nhu cầu của xã hội hoặc một bộ
phận lớn dân cư được gọi là “Mua sắm công”1.

Hoạt động mua sắm công giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Ở Việt
Nam, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư2, tổng giá trị hàng hố và dịch vụ
mua sắm cơng thơng qua đấu thầu trong các năm 2000, 2001, 2002 lần lượt là 3.190;
4.559; và 5.320 triệu USD. Theo thống kê của OECD (Tổ chức Hợp tác kinh tế và
Phát triển), trong thời gian từ 1998-2000, tỷ trọng mua sắm công ở các nước OECD
hàng năm chiếm 19,96% GDP tương đương 4733 tỷ Đơ la Mỹ, ở các nước nằm
ngồi OECD là 14,48% GDP tương đương 816 tỷ Đô la Mỹ. Trong năm 2001, trên
phạm vi toàn cầu, khối lượng hàng hố và dịch vụ trong khu vực mua sắm cơng
chiếm 82,3% tổng lượng hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu3.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, mua sắm công xuất hiện từ những thế kỷ trước,
là hoạt động mua sắm hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho Nhà vua. Vào thế kỷ thứ 17,
ở Vương Quốc Anh, Samuel Papys đã được Hoàng gia Anh chỉ định để xem xét lý
do những con tầu và các hàng hoá dịch vụ khác cung cấp cho Hải Quân Anh với chất
lượng kém và giá cả cao.4

Khái niệm này được dịch từ tiếng Anh “Public Procurement”, cũng có nhiều quốc gia, thuật ngữ này được dùng là “government procurement” (có
nghĩa là “Mua sắm chính phủ”)
2
[7]
3
[63]
4
[64]
1


Ở Việt Nam, vấn đề quản lý mua sắm công đã thực sự được đặt ra từ sau Cách
mạng tháng Tám, mà bắt đầu từ những chỉ đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được thể
hiện trong các Sắc lệnh giai đoạn 1945-1946, trong đó Hồ Chủ Tịch đã lưu ý các cơ
quan Chính phủ khi mua sắm tài sản, đồ vật phải hết sức tiết kiệm, và phải lựa chọn

những vật phẩm từ nguồn cung cấp thích hợp nhất, để khơng lãng phí tài sản của
nhân dân.
Định nghĩa về “Mua sắm cơng” (hay “Mua sắm chính phủ”) thường được quy
định ngay tại những điều đầu tiên của Luật Mua sắm cơng ở các nước. Ví dụ: Điều
1, Luật mua sắm chính phủ của Trung Quốc quy định: “"Mua sắm chính phủ" quy
định trong luật này là việc mua sắm hàng hoá, dịch vụ, dự án được quy định trong
danh mục mua sắm tập trung được tập hợp theo quy định của luật hoặc nằm trên
mức chỉ tiêu, được thực hiện bởi tất cả các tổ chức nhà nước ở các cấp chính quyền,
bởi các cơ quan, tổ chức mà việc mua sắm được thực hiện từ quỹ bảo hiểm của nhà
nước”
Thoả thuận chung về mua sắm chính phủ của Tổ chức thương mại Thế giới
WTO tại Điều 1 cũng quy định: Mua sắm chính phủ là hoạt động mua sắm được tiến
hành bởi các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và Địa phương.
Pháp luật Việt nam chưa có định nghĩa về mua sắm cơng. Qua tìm hiểu pháp
luật của các nước trên thế giới, và các quy định của pháp luật Việt nam về mua sắm
công, căn cứ vào nguồn vốn thực hiện mua sắm và chủ thể thực hiện mua sắm,
trong luận văn này xin được mạnh dạn đưa ra khái niệm về Mua sắm công như sau:
“Mua sắm công là hoạt động của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, lực lượng
vũ trang và doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn nhà nước để mua sắm hàng hoá,
thuê dịch vụ hoặc thực hiện các dự án đầu tư để phục vụ việc thực hiện các chức
năng của nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao”

1.2

Đặc điểm của mua sắm công
Qua nghiên cứu, chúng ta thấy Mua sắm cơng có 4 đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nguồn vốn để thực hiện Mua sắm công là vốn nhà nước. Nguồn

vốn nhà nước trước hết được hiểu là từ ngân sách nhà nước. Theo Luật Ngân sách



Nhà nước và Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ thì Ngân sách
Nhà nước được hình thành từ các nguồn thu bao gồm thuế, phí, lệ phí; các khoản thu
từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh
tế, tiền cho vay của nhà nước, thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh
tế; phần nộp ngân sách từ các hoạt động sự nghiệp; thu tiền sử dụng đất, cho thuê
đất, thuê mặt nước; và các khoản đóng góp khác của các tổ chức và cá nhân theo quy
định của pháp luật, các khoản viện trợ khơng hồn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ
chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt nam và các khoản thu khác
theo quy định của pháp luật. Theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, vốn thuộc
các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho
đầu tư phát triển (kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA) cũng được quản lý
như vốn Ngân sách nhà nước.
Bên cạnh nguồn vốn Ngân sách nhà nước, Mua sắm cơng cịn được thực hiện
từ nguồn vốn “có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước”. Theo Quy chế Quản lý Đầu tư
và xây dựng, trước hết, có thể hiểu vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước dùng
trong Mua sắm cơng là vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của Doanh nghiệp nhà nước. Điều đáng
chú ý là, ở Việt Nam, và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, ví dụ Trung Quốc, hiện
tồn tại một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước nắm giữ vị trí then chốt
trong nền kinh tế, vốn ở các doanh nghiệp này do Nhà nước đầu tư và doanh nghiệp
có nghĩa vụ bảo quản và phát triển. Vì vậy, vốn của doanh nghiệp Nhà nước ở đây
cũng được hiểu là vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, và vì vậy, việc sử dụng
vốn của Doanh nghiệp Nhà nước để thực hiện mua sắm cũng phải được quản lý theo
các quy định về Mua sắm công.
Đặc điểm thứ hai của Mua sắm công là Chủ thể thực hiện mua sắm công. Vì
mua sắm cơng được thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc vốn có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước nên chủ thể thực hiện mua sắm công trước hết là các đơn
vị sử dụng ngân sách, đó là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, doanh
nghiệp nhà nước và các tổ chức khác được phân bổ ngân sách theo quy định của luật

Ngân sách. Cũng giống như nhiều nước khác, chủ thể chủ yếu thực hiện mua sắm


công ở Việt Nam là các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, cịn xuất hiện thêm 2 loại
chủ thể là các tổ chức chính trị xã hội và các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước. Ở Việt nam, các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các ngành
kinh tế then chốt, ví dụ: dầu khí, điện, giao thơng, bưu chính viễn thơng, hàng
khơng, hàng năm các doanh nghiệp này thực hiện mua sắm công để đầu tư xây dựng
cơ bản, nên giá trị mua sắm công thực hiện bởi các doanh nghiệp này là rất lớn 5.
Những chủ thể này sau đây được gọi chung là “cơ quan nhà nước”
Các cơ quan Nhà nước tham gia vào q trình mua sắm cơng với nhiều cấp
khác nhau, tức là trong quan hệ mua sắm công, bên mua có thể khơng chỉ là một cấp,
một cơ quan mà là nhiều cấp, nhiều cơ quan khác nhau. Đặc điểm này xuất phát từ
đặc điểm nguồn vốn dùng trong mua sắm công thuộc sở hữu nhà nước, mà thực hiện
quyền sở hữu đó khơng phải là một cơ quan Nhà nước, mà là bộ máy nhà nước, bao
gồm các cơ quan nhà nước ở các cấp khác nhau. Mức độ và thẩm quyền tham gia
của các cơ quan nhà nước vào quá trình mua sắm như thế nào sẽ do pháp luật quy
định, sao cho đảm bảo được hiệu quả của việc mua sắm.
Đặc điểm thứ ba của Mua sắm công liên quan đến Đối tượng mua sắm. Đối
tượng của mua sắm cơng là hàng hố, dịch vụ để thực hiện các chức năng của Nhà
nước hoặc thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao. Vì vậy, đối tượng của mua sắm cơng
là rất đa dạng, có giá trị lớn nhỏ khác nhau, có thể từ vật dụng tiêu dùng hàng ngày
của các cơ quan nhà nước như giấy, mực, bàn ghế, máy tính, trang thiết bị văn
phịng ... đến các cơng trình trọng điểm quốc gia như nhà máy điện, cầu đường, sân
bay bến cảng, và bao gồm cả vũ khí khí tài sử dụng trong quân đội. Theo các quy
định và phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam hiện hành về mua sắm cơng, có
thể chia đối tượng mua sắm công ra làm 2 loại: (i) một là, hàng hoá, dịch vụ, lựa
chọn đối tác liên quan đến dự án đầu tư; và (ii) hai là, đồ dùng, vật tư, trang thiết bị,
phương tiện làm việc của các cơ quan nhà nước. Hiện tại, hoạt động mua sắm phục
vụ an ninh quốc gia, mặc dù có giá trị lớn nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh

của các quy định về mua sắm cơng.

Ví dụ: Mua sắm thông qua đấu thầu thực hiện trong năm 2002 của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam là 5.268 tỷ đồng; của Bộ Giao thông vận tải là
7750 tỷ đồng; của Cục Hàng Không dân dụng Việt Nam là 199,3 tỷ đồng (Nguồn: Bộ Kếhoạch và Đầu tư) .
5


Đặc điểm thứ tư của Mua sắm công là Mua sắm cơng nhằm mục đích thực
hiện các chức năng của Nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao. Mua
sắm công không chỉ dừng lại ở việc duy trì hoạt động bình thường của các cơ quan
nhà nước, mà trong xã hội hiện đại, khi mà chức năng kinh tế, chức năng xã hội của
Nhà nước được coi trọng, thì hoạt động mua sắm cơng cũng giành một tỷ trọng đáng
kể cho các cơng trình phúc lợi xã hội, các cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội. Bên hưởng
lợi của các dự án này chính là cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam, để thực hiện chức
năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố của đất nước, trong những năm qua, hoạt động mua sắm của Nhà nước ta
giành phần chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội. Quá
trình đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng như nhà máy điện, đường giao thông, sân
bay, cầu, cảng, các cơ sở văn hoá, xã hội như trường học, bệnh viện, sân vận động,
làng văn hoá... trong những năm qua đều được thực hiện từ việc Mua sắm công.
Gắn liền với khái niệm mua sắm công là khái niệm q trình mua sắm cơng.
Q trình mua sắm cơng khơng chỉ đơn thuần là việc trả tiền và nhận hàng hố dịch
vụ mà q trình mua sắm ở đây bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, thường bắt đầu
từ việc lập kế hoạch mua sắm; quá trình lựa chọn nhà cung cấp mà thơng thường là
q trình đấu thầu, bao gồm quảng cáo phát hành hồ sơ mời thầu, mở thầu, đánh giá
thầu, thương thảo hợp đồng và công bố kết quả trúng thầu; sau đó là việc giám sát
quản lý thực hiện hợp đồng, tiếp nhận hàng hoá dịch vụ, lưu kho, lưu bãi và đưa vào
sử dụng, liên quan đến cả việc quản lý các nhà cung cấp. Như vậy, mua sắm cơng là
cả một q trình, hiệu quả mua sắm công sẽ phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả quản lý
tất cả các giai đoạn của quá trình đó.

Từ việc phân tích các đặc điểm nêu trên của mua sắm cơng, có thể thấy sự
khác nhau căn bản giữa mua sắm công và mua sắm ở khu vực tư nhân 6. Sự khác
nhau này xuất phát từ sự khác nhau về nguồn vốn dùng trong mua sắm: vốn dùng
trong mua sắm công thuộc sở hữu nhà nước và vốn dùng trong mua sắm ở khu vực
tư nhân thuộc sở hữu tư nhân - thuộc sở hữu của bản thân những người mua sắm. Từ

Mua sắm ở khu vuc tư nhân ở đây muốn nói đến việc mua sắm khơng sử dụng vốn nhà nước, ví dụ: mua sắm của doanh nghiệp tư nhân, công ty
cổ phần...
6


sự khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về chủ thể tham gia vào quá trình mua
sắm. Trong mua sắm ở khu vực tư nhân, thông thường, người nào sở hữu vốn, người
đó sẽ trực tiếp tham gia vào q trình mua sắm và có quyền quyết định mua sắm.
Trong mua sắm công, Nhà nước là chủ sở hữu vốn cịn các chủ thể thực hiện mua
sắm khơng phải là chủ sở hữu vốn dùng trong mua sắm. Những chủ thể này được
Nhà nước giao quyền, có thể là quyền tổ chức mua sắm, có thể là quyền quyết định
kết quả mua sắm. Thơng thường, có nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình
mua sắm. Kết quả mua sắm được trình duyệt qua nhiều cấp khác nhau. Vì vậy mà
trong pháp luật về mua sắm cơng, xuất hiện nhóm các quy định về thẩm quyền của
các cấp tham gia vào quá trình mua sắm. Trong Quy chế đấu thầu của Việt nam,
chúng ta tìm thấy các khái niệm “Người có thẩm quyền” và “Cấp có thẩm quyền”
Sự khác nhau về chủ thể cũng làm xuất hiện một mối quan hệ đặc biệt mà
pháp luật về mua sắm cơng cần phải hết sức chú trọng: đó là quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước với tư cách là bên mua và các nhà cung cấp, thông thường từ khu
vực kinh tế tư nhân. Quan hệ này không tồn tại trong trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung trước đây, bởi vì trong cơ chế kinh tế đó, nhà nước thực hiện cơ chế tự
cung tự cấp, nhà cung cấp chỉ là các cơ sở kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị
trường, với sự thừa nhận sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế, thì quan
hệ giữa cơ quan nhà nước với tư cách là bên mua và các nhà cung cấp từ mọi thành

phần kinh tế lại trở thành quan hệ hết sức cơ bản trong mua sắm cơng. Vì sự tồn tại
quan hệ này mà xuất hiện yêu cầu đảm bảo sự cơng bằng và bình đẳng trong quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước với từng nhà cung cấp và giữa cơ quan nhà nước với các
nhà cung cấp.
Cũng từ sự khác nhau về sở hữu, mà thủ tục mua sắm trong mua sắm công và
mua sắm tư nhân cũng khác nhau. Mua sắm công phải tuân theo những quy trình
luật định, bởi vì để quản lý quá trình mua sắm, nhà nước thường đặt ra thủ tục mà
buộc những người tham gia vào quá trình mua sắm phải triệt để tuân theo. Trong khi
đó, mua sắm tư nhân lại ít quan tâm đến vấn đề thủ tục, mà chỉ chú trọng vào vấn đề
hiệu quả, sao cho mua được hàng hoá rẻ mà chất lượng lại tốt. Vì rằng, trong mua
sắm tư nhân, kết quả thường dễ định lượng hơn, ví dụ là, chúng ta có thể dễ dàng


đánh giá được ảnh hưởng của việc mua sắm đó đối với kết quả kinh doanh của công
ty. Nhưng, mua sắm cơng khơng chỉ nhằm đảm bảo tính hiệu quả kinh tế - là hiệu
quả dễ dàng định lượng được, mua sắm cơng cịn phải đảm bảo các mục tiêu khác,
như đảm bảo tính cơng bằng, bình đẳng – là những hiệu quả khó định lượng. Do đó,
mua sắm cơng buộc phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ do luật định.
Một điểm khác nhau nữa giữa mua sắm công và mua sắm trong khu vực tư
nhân là mua sắm công không chỉ nhằm đạt được mục tiêu về kinh tế, mà còn nhằm
đạt được những mục tiêu cuối cùng về chính trị. Bất cứ sai lầm nào của các cơ quan
nhà nước trong mua sắm công cũng không chỉ làm thiệt hại về kinh tế, mà cịn có
ảnh hưởng xấu về chính trị, gây suy giảm lịng tin của quần chúng nhân dân - những
người nộp thuế để tạo nên nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Các mục tiêu
chính trị khác mà mua sắm cơng cũng hướng tới là ưu tiên nội địa, thúc đẩy sản xuất
trong nước, vì lợi ích của người nghèo, người tàn tật trong xã hội.


2.


Pháp luật về mua sắm công

2.1

Khái niệm và đối tượng điều chỉnh của pháp luật về mua sắm công
Quy phạm pháp luật ra đời là để điều chỉnh quan hệ xã hội. Mua sắm công là

một trong những hoạt động chi tiêu của nhà nước, vì vậy, khi xuất hiện hoạt động
mua sắm cơng thì cũng xuất hiện các quy định điều chỉnh hoạt động mua sắm cơng.
Do đó, pháp luật về mua sắm công bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực mua sắm công, chủ yếu bao là những
nhóm quan hệ sau đây:
Nhóm quan hệ thứ nhất là nhóm quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau
phát sinh trong q trình mua sắm cơng. Như trên đã đề cập, khơng chỉ có một cơ
quan nhà nước mà có nhiều cơ quan nhà nước ở các cấp khác nhau liên quan đến q
trình mua sắm cơng. Thơng thường sẽ có các cấp sau đây tham gia vào q trình
mua sắm cơng: cơ quan thực hiện mua sắm (cơ quan này sẽ làm nhiệm vụ lập kế
hoạch mua sắm, tổ chức lựa chọn nhà cung cấp và tổ chức thực hiện hợp đồng); cơ
quan thẩm định các kết quả của từng giai đoạn mua sắm (ví dụ: thẩm định kế hoạch
mua sắm, thẩm định kết quả mua sắm và thẩm định hợp đồng...) và cơ quan phê
duyệt các kết quả của từng giai đoạn trong quá trình mua sắm (phê duyệt kế hoặc
mua sắm, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà cung cấp, phê duyệt hợp đồng). Pháp luật
về mua sắm công khi điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể này sẽ đặt ra những quy
định về trình tự thực hiện, trình tự báo cáo, trình tự phê duyệt.
Bên cạnh đó, do mua sắm cơng là một trong những hoạt động chi tiêu của nhà
nước, được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, do đó bao giờ cũng chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhà nước. Ở đây xuất hiện mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện và
cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Điều chỉnh quan hệ này,
pháp luật đặt ra những quy định về chế độ thanh tra, kiểm tra hoạt động mua sắm
công, quyền và nghĩa vụ của các bên trong q trình thanh tra, kiểm tra.

Nhóm quan hệ thứ nhất này chủ yếu mang tính chất chấp hành - điều hành
trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước. Do đó, phương pháp điều chỉnh của
pháp luật đối với nhóm quan hệ này mang tính chất quyền uy, tức là cơ quan cấp trên
có quyền ra các quyết định mà các cơ quan cấp dưới phải tn theo. Ví dụ: q trình


lập dự toán ngân sách dành cho mua sắm thuộc về cơ quan lập dự tốn ngân sách,
nhưng có phê duyệt phân bổ ngân sách cho hạng mục mua sắm đó khơng lại thuộc
về các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ngân sách; hoặc thực hiện việc lựa chọn
nhà cung cấp được giao cho tổ chuyên gia xét thầu nhưng phê duyệt kết quả xét thầu
lại thuộc về cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Nhóm quan hệ thứ hai phát sinh trong lĩnh vực mua sắm cơng là nhóm quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước với tư cách là bên mua và với các nhà cung cấp với
tư cách là bên bán trong một giao dịch kinh tế. Do đó, về bản chất, nhóm quan hệ
này chủ yếu mang tính chất của quan hệ hợp đồng. Điều chỉnh nhóm quan hệ này,
pháp luật sử dụng phương pháp bình đẳng. Nhóm quan hệ này phát sinh khi bên mời
thầu đưa ra các yêu cầu và các nhà thầu nộp hồ sơ thể hiện sự đáp ứng các yêu cầu
đó; và nếu ký được hợp đồng thì sẽ là quan hệ phát sinh giữa người mua và người
cung cấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ
của các bên phát sinh trong quá trình này, sao cho thể hiện được tính chất bình đẳng,
tránh được sự lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan nhà nước. Quan hệ này cịn
phát sinh khi nhà cung cấp có những khiếu kiện đối với bên mua nếu không thoả
mãn với các quyết định của bên mua. Vì vậy, pháp luật quy định quyền được khiếu
kiện và trình tự khiếu kiện, đồng thời quy định trách nhiệm phúc đáp khiếu kiện của
bên bán.
Ngồi ra, cịn một nhóm quan hệ khác cũng phát sinh trong q trình mua sắm
đó là quan hệ giữa các nhà cung cấp với nhau. Nhóm quan hệ thứ ba này xuất phát
từ đặc trưng của mua sắm công là mua sắm công đưa ra một cơ hội kinh doanh mà
các nhà cung cấp có cơ hội tiếp cận như nhau. Vì vậy, một mặt, các nhà cung cấp
cần được đối xử công bằng như nhau, được quyền liên danh, liên kết để tham dự

thầu. Mặt khác, các nhà cung cấp khơng được có những hành vi thơng đồng, mắc
ngoặc, tạo nên độc quyền, làm giảm tính cạnh tranh trong q trình mua sắm. Pháp
luật về mua sắm cơng cũng bao gồm những quy phạm để điều chỉnh nhóm quan hệ
này. Để điều chỉnh quan hệ này, pháp luật mua sắm cơng vừa dùng phương pháp
bình đẳng để tạo nên sự đối xử công bằng với các nhà cung cấp, vừa dùng phương
pháp mệnh lệnh để đưa ra các hành vi mà các nhà cung cấp cấm không được thực


hiện, đồng thời đưa ra các chế tài mà nếu các nhà cung cấp vi phạm thì sẽ bị áp
dụng.
Để điều chỉnh ba nhóm quan hệ nêu trên, pháp luật về mua sắm cơng bao gồm
các nhóm quy định sau đây:
(i) Nhóm quy phạm thứ nhất: Quy định về quản lý nhà nước trong quá trình
thực hiện mua sắm, bao gồm các quy định về nguồn vốn để thực hiện mua sắm, phân
cấp quản lý mua sắm, kiểm tra thanh tra, giải quyết khiếu nại, quản lý thông tin
trong quá trình mua sắm. Nhóm quy phạm này chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa
các cơ quan Nhà nước với nhau.
(ii) Nhóm quy phạm thứ hai: Quy định về hình thức và quy trình thực hiện
mua sắm. Các quy định này chủ yếu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước với các nhà cung cấp và giữa các nhà cung cấp với nhau trong quá trình
mua sắm. Có nhiều người ví việc mua sắm cơng như một “sân chơi” thì những quy
định này chính là “luật chơi” cho quá trình mua sắm. Trong hệ thống pháp luật Việt
nam, luật chơi này chính là “Quy chế đấu thầu”. Ở hầu hết các nước, Quy chế đấu
thầu được coi là những quy định cốt lõi và chủ yếu của pháp luật về Mua sắm cơng.
Nói đến vấn đề hồn thiện pháp luật về mua sắm cơng, người ta nghĩ ngay đến vấn
đề hồn thiện trình tự, thủ tục đấu thầu.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khái quát rằng, pháp luật về Mua
sắm công là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh, phát triển trong quá trình Mua sắm cơng, tức là q trình các cơ quan
nhà nước sử dụng vốn nhà nước mua sắm hàng hoá, dịch vụ để thực hiện các chức

năng của nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao.


2.2

Mối quan hệ giữa pháp luật về mua sắm công với các chế định pháp luật

khác
Pháp luật về mua sắm cơng có mối quan hệ chặt chẽ với các chế định pháp
luật khác trong hệ thống pháp luật quốc gia. Trước hết, trong mối quan hệ với Luật
Ngân sách Nhà nước, như trên đã nói, mua sắm cơng chiếm một tỷ trọng rất lớn
trong các khoản chi ngân sách, nên pháp luật về mua sắm công gắn liền với luật
ngân sách nhà nước. Pháp luật về mua sắm công đảm bảo cho hoạt động mua sắm
cơng được thực hiện có hiệu quả, từ đó mà đảm bảo cho hiệu quả của chi ngân sách
nhà nước. Đối với những hoạt động mua sắm công sử dụng vốn ngân sách, việc lập
kế hoạch mua sắm công sẽ phải tuân theo các quy định của việc lập dự toán ngân
sách. Áp dụng các quy định về đấu thầu là một trong những điều kiện của chi ngân
sách nhà nước đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu (Điều 5
Luật Ngân sách nhà nước).
Các quy định về mua sắm công cịn có mối quan hệ chặt chẽ với chế định
pháp luật về cán bộ cơng chức. Có thể tìm thấy mối quan hệ giữa pháp luật về mua
sắm công với Pháp lệnh cán bộ công chức, Pháp lệnh về thực hành tiết kiệm và
chống lãng phí và Pháp lệnh chống tham nhũng.
Pháp lệnh về cán bộ công chức quy định những phẩm chất của công chức nhà
nước như phải trung thực, siêng năng, tiết kiệm, giữ gìn và bảo vệ của cơng, bảo vệ
sự an tồn và lợi ích quốc gia. Pháp lệnh đưa ra những quyền lợi và nhiệm vụ của
cơng chức nhà nước, trong đó có những hoạt động mà cơng chức khơng được làm có
liên quan đến hoạt động mua sắm cơng, ví dụ: cơng chức nhà nước khơng được làm
tư vấn về các cơng việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật cơng tác và những
việc thuộc thẩm quyền của mình và các cơng việc khác mà việc tư vấn đó có khả

năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia.
Pháp lệnh về thực hành tiết kiệm và chống lãng phí yêu cầu công chức nhà
nước phải tuân thủ các thủ tục để đảm bảo tính kinh tế và hiệu quả trong việc sử
dụng nguồn vốn, trong đó quy định việc mua sắm trang thiết bị, tài sản, trang bị cho
các tổ chức phải thông qua đấu thầu (Điều 10). Trong đầu tư xây dựng cơ bản, pháp


lệnh cũng quy định việc đấu thầu xây dựng công trình phải thơng qua đấu thầu (Điều
23). Pháp lệnh quy định vốn và tài sản nhà nước bao gồm vốn, kinh phí ngân sách
nhà nước cấp, vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, tài sản hình thành từ nguồn
vốn của ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước, các khoản viện trợ nước ngồi,
nguồn lực đóng góp của nhân dân, đất đai nhà cửa, các cơng trình kiến trục khác
thuộc sở hữu nhà nước, tài nguyên thiên nhiên, các khoản tài trợ của các cá nhân
trong nước và nước ngoài. Pháp lệnh cũng đưa ra những chế tài đối với cơng chức
gây lãng phí nguồn lực cơng.
Pháp lệnh về chống tham nhũng quy định về một loạt hành vi tham nhũng mà
những người có chức vụ quyền hạn khơng được làm, trong đó hối lộ và lạm dụng
chức quyền là phổ biến nhất, như: nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến cơng việc mà mình giải quyết, tiết lộ thông tin
kinh tế và các thông tin khác chưa được phép công bố. Pháp lệnh cũng quy định về
chế tài được áp dụng đối với hành vi tham nhũng, đặc biệt là những hành vi cấu
thành tội phạm tham nhũng.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật về mua sắm cơng có mối liên hệ mật thiết
với pháp luật về cán bộ, công chức. Pháp luật về cán bộ, công chức trợ giúp cho hoạt
động mua sắm cơng được thực hiện có hiệu quả và cơ chế mua sắm công hiệu quả
lại làm cho pháp luật về cán bộ công chức được thực thi.
Pháp luật về mua sắm cơng cũng có quan hệ chặt chẽ với pháp luật về hợp
đồng. Như trên đã phân tích, mua sắm công là quan hệ giữa bên mua là cơ quan nhà
nước với bên bán là các nhà cung cấp, nên thực tế đây là một quan hệ hợp đồng.
Quan hệ hợp đồng ở đây có thể là hợp đồng mua bán hàng hố thơng thường, cũng

có thể là hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng xây lắp và có cả loại hợp đồng phức
tạp hơn là Hợp đồng “chìa khố trao tay” EPC (Thiết kế - Mua sắm - Xây dựng); và
có thể là Hợp đồng BOT (Xây dựng – kinh doanh - chuyển giao) trong trường hợp
đấu thầu dự án (Ví dụ đấu thầu dự án BOT Nhà máy điện Phú Mỹ 2-2). Hợp đồng
chính là một công cụ pháp lý chủ yếu và quan trọng để quản lý chất lượng của việc
mua sắm. Chế định pháp luật về mua sắm cơng địi hỏi sự phát triển của chế định


pháp lý về hợp đồng, sao cho có được các quy phạm đầy đủ và thống nhất để điều
chỉnh quan hệ hợp đồng.
Bên cạnh các mối quan hệ như trên, chúng ta cũng cịn có thể thấy mối quan
hệ của pháp luật về mua sắm công đối với chế định pháp luật về tố tụng hành chính.
Có thể thấy rằng thường xuyên xảy ra các khiếu kiện, khiếu nại trong đấu thầu. Việc
giải quyết các khiếu kiện khiếu nại này phải được đặt trong thủ tục được quy định
trong Pháp lệnh khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính, Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, với đặc thù liên quan chặt chẽ đến lợi
ích kinh tế của các nhà thầu nên cơ chế này phải được phát triển sao cho vừa hiệu
quả, vừa nhanh chóng, đảm bảo được lợi ích của cả hai bên, nhưng đồng thời lại tạo
ra được một cơ chế thuận lợi cho các nhà thầu trong việc khiếu nại, khiếu kiện bởi vì
khiếu nại, khiếu kiện của các nhà thầu cũng là “một kênh” để kiểm tra, giám sát hoạt
động mua sắm công (thông thường, các nhà thầu rất e ngại trong việc khiếu nại,
khiếu kiện vì lo sợ sẽ bị ảnh hưởng đến khả năng tham gia trong những cuộc đấu
thầu lần sau)
Tóm lại, trong hệ thống pháp luật quốc gia, pháp luật về mua sắm công có mối
quan hệ mật thiết với các chế định pháp luật khác, trong đó, nó vừa địi hỏi sự phát
triển đồng bộ của các chế định pháp luật khác, và ngược lại, khi phát triển, nó lại là
một cơ chế đảm bảo thực thi các chế định pháp luật khác.

3.


Vai trị của pháp luật về mua sắm cơng

3.1

Pháp luật về mua sắm cơng đảm bảo tối đa hố tính kinh tế và hiệu quả

của q trình mua sắm.
Tính kinh tế, hiệu quả trong mua sắm công thể hiện ở hai khía cạnh sau:
(i) Tính hiệu quả trong phạm vi hẹp được xét trong phạm vi từng lần mua
sắm, từng gói thầu, từng dự án;
(ii) Tính hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế trong việc thúc đẩy sự
tham gia của các nhà cung cấp, thúc đẩy cạnh tranh.
Ở khía cạnh thứ nhất, trong phạm vi hẹp của từng lần mua sắm, từng gói thầu,
từng dự án, pháp luật về mua sắm cơng có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả của


việc mua sắm, có nghĩa là, các quy định về mua sắm công sẽ là cơ sở để những
người thực hiện mua sắm trả lời chính xác các câu hỏi: mua gì, vào thời điểm nào và
với giá bao nhiêu. Cụ thể, pháp luật về mua sắm công đặt ra các trình tự, thủ tục lập
kế hoạch mua sắm, các nguyên tắc phải tuân theo, để từ đó xác định chính xác nhu
cầu cần mua gì7. Pháp luật mua sắm cơng cũng đặt ra những trình tự, thủ tục hợp lý,
quy định rõ ràng về sự tham gia của các cơ quan vào quá trình mua sắm, khống chế
thời gian thực hiện đối với mỗi giai đoạn của quá trình mua sắm, để đảm bảo rằng
việc mua sắm sẽ được thực hiện kịp thời8. Pháp luật về mua sắm công cũng đảm bảo
cho việc mua sắm sẽ đạt được mức giá rẻ nhất bằng việc quy định đấu thầu rộng rãi
là hình thức bắt buộc trong mua sắm cơng, các hình thức khác chỉ là hãn hữu, ngoại
lệ.
Mua sắm hiệu quả còn thể hiện ở một yếu tố rất quan trọng khác, đó là mua
sắm được hàng hố dịch vụ đáp ứng yêu cầu với giá thấp nhất. Để có được giá thấp
nhất thì yếu tố quyết định là Hình thức mua sắm. Mua sắm có thể được thực hiện

qua nhiều hình thức khác nhau như: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định
thầu, mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh... Thực tế cho thấy, việc mua sắm
được thực hiện qua hình thức đấu thầu rộng rãi là yếu tố quyết định để cho phép mua
được hàng hố, dịch vụ với giá rẻ nhất9. Ở khía cạnh này, pháp luật về mua sắm
cơng có tác dụng quyết định đối với hiệu quả mua sắm, thể hiện ở việc pháp luật quy
định đấu thầu rộng rãi là hình thức bắt buộc trong hoạt động mua sắm, còn các hình
thức khác chỉ là ngoại lệ, hãn hữu. Pháp luật mua sắm cơng của nhiều quốc gia cũng
Dưới góc độ kinh tế học, tính hiệu quả trong q trình mua sắm biểu hiện ở việc mua sắm được hàng hoá/dịch vụ phù hợp, với giá rẻ nhất và đúng
thời điểm nhất, hay nói khác đi là việc mua sắm đáp ứng được chính xác các nhu cầu: mua gì, vào thời điểm nào, và với giá bao nhiêu. Để mua sắm
được hàng hoá/dịch vụ phù hợp, tức là trả lời tốt nhất câu hỏi mua gì, quá trình mua sắm công cần phải đáp ứng được 2 yêu cầu: Số lượng hàng
hoá, dịch vụ là bao nhiêu và với chất lượng như thế nào. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của việc lập kế hoạch mua sắm Kế hoạch mua
sắm là rất quan trọng, tránh được sự mua sắm những hàng hố khơng cần thiết, dẫn đến lãng phí thường xảy ra trong mua sắm cơng, khi mà những
người mua lại không phải là những người trả tiền. Khâu quan trọng để có thể lập được kế hoạch mua sắm tốt là việc quản lý vật tư, hàng hoá tồn
kho, đánh giá năng lực nhân sự hiện có. Sự lãng phí ở đây khơng chỉ thể hiện ở việc mua thừa về số lượng mà còn thể hiện ở việc mua thừa cả về
chất lượng, tức là mua hàng hoá, dịch vụ tốt hơn nhu cầu. Điều này cũng gây ra sự thất thốt khơng nhỏ cho nguồn vốn cơng. Để mua sắm được
hàng hố, dịch vụ với chất lượng phù hợp đòi hỏi chúng ta phải tính tốn được chính xác nhu cầu, sao cho phù hợp với điều kiện thực tế.
8
Mua sắm hiệu quả còn thể hiện ở yếu tố việc mua sắm được thực hiện vào thời điểm nào. Xét dưới góc độ kinh tế thì đấy chính là cơ hội kinh
doanh. Khơng cần bàn cãi, chúng ta cũng có thể hiểu được cơ hội kinh doanh có ý nghĩa như thế nào đối với khu vực kinh tế tư nhân. Đối với khu
vực kinh tế nhà nước cũng vậy. Mua sắm đúng thời điểm sẽ mang lại hiệu quả lớn, ngược lại sẽ gây ra thiệt hại rất đáng kể (Ví dụ: Dự án Đường
dây 500kV Phú Mỹ - Nhà Bè – Phú Lâm của ngành điện bị chậm tiến độ đã gây thiệt hại hàng chục triệu đơ la, ngun nhân chính là do chậm trễ
trong khâu mua sắm). Không chỉ dừng lại dưới góc độ kinh tế, dưới góc độ chính trị, việc mua sắm công thực hiện đúng thời điểm cũng có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng. Chúng ta hãy hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu sân vận động quốc gia Mỹ Đình hoặc hàng loạt các cơng trình thể thao quốc gia
khác khơng được hồn thành trước khi SEAGAME 22 diễn ra? Yếu tố đúng thời điểm cũng cần được nhấn mạnh trong hoạt động mua sắm cơng,
xuất phát từ đặc điểm có nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào q trình mua sắm cơng, thường có nhiều ý kiến khác nhau, gây nên sự chậm chễ
trong q trình mua sắm cơng.
9
Thống kê của ngành điện cho thấy, trong năm 2003, các hợp đồng được ký thơng qua hình thức đấu thầu rộng rãi đã tiết kiệm được hơn 700 tỷ
đồng so với dự tốn gói thầu, ngược lại, các hợp đồng được ký thông qua hình thức chỉ định thầu đã cao hơn so với dự tốn gói thầu khoảng 200 tỷ
đồng.

7


×