Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật về hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán ở việt nam 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Huyền Trang


LỜI CẢM ƠN

Những dòng đầu tiên trong Luận văn của mình tơi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến các thầy, cô giảng viên tại Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, là những người đã truyền thụ kiến thức cho tơi trong suốt khố học.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Lê Thị Thu Thuỷ, người
đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tơi hồn thành Luận văn. Đồng thời, tôi
cũng chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp những nguồn tư
liệu q giá, giúp tơi hồn thành Luận văn này.
Cuối cùng, xin cảm ơn người thân, bạn bè đã luôn bên cạnh động viên
và cổ vũ tơi trong q trình thực hiện Luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Học viên thực hiện

Trần Thị Huyền Trang



MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................ i
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU
TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM .....................................................................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm Quỹ đầu tƣ chứng khoán .......................................6
1.1.1. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán ..........................................................6
1.1.2. Đặc điểm Quỹ đầu tư chứng khốn ...........................................................8
1.2. Vai trị của Quỹ đầu tƣ chứng khoán .........................................................10
1.2.1. Đối với Nhà đầu tư ..................................................................................10
1.2.2. Đối với Doanh nghiệp..............................................................................13
1.2.3. Đối với thị trường chứng khoán ..............................................................13
1.2.4. Đối với nền kinh tế ..................................................................................14
1.3. Phân loại Quỹ đầu tƣ chứng khoán ............................................................15
1.3.1. Căn cứ theo mục đích đầu tư ...................................................................15
1.3.2. Căn cứ theo cơ cấu huy động vốn............................................................16
1.3.3. Căn cứ theo đối tượng đầu tư ..................................................................18
1.3.4. Căn cứ theo cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động quỹ.................23
1.3.5. Căn cứ theo vùng, lãnh thổ đầu tư ...........................................................24
1.3.6. Căn cứ theo quyền sở hữu .......................................................................27
1.4. Hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng khoán ...................................................27
1.4.1. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ...............................27
1.4.2. Các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ...........................................30
1.4.3. Những rủi ro tác động tới hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ........32
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU
TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM ...................................................................36
2.1. Chủ thể tham gia hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng khoán .....................36
2.1.1. Nhà đầu tư ................................................................................................36



2.1.2. Quỹ đầu tư chứng khốn ..........................................................................37
2.1.3. Cơng ty quản lý quỹ .................................................................................38
2.1.4. Các chuyên gia đầu tư hay các nhà tư vấn đầu tư ...................................41
2.1.5. Nhà bảo lãnh phát hành ...........................................................................41
2.2. Hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng khoán ...................................................42
2.2.1. Hoạt động huy động vốn..........................................................................42
2.2.2. Hoạt động đầu tư......................................................................................44
2.2.3. Hoạt động cung cấp thông tin cho Nhà đầu tư .............................................47
2.3. Vi phạm, chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của Quỹ đầu tƣ
chứng khoán ........................................................................................................47
2.3.1. Các hành vi vi phạm trong hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ......47
2.3.2. Chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán .....51
2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng khoán ....56
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................68
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM .....69
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng
khốn ....................................................................................................................69
3.2. Phƣơng hƣớng hồn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng
khốn ....................................................................................................................71
3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm hồn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ
đầu tƣ chứng khoán .............................................................................................78
3.3.1. Về hoạt động huy động vốn .....................................................................78
3.3.2. Về hoạt động đầu tư .................................................................................83
3.3.3. Về hoạt động cung cấp thông tin cho Nhà đầu tư ........................... 84
3.3.4. Các giải pháp khác ..................................................................................85
Kết luận chƣơng 3 .........ể cơ hội huy động
vốn mới. Q trình triển khai các sản phẩm mới khơng khả quan. Các quỹ đang
được hình thành đều có quy mô vốn ban đầu nhỏ và mức độ quan tâm của NĐT cá

nhân tới các sản phẩm quỹ là rất thấp. Tình hình thực tế khó khăn và nhiều áp lực
cũng là nguyên nhân chính dẫn đến các HVVP trong hoạt động của các QĐTCK.

67


Kết luận chƣơng 2

QĐTCK là một chủ thể đầu tư rất phổ biến ở các nước có TTCK phát triển.
Theo thống kê của Viện nghiên cứu công ty đầu tư của Mỹ (Investment Company
Institute–ICI), trên một nửa dân số Mỹ có tài khoản đầu tư vào CCQ các QĐT. Điều
đó cho thấy rằng QĐT là một công cụ đầu tư rất được ưa chuộng. Để đánh giá kết
quả hoạt động của QĐTCK; tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá là liệu quỹ đó
có đáp ứng được mục tiêu đầu tư của mình hay khơng. Mỗi NĐT khi đầu tư vào quỹ
đều có những mục tiêu đầu tư khác nhau , nhưng lý tưởng nhất là họ có thể nhận
đư ơ ̣c lơ ̣i nhuận càng cao càng tố t bằ ng việc nh ận cổ tức , hay giá tri ̣tài sản đầ u tư
gia tăng hay cả hai.
Mặc dù có trình độ phát triển khác nhau giữa các nước, QĐTCK đã và đang
trở thành một kênh huy động vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế. Việt Nam là
một nước đi sau với một TTCK mới được hình thành và cịn rất nhỏ bé. Tuy nhiên,
trong xu thế đón đầu và hội nhập, chúng ta có thể nhanh chóng học hỏi kinh nghiệm
các nước đi trước trên thế giới và khu vực, qua đó đẩy nhanh quá trình phát triển
của ngành QĐTCK nói riêng và TTCK nói chung.
Chương 2 của luận văn Thạc sỹ tập trung vào những luận điểm chính về thực
trạng pháp luật về hoạt động của QĐTCK; những ưu điểm & hạn chế, hành vi vi
phạm & chế tài xử lý trong pháp luật về hoạt động của QĐTCK ở Việt Nam.

68



Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng
khốn
Trên thế giới, QĐTCK có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
TTCK. QĐTCK thường chiếm 30-50% giá trị giao dịch thị trường, với tỷ lệ tương
ứng trong việc nắm giữ cổ phần của các công ty đại chúng và niêm yết. Điều này
hoàn toàn dễ hiểu bởi QĐTCK sẽ giúp làm tăng nhanh tính ổn định của thị trường,
góp phần tác động thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp... Trong khi đó, ở
TTCK Việt Nam, sau hơn 10 năm phát triển, số lượng QĐTCK vẫn còn khá khiêm
tốn và chưa thực sự hấp dẫn được các NĐT.
Năm 2012 là một năm chật vật, một năm gặp rất nhiều khó khăn đối với các
QĐTCK và CTQLQ ở Việt Nam: không huy động được bất kỳ quỹ mới nào, nhiều
công ty chưa có quỹ để quản lý, các cơng ty phải chịu lỗ lớn hoặc chỉ có mức lãi rất
khiêm tốn, một bộ phận không nhỏ công ty chấp nhận hoạt động cầm chừng với
mục đích duy trì giấy phép chờ đợi thị trường khởi sắc trở lại. Mặc dù vậy, các nhà
quản lý quỹ vẫn hi vọng những chuyển biến mới có thể vực dậy thị trường, đặc biệt
là lĩnh vực QĐTCK. Giai đoạn 2012-2015, sự phát triển của ngành QĐT sẽ phụ
thuộc rất lớn vào việc triển khai thành cơng quỹ mở và các quỹ hưu trí.
Năm 2013 các QĐTCK vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Các
CTQLQ phải đa dạng hóa các sản phẩm QĐT và các sản phẩm quản lý DMĐT như
quỹ mở, quỹ hưu trí, quỹ hốn đổi danh mục, quản lý tài sản cá nhân, các sản phẩm
đầu tư có mức độ rủi ro thấp. Các quỹ cũng phải tập trung hơn vào thị trường nội
địa, nơi vẫn còn nhiều tiềm năng để huy động quỹ, phát triển các sản phẩm mà các
công ty trước nay vẫn chưa tập trung phát triển như nghiệp vụ quản lý tài sản cá
nhân. Thơng điệp chính mà các QĐTCK hiện nay kỳ vọng và gửi đến cơ quan quản lý

69



là cần sớm hồn thiện các chính sách, hành lang pháp lý hướng dẫn với các sản phẩm
quỹ mới, áp dụng các ưu đãi về thuế đối với quỹ, nới lỏng sở hữu của các quỹ nước
ngoài trên thị trường, gỡ bỏ các tỉ lệ sở hữu đối với các quỹ thành lập tại Việt Nam…
Có thể thấy năm 2014 là năm có sự vận động tích cực từ các QĐTCK,
CTQLQ cho việc chuẩn bị một giai đoạn phát triển mới với định hướng cung cấp các
sản phẩm đầu tư dài hạn dựa trên nền tảng quỹ mở. Các sản phẩm phục vụ hưu trí nếu
được hình thành sẽ mở ra một giai đoạn mới cho việc phát triển chung của ngành.
Để phát triển bền vững TTCK thì việc hồn thiện khung pháp lý là điều kiện
tiên quyết. TTCK chỉ có thể phát triển nếu quốc gia đó ban hành được một hệ thống
văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ, có tính tiên liệu và hiệu lực pháp lý cao, ổn định
trong thời gian dài. Theo IOSCO (Tổ chức các UBCK quốc tế) thì mục tiêu điều
chỉnh pháp luật đối với TTCK là “bảo vệ NĐT, bảo đảm thị trường công bằng, hiệu
quả và minh bạch, giảm thiểu rủi ro hệ thống”.
Có thể nói các QĐTCK khơng thể vận hành và phát triển mạnh nếu khơng có
một khn khổ pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động của nó. Trong việc đánh
giá tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của QĐTCK thì yếu
tố đầu tiên là mơi trường pháp lý, yếu tố thứ hai là hàng hoá trên thị trường và tiếp
theo là tình hình chính trị và sự hiểu biết của cơng chúng về chứng khốn [29,
tr198].
Từ thực trạng hoạt động của TTCK nói chung và các QĐTCK nói riêng, có
thể thấy rằng việc hồn thiện pháp luật về hoạt động QĐTCK mang tính cần thiết
khách quan thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
 Pháp luật QĐTCK góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở
nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI.
 Pháp luật QĐTCK khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn
khổ pháp luật chứng khoán và TTCK, đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật


70


Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra mơi trường
pháp luật ổn định cho các NĐT.
 Pháp luật QĐTCK tạo điều kiện hình thành khn khổ pháp lí trong việc
quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường công khai,
công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các NĐT.
 Pháp luật QĐTCK tạo điều kiện cho TTCK phát triển nhanh và bền vững;
tăng cường khả năng huy động vốn của Chính phủ, các doanh nghiệp trên TTCK
cho đầu tư phát triển; tạo cơ hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân
chuyển vốn đầu tư. TTCK phát triển sẽ góp phần làm cho nền kinh tế Việt Nam
minh bạch hơn.
 Pháp luật QĐTCK tạo điều kiện TTCK Việt Nam hội nhập với TTCK
khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thơng
nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để các NĐT Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài.
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu tƣ chứng
khốn
Năm 2013 là lộ trình cho các QĐTCK đứng trước hai lựa chọn: thối hết vốn
và đóng quỹ hoặc chuyển đổi sang loại hình quỹ mở. Mỗi hình thái đều phản ánh kỳ
vọng tương lai về TTCK. Khung pháp lý cho việc ra đời các loại hình quỹ mới như
quỹ mở, quỹ đầu tư bất động sản, ETF, công ty ĐTCK đã được ban hành. Hiện nay
đã có 8 quỹ mở được UBCKNN cấp phép chào bán, thành lập. UBCKNN đang triển
khai xây dựng hệ thống giao dịch các sản phẩm mới như quỹ ETF để đưa vào vận
hành trong năm 2014.
Để nâng cao hiệu lực pháp lý của các VBQPPL về chứng khoán và TTCK,
giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật có liên quan đến
lĩnh vực này thì việc ban hành các văn bản hướng dẫn dưới Luật Chứng khoán, nhất
là trong lĩnh vực QĐT là hết sức cần thiết. Luật Chứng khoán và các văn bản dưới

luật đồng bộ và hoàn chỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lý cho TTCK Việt Nam phát triển ổn

71


định, an tồn, lành mạnh và có hiệu quả; tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá
nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào TTCK; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà
nước đối với hoạt động chứng khốn; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ
thể tham gia thị trường.
Sau đây là phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của QĐTCK
nhằm bảo đảm phát triển bền vững TTCK Việt Nam:
Thứ nhất, pháp luật về hoạt động của QĐTCK phải đồng bộ với hệ thống
pháp luật chứng khốn nói riêng và tồn bộ hệ thống pháp luật của Việt Nam nói
chung, đồng thời phải tương thích với chuẩn mực quốc tế và tiếp thu những nhân tố
hợp lý của pháp luật nước ngoài. Bên cạnh đó, cần rà sốt, đánh giá tồn bộ hệ
thống văn bản pháp luật chứng khốn nói chung và văn bản pháp luật QĐTCK nói
riêng một cách nghiêm túc.
Xét thấy cơ cấu tổ chức và việc quản trị QĐTCK ở mỗi quốc gia khác nhau
là khác nhau. Ví dụ như ở Mỹ, việc quản trị QĐT tập thể, nếu được tổ chức dưới
hình thức quỹ tín thác (Business Trusts) sẽ do Hội đồng tín thác (Board of Trustees)
đảm nhiệm; cịn nếu được tổ chức dưới hình thức cơng ty sẽ do Ban giám đốc
(Board of Directors) đảm nhiệm. Tuy nhiên, NĐT đầu tư vào quỹ tín thác hay cơng
ty đầu tư ở Mỹ đều được gọi là cổ đông và có quyền bỏ phiếu trong Đại hội cổ đơng
về những vấn đề hệ trọng của quỹ tín thác hay cơng ty đầu tư mà mình đã góp vốn.
Một số vấn đề cần được biểu quyết có thể kể đến bao gồm: thông qua hợp đồng tư
vấn đầu tư, bầu thêm thành viên Ban giám đốc, bán cổ phiếu thấp hơn giá trị thực
tế, vay vốn cho công ty hay cho vay từ vốn của công ty, mua hay bán bất động sản,
thay đổi chính sách đầu tư hoặc thay đổi chính sách tập trung đầu tư vào một ngành
cơng nghiệp đặc thù nào đó…
Mặt khác, ở Nhật, quỹ tín thác đầu tư không thành lập Ban quản trị hay Ban

giám đốc mà việc quản lý tài sản quỹ sẽ do cơng ty tín thác (Trustor company) thay
mặt NĐT hay người thụ hưởng đảm nhiệm. Cơng ty tín thác phải được Bộ Tài chính
cấp giấy phép hoạt động và chịu sự giám sát của Bộ Tài chính trong q trình quản

72


lý quỹ. Luật pháp của Nhật cũng không trao quyền bỏ phiếu cho NĐT bỏ vốn vào
quỹ (hay người hưởng lợi từ quỹ). Toàn bộ những thay đổi về điều khoản, điều kiện
trong Điều lệ của quỹ tín thác đầu tư sẽ do Bộ Tài chính phê chuẩn.
Theo Pháp luật Việt Nam, hiện nay CTQLQ đứng ra quản lý toàn bộ hoạt
động đầu tư của QĐTCK và của những công ty ĐTCK có nhu cầu; trong q trình
hoạt động, CTQLQ phải chịu sự giám sát của NHGS. Tuy nhiên đối với QĐTCK,
Luật Chứng khoán lại cho phép QĐTCK triệu tập Đại hội NĐT với tư cách là cơ
quan quyết định cao nhất của QĐTCK. Quy định này cho thấy mô hình quản trị
QĐTCK ở Việt Nam khơng giống với mơ hình của Mỹ mà cũng khơng giống với
mơ hình của Nhật. Tuy nhiên, nếu gạt bỏ tên gọi khác nhau của NĐT đầu tư vào
QĐTCK và của chủ thể quản lý quỹ ở Mỹ và Việt Nam, có thể thấy mơ hình quản
trị QĐTCK của Việt Nam có những nét tương đồng với với mơ hình của Mỹ do sự
hiện diện của Đại hội NĐT (Đại hội cổ đông ở Mỹ) và CTQLQ (Hội đồng tín thác ở
Mỹ) trong bộ máy quản trị QĐTCK [44, tr265].
Với những điểm sáng của pháp luật nước ngồi về QĐTCK nói riêng, về
TTCK nói chung, pháp luật Việt Nam nên có những bước đi dài hơi hơn để hội
nhập sâu rộng vào TTCK khu vực và TTCK thế giới.
Thứ hai, pháp luật về hoạt động của QĐTCK cần bảo đảm tính cơng khai,
minh bạch, hiệu quả và công bằng.
Hệ thống pháp luật về QĐTCK bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, hiệu quả
và cơng bằng trong hoạt động sẽ góp phần quan trọng để các tổ chức, cá nhân tích
cực tham gia đầu tư.
Một là, đảm bảo tính trung thực, minh bạch trong hoạt động của QĐTCK.

Đối nghịch với trung thực, minh bạch là gian lận và khơng lành mạnh. Hạn chế và
kiểm sốt được gian lận thì sẽ đảm bảo được tính trung thực của mọi hoạt động của
QĐTCK. Muốn vậy, phải kịp thời ngăn chặn được các hành vi lừa đảo, lũng đoạn
thị trường, thông tin sai sự thật, gây nhiễu giá…thông qua ban hành các quy định

73


pháp lý mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể tham gia trong hoạt động của
QĐTCK nói riêng và TTCK nói chung.
Hai là, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của QĐTCK. Hiệu quả hoạt
động của QĐTCK được đánh giá thông qua khả năng huy động vốn và phân bổ các
nguồn lực tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của các chủ thể là rất
lớn, đa dạng và liên tục thay đổi. Đáp ứng được nhu cầu này thông qua việc huy
động vốn và chuyển hóa có hiệu quả các nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế là đảm
bảo hiệu quả hoạt động của QĐTCK. Muốn đảm bảo được tính hiệu quả trong hoạt
động của QĐTCK, trước hết phải tôn trọng các quy luật vốn có của nó, sau đó mới
sử dụng các cơng cụ quản lý để tác động vào các quy luật tạo nên sự vận hành trơn
tru. Hiệu quả hoạt động nói cụ thể hơn chính là sự an tồn, ổn định và sự phát triển
của QĐTCK. Tuy nhiên, hai mục tiêu này đôi khi lại đối lập nhau. Nếu quản lý q
máy móc, nặng nề về hành chính thì QĐTCK sẽ an tồn nhưng khơng tăng trưởng,
hiệu quả do đó sẽ bị triệt tiêu. Ngược lại, nếu quản lý quá lỏng lẻo, thì QĐTCK sẽ
dễ bất ổn, tính hiệu quả lúc đó cũng khơng đạt được. Điều quan trọng là phải có
chiến lược, chính sách và hành lang pháp lý phù hợp cho từng thời điểm để vừa
đảm bảo được an toàn, lại vừa thúc đẩy sự phát triển của QĐTCK.
Ba là, đảm bảo tính cơng bằng trong hoạt động của QĐTCK. QĐTCK hoạt
động phức tạp và quá trình cạnh tranh diễn ra rất gay gắt. Muốn ổn đinh và phát
triển QĐTCK phải biết định hướng cạnh tranh vào xu thế lành mạnh, phải tạo ra
được sự công bằng và bình đẳng. Cơng bằng và bình đẳng ở đây được hiểu là: cơng
bằng và bình đẳng giữa các chủ thể tham gia QĐTCK với nhau, cơng bằng và bình

đẳng giữa các chủ thể đó với chủ thể quản lý Nhà nước. Điều này được biểu hiện
thông qua sự dễ dàng trong việc gia nhập hay rút lui khỏi QĐTCK, các NĐT nhỏ và
nghiệp dư bình đẳng với các NĐT lớn và chuyên nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ
bình đằng với các doanh nghiệp lớn. Tất nhiên, sự dễ dàng và bình đẳng kể trên
phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, nghĩa là các chủ thể phải đáp ứng được
các điều kiện tối thiểu theo quy định của QĐTCK.

74


Tuy nhiên, không phải lúc nào các mục tiêu đảm bảo tính cơng khai, minh
bạch, hiệu quả và cơng bằng trong hoạt động của QĐTCK cũng dễ dàng thống nhất
với nhau. Khi chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng và trung thực thì tính hiệu
quả sẽ bị vi phạm. Ngược lại, nếu chú trọng vào tính hiệu quả bằng cách tạo điều
kiện thuận lợi, dễ dàng cho các chủ thể tham gia QĐTCK thì tính trung thực rất có
thể bị bỏ qua. Việc chọn lựa và ưu tiên mục tiêu nào cịn phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, hệ thống pháp luật về chứng khốn, TTCK
nói chung và QĐTCK nói riêng ở từng thời điểm cụ thể.
Thứ ba, pháp luật về hoạt động của QĐTCK phải là công cụ hữu hiệu bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT.
Đầu tư tập thể giúp các NĐT có được quyết định đầu tư đúng đắn. Đầu tư tập
thể được tiến hành thông qua QĐTCK là hoạt động đầu tư mang tính chuyên
nghiệp. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư của định chế này thể hiện ở chỗ
toàn bộ hoạt động đầu tư của họ được tiến hành bởi tổ chức chuyên doanh trong
lĩnh vực ĐTCK (công ty tư vấn đầu tư hoặc CTQLQ, theo cách gọi của mỗi quốc
gia) hoặc được thực hiện trên cơ sở chỉ dẫn của các công ty tư vấn đầu tư chứng
khoán. So với NĐT riêng lẻ, các phương tiện đầu tư tập thể này có lợi thế hơn ở
chỗ, họ có kiến thức chun mơn, có kĩ năng nghiệp vụ của một NĐT chuyên
nghiệp. Với tư cách là NĐT chuyên nghiệp, họ có khả năng biết được những thông
tin nào là cần thiết cho quyết định đầu tư của mình, và biết tìm những thơng tin đó ở

đâu một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất; đồng thời họ cịn có khả năng nghiên cứu,
phân tích, đánh giá chính xác các thơng tin đó. Đây là điều mà các NĐT riêng lẻ
khó có thể đạt được, đặc biệt trong trường hợp đầu tư vào TTCK ngoài nước. Lợi
thế này làm cho quyết định đầu tư của các NĐT có tổ chức này mang tính chun
nghiệp hơn và vì vậy cũng hiệu quả hơn so với NĐT riêng lẻ. Ngay cả khi các NĐT
riêng lẻ sử dụng dịch vụ của công ty tư vấn đầu tư, quyết định đầu tư trên cơ sở tư
vấn từ bên ngoài sẽ khó có thể đạt tới mức độ tin cậy và hiệu quả như những quyết
định đầu tư được tiến hành trên cơ sở những phân tích đánh giá của bản thân NĐT
có tổ chức. Điều đó được lý giải bởi tình huống có tránh khỏi là các cơng ty tư vấn

75


đầu tư rất có thể bị chi phối bởi sự xung đột lợi ích với khách hàng khi tư vấn khách
hàng đầu tư vào một loại chứng khốn nào đó [44, tr274].
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư của QĐTCK có tác dụng định hướng đầu tư
trên thị trường. Với tư cách NĐT chun nghiệp, QĐTCK có khả năng tìm kiếm
các cơ hội đầu tư một cách sáng suốt. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng việc
dẫn dắt các NĐT cá nhân thiếu kiến thức và kinh nghiệm đầu tư [44, tr265].
Đại hội NĐTCK với thành phần bao gồm tất cả các NĐT là cơ quan quyết
định cao nhất của QĐTCK. Đại hội NĐT có một số quyền năng theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của NĐT và tăng cường hiệu quả hoạt
động đầu tư của quỹ. Để bảo đảm quyền lợi của NĐT được quan tâm đúng mức,
một mặt Đại hội NĐT được phép lập ra cơ quan đại diện cho quyền lợi của mình
bằng cách thực hiện quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch và thành viên Ban
đại diện QĐTCK; mặt khác Đại hội NĐT có quyền yêu cầu CTQLQ, NHGS trình
sổ sách hoặc giấy tờ giao dịch tại Đại hội NĐT. Bên cạnh đó, Đại hội NĐT có
quyền quyết định một số vấn đề có liên quan đến khía cạnh tài chính của QĐTCK
để đảm bảo cho các chi phí hoạt động quản lý [44, tr268].
Pháp luật trao cho Đại hội NĐT một số quyền năng để đảm bảo rằng các bên

tham gia quản lý và giám sát QĐTCK tuân thủ các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng. Một là, Đại hội NĐT có quyền xem xét và XLVP đối với CTQLQ,
NHGS và Ban đại diện quỹ nếu những tổ chức này gây tổn thất cho QĐTCK. Hai
là, Đại hội NĐT cịn có quyền quyết định thay đổi CTQLQ, NHGS phù hợp với quy
định của Điều lệ của quỹ nếu thấy cần thiết.
Ngoài ra, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của QĐTCK, đại diện NĐT
còn có quyền quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ QĐTCK, Hợp đồng giám sát;
quyết định việc niêm yết CCQ đóng; quyết định thay đổi cơ bản trong chính sách
đầu tư, phương án phân phối lợi nhuận, mục tiêu đầu tư của quỹ và cả việc giải thể
QĐTCK [44, tr277].

76


Khác với các cơng ty có chứng khốn lưu hành trên thị trường, chủ yếu chỉ
phải tuân thủ pháp luật về cơng bố thơng tin và đăng kí phát hành, các QĐTCK
thường được pháp luật chứng khốn điều chỉnh khơng chỉ đối với hoạt động công
bố thông tin và đăng kí phát hành (nếu là QĐTCK đại chúng) mà cịn điều chỉnh cả
việc quản lý và giám sát hoạt động đầu tư của quỹ. Mục đích của pháp luật là nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng của NĐT trước khả năng bị lạm dụng bởi các tổ chức
tham gia vào hoạt động quản lý QĐTCK, do tính chất đặc thù trong tổ chức và hoạt
động của các phương tiện đầu tư tập thể này so với các công ty khác có chứng
khốn lưu hành trên thị trường. Như vậy, lợi ích của các NĐT bỏ vốn lập QĐTCK
cần phải có quy chế pháp lý hữu hiệu điều chỉnh từ việc thành lập tới tồn bộ q
trình hoạt động đầu tư định chế tài chính này với sự tham gia của các CTQLQ và
NHGS nhằm đảm bảo hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn đầu tư và
giám sát đầu tư này tuân thủ pháp luật và điều lệ của QĐTCK [44, tr280].
Thứ tƣ, pháp luật về hoạt động của QĐTCK phải có khả năng ngăn ngừa và
kiểm soát được rủi ro hệ thống.
Để kiểm soát được rủi ro hệ thống trong hoạt động của QĐTCK, pháp luật

cần hoàn thiện hơn nữa các quy định về việc hình thành, xây dựng và phát triển các
cơng cụ phịng ngừa rủi ro. TTCK là một thị trường nhạy cảm, mọi quyền lợi và lợi
ích của các chủ thể tham gia thị trường có thể bị ảnh hưởng bất cứ lúc nào.
Là một hình thức đầu tư tập thể, QĐTCK cho phép NĐT có thể tham gia đầu
tư vào nhiều loại thị trường với chủng loại hàng hóa khác nhau, từ đó đa dạng hóa
DMĐT. Từ đó hoạt động của QĐTCK giảm thiểu được rủi ro. Với nguồn vốn eo
hẹp, từng NĐT riêng lẻ khó có thể cùng lúc đầu tư vào TTCK, thị trường tiền tệ và
cả thị trường bất động sản. Như vậy, nguồn vốn hạn hẹp của từng NĐT riêng lẻ
không cho phép họ dàn trải vốn đầu tư vào nhiều loại chứng khoán và tài sản khác
nhau để phân tán rủi ro. Tuy nhiên, nếu cùng chung vốn để thành lập QĐT hay góp
vốn vào cơng ty đầu tư, ngay cả những NĐT mỏng vốn nhất cũng có thể tham gia
đầu tư trên nhiều loại thị trường. Lợi thế này của đầu tư tập thể cho phép các NĐT
riêng lẻ sử dụng các phương tiện đầu tư tập thể, đa dạng hóa DMĐT và cũng chính

77


là phân tán nguồn vốn đầu tư. Phân tán nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối
với NĐT vì khi nguồn vốn của NĐT được đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau,
nếu rủi ro xảy ra đối với một loại tài sản nào đó, NĐT sẽ chỉ mất một phần vốn đầu
tư của mình chứ khơng mất toàn bộ vốn như trong trường hợp bỏ vốn đầu tư vào
một loại tài sản. Nói cách khác, đầu tư tập thể có khả năng phân tán nguồn vốn đầu
tư nhằm giảm thiểu rủi ro cho các NĐT, điều mà từng NĐT riêng lẻ khó có thể làm
được [44, tr187].
Để bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho NĐT, hoạt động của
QĐTCK cần thiết phải được điều chỉnh bởi hành pháp pháp lý đầy đủ và hồn thiện
về các cơng cụ ngăn ngừa và kiểm sốt rủi ro.
3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Quỹ đầu
tƣ chứng khoán
3.3.1. Về hoạt động huy động vốn

Thứ nhất, nhằm tạo điều kiện thu hút nhiều vốn để thành lập nhiều QĐT,
pháp luật về TTCK ở Việt Nam cần có những quy ưu đãi về thuế đối với tổ chức, cá
nhân khi đầu tư vào quỹ hơn hình thức đầu tư trực tiếp.
Với thực tế tại Việt Nam, việc miễn thuế mang lại lợi ích kép. Một là, miễn
thuế tạo động lực phát triển quỹ mở khi nó đang chập chững những bước đi đầu tiên
trong bối cảnh đối mặt với rất nhiều khó khăn. Hai là, miễn thuế tạo sức hấp dẫn
cho quỹ mở trong thu hút nguồn vốn trong và ngồi nước, góp phần huy động vốn
hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ TTCK phát triển ổn định và chuyên
nghiệp hơn. Vì động lực quan trọng nhất để NĐT chọn hình thức đầu tư qua quỹ mở
là ưu đãi thuế. Ngay cả các thị trường lân cận có chiều sâu phát triển như Thái Lan,
Indonesia, Philippines; tính cạnh tranh của họ cao hơn rất nhiều so với Việt Nam
trong thu hút NĐT nước ngoài, hệ thống quỹ mở đang triệt để sử dụng công cụ thuế,
nhằm hút vốn cho quỹ mở. Với tiêu chí đầu tư dài hạn, chuyên nghiệp, dòng vốn từ
quỹ mở chảy ổn định hơn qua TTCK để đến với doanh nghiệp, nền kinh tế, chứ
khơng chịu nhiều biến động bởi dịng vốn do số đông NĐT nhỏ lẻ như ở Việt Nam
hiện tại.

78


Ngược lại, việc duy trì chính sách thuế hiện hành đối với quỹ mở mang lại
thiệt hại kép. Đó là khơng tạo ra động lực khuyến khích quỹ mở phát triển, đồng
thời nhiều khả năng cũng không thu được thuế. Bởi kinh nghiệm quốc tế đặt vào bối
cảnh khó khăn của nền kinh tế Việt Nam hiện tại cho thấy trong khoảng 2 - 3 năm
đầu, các quỹ mở cố gắng lắm may ra mới kiếm được vốn hoạt động, nói gì đến có
lãi để đóng thuế.
Trường hợp chưa thể miễn thuế, để phần nào tạo thuận lợi cho quỹ mở phát
triển, cần điều chỉnh chính sách thuế đối với quỹ mở theo hướng khắc phục tình
trạng đầu tư qua quỹ chịu thuế cao hơn so với hình thức trực tiếp đầu tư vào thị
trường. Bên cạnh đó, cũng cần điều chỉnh cách đánh thuế đối với quỹ mở như một

tổ chức kinh doanh, mặc dù nó khơng có tư cách pháp nhân.
Để cụ thể hóa hướng điều chỉnh trên vào luật, cần đưa quỹ mở vào đối tượng
điều chỉnh của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo hướng này, cách đánh thuế
đối với quỹ mở sẽ đơn giản hơn nhiều so với hiện tại. Thuế sẽ được đánh trên lợi
nhuận có được sau khi lấy doanh thu trừ đi chi phí. Cơ sở để thực hiện cách này là
việc ghi nhận doanh thu, chi phí hoạt động của quỹ mở hoàn toàn khả thi, minh
bạch theo quy định tại Thơng tư 198/2012/TT-BTC về chế độ kế tốn áp dụng đối
với quỹ mở.
Nhận thấy rằng việc tính thuế đối với các QĐT là NĐT cá nhân trong nước
và nước ngoài khi đầu tư vào quỹ phải đảm bảo không cao hơn so với trực tiếp đầu
tư vào chứng khoán. Gần đây, VAFI cũng đã kiến nghị Bộ Tài chính về cơ chế thuế
cho các QĐT trong nước. Theo đó, chỉ nên tính thuế chuyển nhượng 0,1% cho từng
giao dịch chuyển nhượng chứng khoán; thuế lợi tức trái phiếu, lợi tức tiền gửi là
5%. Còn với đối tượng tổ chức trong nước sẽ áp dụng thuế khoán khi đầu tư vào
quỹ và khi họ nhận được cổ tức, khoản này không phải chịu thuế thu nhập lần thứ 2.
Phương pháp tính thuế này thể hiện sự bình đẳng tương đối về nghĩa vụ nộp thuế
của NĐT trong nước và nước ngoài, NĐTNN khi đầu tư vào quỹ so với hình thức
trực tiếp ĐTCK. Đây là kiến nghị quan trọng mà các cơ quan chức năng cần xét xét
nhằm tạo sự hấp dẫn về hoạt động của các QĐT trong và ngoài nước.

79


Thứ hai, về vốn FDI. Được áp dụng từ ngày 01/07/2006, Luật Đầu tư 2005
quy định doanh nghiệp FDI bao gồm doanh nghiệp do NĐTNN thành lập để thực
hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do NĐTNN mua cổ
phần, sáp nhập, mua lại. NĐTNN là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực
hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Doanh nghiệp được áp dụng điều kiện đầu tư
trong nước khi các NĐT Việt Nam sở hữu từ 51% vốn điều lệ của doanh nghiệp trở
lên…

Đặc biệt, sự thiếu thống nhất thể hiện rất rõ trong các văn bản dưới luật
hướng dẫn về vấn đề này. Quy chế góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong các
doanh nghiệp Việt Nam kèm theo Quyết định 88/2009/QĐ-TTg ngày 18/6/2009 của
Thủ tướng Chính phủ giải thích doanh nghiệp FDI bao gồm “tổ chức thành lập và
hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%”.
Nghị định 69/2007/NĐ-CP về việc NĐTNN mua cổ phần của ngân hàng thương
mại Việt Nam quy định NĐTNN là “tổ chức được thành lập theo quy định của pháp
luật nước ngoài và hoạt động, kinh doanh tại nước ngoài hoặc/và tại Việt Nam”.
Quy chế hoạt động của NĐTNN trên TTCK Việt Nam ban hành kèm theo Quyết
định 121/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính lại xác định NĐTNN bao gồm cả “tổ
chức thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam có 100% vốn góp nước ngồi
và các chi nhánh của tổ chức này”. Cịn theo Quyết định 55/2009/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của NĐTNN trên TTCK Việt Nam, NĐTNN bao
gồm cả “tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của
bên nước ngoài trên 49%”...
Sự khác biệt về cách hiểu doanh nghiệp FDI và NĐTNN như trên dẫn đến
việc áp dụng thủ tục đầu tư khác nhau trong việc thành lập mới doanh nghiệp của
NĐTNN. Cơ quan chức năng không khỏi lúng túng trong việc vận dụng các quy
định của pháp luật đối với những trường hợp thay đổi từ doanh nghiệp có vốn FDI
thành doanh nghiệp trong nước và ngược lại. Đơn cử, hầu hết các phòng đăng ký
kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch & Đầu tư các tỉnh, thành phố từ chối thụ lý hồ sơ
thành lập tổ chức mới có sự tham gia góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp có sở

80


hữu của NĐTNN không quá 49% vốn điều lệ và từ chối thụ lý hồ sơ của các doanh
nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh bán cổ phần, vốn góp cho NĐTNN... Điều
này hạn chế rất lớn việc thu hút, chuyển đổi dòng vốn ngoại cho phát triển kinh tế,
trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư đang rất khan hiếm.

Có thể thấy rằng các quy định pháp luật vẫn chưa thống nhất. Chẳng hạn,
Điều 16 của Hiến pháp năm 1992 quy định các thành phần kinh tế khác và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng và cạnh tranh
theo pháp luật. Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật hiện hành vẫn tồn tại sự
phân biệt đối xử với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Ví dụ, việc cấp
giấy chứng nhận đầu tư cho các doanh nghiệp FDI phức tạp hơn so với các doanh
nghiệp trong nước (đối với đăng ký dự án bất động sản và các ngành nghề có điều
kiện; thời gian đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư từ 15 đến 45 ngày làm việc
trong khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chỉ có 5 ngày làm việc).
Luật Đầu tư có hiệu lực từ năm 2006 tuy nhiên hệ thống chưa chặt chẽ và
cịn sự phân biệt khơng thoả đáng về nguồn vốn trong và ngoài nước. Pháp luật Việt
Nam cần xây dựng một chính sách quy định rõ ràng về tỷ lệ sở hữu cổ phần của
NĐTNN trong các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực bao gồm cả các doanh
nghiệp niêm yết và không niêm yết trên TTCK; mở rộng hơn nữa danh mục ngành
– nghề mà các NĐTNN được phép đầu tư; đồng thời sớm ban hành Quy chế thành
lập chi nhánh, văn phòng đại diện CTQLQ nước ngồi, trong đó quy định rõ:
 Chi nhánh CTQLQ nước ngoài được phép quản lý QĐTCK nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam, quản lý uỷ thác cho các cá nhân, tổ chức đầu tư nước ngoài,
tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp đầu tư hoặc tiếp nhận nguồn vốn đầu tư từ
các quỹ do CTQLQ;
 Hoạt động quản lý quỹ được hưởng ưu đãi về thuế VAT và thuế thu nhập
doanh nghiệp;

81


 Điều kiện thành lập chi nhánh đơn giản, tạo điều kiện cho các CTQLQ và
quỹ mới thành lập tại các đảo British Virgin, Bermuda, Cayman có cơ sở pháp lý để
hoạt động tại Việt Nam;
 Các quy định về chế độ báo cáo, nhân sự đối với các CTQLQ, các tổ

chức đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam; việc quản lý, cấp phép các chi nhánh
CTQLQ nước ngoài do UBCKNN thống nhất thực hiện;
 Cho phép các văn phịng đại diện của các tổ chức kinh doanh chứng
khốn nước ngoài được Sở Thương mại các tỉnh, thành phố cấp phép lại với thủ tục
đơn giản.
Thứ ba, khuyến khích sử dụng nguồn thu từ BHNT để đầu tư vào TTCK thông
qua việc đầu tư và trở thành cổ đông hoặc sáng lập viên của QĐTCK.
Theo thống kê của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm - Bộ Tài chính cho thấy,
năm 2012 doanh thu phí BHNT đạt 18.191 tỷ đồng, tăng 13,71% so với năm trước.
Đây là kết quả khá ấn tượng trong bối cảnh tốc độ tăng doanh thu của tồn ngành
Bảo hiểm giảm do kinh tế khó khăn. Sự có mặt của 15 doanh nghiệp BHNT tại thị
trường Việt Nam cho thấy tiềm năng của thị trường còn rất lớn. Những số liệu trên
cho thấy, mặc dù nền kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng tới doanh thu của toàn ngành
Bảo hiểm, song khối doanh nghiệp BHNT vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng.
Cùng với lễ ra mắt của Công ty BHNT PVI-Sunlife vào tháng 3/2013, dự kiến sẽ có
thêm nhiều tập đồn tài chính sẽ tham gia thị trường này. Bộ Tài chính cho biết,
trong năm 2013 đã có thêm 02 doanh nghiệp BHNT mới tại thị trường Việt Nam.
Trong đó, có một cơng ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Tập đoàn Tài chính
Ngân hàng Australia và Cơng ty liên doanh BHNT của Tổng Công ty Bảo hiểm
BIDV (BIC). Tại thị trường BHNT hiện nay, Công ty Bảo hiểm Prudential Việt
Nam và Bảo Việt Nhân thọ là hai doanh nghiệp dẫn đầu thị trường về doanh thu phí
Bảo hiểm. Sự góp mặt của nhiều tập đồn tài chính đến từ các châu lục lớn trên thế
giới tại Việt Nam đã chứng tỏ sức hấp dẫn của thị trường Bảo hiểm nói chung và
nghiệp vụ BHNT nói riêng. Theo kết quả kinh doanh do Prudential Việt Nam công

82


bố đầu 9 tháng năm 2013: đơn vị đạt doanh thu phí khai thác tăng 28% so với cùng
kỳ năm 2012, tiếp tục nắm giữ gần 34% thị phần tổng doanh thu phí tồn ngành

BHNT, dẫn đầu thị trường về cả thị phần doanh thu khai thác mới và tổng doanh
thu phí Bảo hiểm. Những kết quả mà Prudential Việt Nam đạt được là mơ ước của
các doanh nghiệp BHNT. Vì vậy, mặc dù trong những năm gần đây, thị trường này
khơng cịn tăng trưởng "nóng", song Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của nhiều
tập đồn tài chính Bảo hiểm. Do vậy, đây là nguồn vốn tiềm tàng để các QĐTCK có
thể khai thác.
3.3.2. Về hoạt động đầu tƣ
Thứ nhất, duy trì hạn mức đầu tư và xây dựng cơ chế tự đánh giá rủi ro
trong nội bộ NĐT có tổ chức.
NĐT có tổ chức là các định chế không thể thiếu trên TTCK, do vậy việc cho
phép các NĐT từ NHTM, công ty bảo hiểm, QĐT… tham gia vào TTCK là hoàn
toàn hợp lý. Tuy nhiên, để hạn chế rủi ro cho các tổ chức này và ngăn chặn rủi ro
lây lan sang các chủ thể khác, cần tiếp tục duy trì và hồn thiện các quy định về hạn
mức đầu tư vào TTCK của các tổ chức này. Ngồi ra, các NĐT có tổ chức phải tự
xây dựng bộ máy hoặc cơ chế ngăn ngừa rủi ro bao gồm cả cơ chế tự sốt, xem xét
thơng tin liên quan đến chứng khốn mục tiêu mà khơng được lệ thuộc hồn tồn
vào thơng tin, tư vấn của bên thứ ba.
Thứ hai, hoàn thiện và phát triển những quy định về các cơng cụ phịng ngừa
rủi ro.
Các cơng cụ phòng ngừa rủi ro phổ biến là hợp đồng quyền chọn, hợp đồng
kỳ hạn, hợp đồng tương lai (hợp đồng giao sau), hợp đồng hoán đổi rủi ro vỡ nợ và
các chứng khốn tổng hợp. Các cơng cụ này được sử dụng để phòng ngừa rủi ro giá
cả. Các cơng cụ phái sinh có thể được giao dịch trên TTCK và chủ yếu là trên thị
trường OTC. Trong đó, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai rất phổ biến
trên thị trường. Trong giai đoạn đầu, Việt Nam nên tập trung xây dựng hoàn thiện
và phát triển hai công cụ này.

83



“Quyền chọn là một hợp đồng cho phép người mua quyền được phép lựa
chọn việc thực hiện hay không thực hiện việc mua hay bán một số lượng chứng
khoán nhất định trước hoặc trong một khoảng thời gian xác định với một mức giá
được xác định trước. Các hàng hóa cơ sở của hợp đồng quyền chọn có thể là cổ
phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hay chỉ số chứng
khoán…” [44, tr263].
Quyền chọn gồm có quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán. Trong hợp đồng
quyền chọn người mua quyền chọn có nghĩa vụ trả phí quyền chọn cho người bán
quyền chọn. Phí quyền chọn là mức giới hạn tối đa thiệt hại của người mua quyền
chọn. Nghĩa là, giả sử nếu người mua quyền chọn mua xét thấy giá chứng khoán cơ
sở tại thời điểm thực hiện quyền mua giảm rất nhiều so với giá thực hiện quyền
chọn nên không thực hiện quyền chọn thì sẽ mất phí quyền chọn. Người bán quyền
chọn phải thực hiện nghĩa vụ bán hàng hoặc mua hàng tùy thuộc vào loại hợp đồng
quyền chọn khi người mua quyền chọn thực hiện quyền chọn.
3.3.3. Về hoạt động cung cấp thơng tin cho Nhà đầu tƣ
Để tăng cường tính minh bạch trong hoạt động cung cấp và công bố thông
tin, quy định của pháp luật cần khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện mơ hình
quản trị cơng ty Ưu việt.
Một trong những trở ngại trong hoạt động đầu tư của công chúng đầu tư là
các doanh nghiệp rất ngại công bố thơng tin. Hiện nay, ngồi một số cơng ty niêm
yết đã áp dụng mơ hình quản trị cơng ty Ưu việt và đã có nhiều tiến bộ trong hoạt
động công bố thông tin và tăng cường quan hệ với NĐT thì đa phần các cơng ty Cổ
phần khác của Việt Nam vẫn cịn hạn chế trong việc cơng khai thông tin. Điều này
khiến cho công chúng đầu tư không thể có được đầy đủ thơng tin về các hoạt động
của doanh nghiệp, dẫn đến việc họ ngại tham gia đầu tư hoặc nếu có đầu tư thì phải
chấp nhận mức độ rủi ro cao. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các
QĐT nói riêng và cơng chúng đầu tư chung thì Nhà nước cần có quy định về lộ
trình thực hiện mơ hình quản trị cơng ty Ưu việt đối với các công ty Cổ phần ở Việt

84



Nam. Mơ hình này địi hỏi các doanh nghiệp phải thật sự chủ động và cởi mở trong
việc công khai hố các thơng tin về cơng ty cũng như phải thành lập bộ phận quan
hệ với NĐT (Investors Relation).
3.3.4. Các giải pháp khác
Thứ nhất, một giải pháp cấp bách là ưu đãi thuế nhằm kích thích các NĐT
chuyên nghiệp, NĐTNN đầu tư vào Việt Nam, nhưng đến nay chưa có chuyển biến
gì. Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành tháng 6/2013
và mới đây là dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật, khơng có điểm nào sửa đổi chính
sách thuế trên TTCK theo mong đợi của thị trường.
Thứ hai, triển khai các sản phẩm mới để thúc đẩy các loại hình quỹ mới như
quỹ mở, quỹ ETF, quỹ bất động sản, quỹ hưu trí…nhằm tăng thanh khoản và sức
cầu. Hiện còn quá nhiều việc phải làm, nếu nhìn vào thực tế mới có 05 quỹ mở
được thành lập. Quỹ ETF, quỹ bất động sản, quỹ hưu trí…là tương lai một vài năm
nữa, bởi TTCK cịn khó khăn và cịn nhiều việc phải làm, chưa thể mong có các loại
quỹ này năm 2014.
Thứ ba, nâng cao năng lực và trách nhiệm của QĐTCK. QĐTCK là một
trong những trụ cột chính của TTCK, là một định chế tài chính trung gian kết nối
NĐT với các chủ thể khác trên thị trường. Pháp luật chứng khoán Việt Nam có khá
đầy đủ các quy định điểu chỉnh tổ chức và hoạt động của QĐTCK. Tuy nhiên, thực
tiễn hoạt động của các QĐTCK trên thị trường đã bộc lộ nhiều vấn đề trong tổ chức
và hoạt động của QĐTCK, không những gây thiệt hại trực tiếp cho NĐT mà còn có
nguy cơ gây ra rủi ro hệ thống. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật theo hướng nâng
cao năng lực và trách nhiệm của QĐTCK là rất cần thiết. Một trong những yếu tố có
tính chất quyết định đến sự thành cơng của QĐT là trình độ, năng lực và đạo đức
của các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Để tạo được niềm tin cho công chúng
đầu tư, các nhà quản lý quỹ phải là những người có kiến thức sâu rộng, am hiểu và
có kinh nghiệm về hoạt động của TTCK, hoạt động quản lý đầu tư và điều quan
trọng là phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Chính vì vậy, pháp luật cần quy


85


định về những điều kiện nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ các nhà
quản lý quỹ nói riêng và tồn ngành QĐTCK nói chung. Bên cạnh đó, cần có
chương trình đào tạo có hệ thống các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp; mở các lớp
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ tại các QĐTCK, các hội thảo khoa học, tổ
chức các kỳ thi tuyển và cấp chứng chỉ cho những nhà quản lý quỹ và tư vấn đầu tư
chuyên nghiệp.
Đồng thời, trong bối cảnh Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh
vực quản lý quỹ, pháp luật cần khuyến khích việc thành lập các cơng ty liên doanh
với các đối tác nước ngồi có kinh nghiệm trong lĩnh vực này nhằm học hỏi kinh
nghiệm trong việc huy động vốn thành lập quỹ và cả kinh nghiệm trong tiến trình
đầu tư. Thơng qua đó, chúng ta xây dựng được một đội ngũ chuyên gia quản lý quỹ
lành nghề, có chun mơn sâu, thực hiện quản lý quỹ có hiệu quả nhằm tạo tiền đề
và niềm tin cho công chúng vào sự phát triển của ngành QĐTCK Việt Nam.
Thứ tƣ, cần nhân rộng mơ hình QĐTCK. Việc nhân rộng mơ hình QĐTCK
đang có cơ hội tốt để thực hiện khi mà cơ quan quản lý và NĐT đều thể hiện sự ủng
hộ đối với loại hình này. Tuy nhiên, nhu cầu mở rộng phạm vi huy động vốn của
các quỹ lại đang đặt ra bài toán mới cho nhà quản lý. Để phù hợp với thông lệ quốc
tế về QĐTCK, cơ quan Quản lý Nhà nước về TTCK nên có quy định cho phép các
CTQLQ được lập QĐTCK có vốn góp bằng ngoại tệ, chứ khơng chỉ bó hẹp pham vi
góp vốn bằng tiền đồng. Bởi vì hiện nay lượng ngoại tệ trong dân rất lớn, trong khi
Việt Nam đã cho phép cá nhân được gửi ngoại tệ vào ngân hàng thì cũng nên cho
phép họ được góp vốn bằng ngoại tệ vào QĐT. Kinh nghiệm của một số nước có
TTCK phát triển cho thấy, họ đã thu hút được lượng ngoại tệ lớn để đổ vào kênh
chứng khốn thơng qua việc đa dạng hố phương tiện góp vốn của NĐT vào quỹ.

86



×