Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) sự biến dạng của chính thể đại nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.36 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THÀNH THỦY

SỰ BIẾN DẠNG CỦA CHÍNH THỂ ĐẠI NGHỊ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung

Hà nội - 2005


MỤC LỤC
Mở đầu .......................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................... 6
3. Mục Đích............................................................................................ 7
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .............. 7
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn .......................................... 9
7. Kết cấu luận văn ................................................................................. 9
Chƣơng 1: Khái niệm, Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm cơ bản của
chế độ đại nghị ............................................................................................ 10
1.1. Khái niệm chính thể ........................................................................... 10
1.2 Hồn cảnh ra đời của chính thể Đại nghị. ........................................... 12
1.2.1 Chính thể Đại Nghị trong lý thuyết phân quyền ........................... 12
1.2.2 Nhà nước Anh – Cái nơi của Chính thể Đại Nghị. ....................... 16
1.2.2.1 Sự xuất hiện Quốc hội – Cơ quan đai diện cho Nhánh Lập
pháp .................................................................................................. 16


1.2.2.2 Cuộc đấu tranh giành vị trí ưu thế của Quốc hội ................... 17
1.2.2.3 Sự xuất hiện Nội các và nguyên tắc Vua không chịu trách
nhiệm................................................................................................ 20
1.2.2.4 Xuất hiện nguyên tắc chịu trách nhiệm của Chính phủ trước
Nghị viện . ........................................................................................ 21
Chƣơng 2: Những đặc điểm cơ bảncủa chính thể Đại nghị ..................... 23
2.1. Nghị viện cơ quan đại diện cho nhân dân có quyền lực tối cao .......... 23
2.1.1 Tính tối cao của Nghị viện được quy định trong Hiến Pháp ......... 23
2.1.2 Tính tối cao của Nghị viện trong lĩnh vực lập pháp ...................... 26

1


2.1.3 Tính tối cao của Nghị viện trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phịng và
an ninh.................................................................................................. 29
2.1.4 Tính tối cao của Nghị viện trong lĩnh vực tham gia thành lập cơ
quan nhà nước ...................................................................................... 30
2.1.5 Tính tối cao của Nghị viện thể hiện trong chức năng giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước. .................... 31
2.1.6 Tính tối cao của Nghị viện thể hiện trong lĩnh vực Tư Pháp ....... 31
2.2 Chính thể Đại Nghị- Nơi Chính phủ được hình thành trên cơ sở Nghị
viện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. ................................................ 33
2.3 Chính thể Đại nghị - Chế định Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị
viện . ........................................................................................................ 37
2.4 Nguyên thủ Quốc gia thực hiện chức năng hành pháp tượng trưng. .... 40
2.4.1 Địa vị pháp lý của Nguyên thủ quốc gia được quy định trong Hiến
Pháp ..................................................................................................... 40
2.4.2 Địa vị thực tế của Nguyên thủ quốc gia trong chính thể Đại Nghị.
............................................................................................................. 41
2.5 Chính thể Đại nghị nơi thiếu hẳn sự có mặt của một yếu tố trong lý

thuyết phân quyền ( Chế định kiểm sốt và qn bình quyền lực). .......... 47
Chƣơng 3: Nội dung của sự biến dạng .................................................... 50
3.1 Khái niệm sự biến dạng. ..................................................................... 50
3.2 Nội dung của sự biến dạng ................................................................. 51
3.2.1 Tính tối cao của Quốc hội đã bị thay thế bởi lợi thế áp đảo của
Chính phủ. ............................................................................................ 51
3.2.1.1. Thẩm quyền của Nghị viện trong lĩnh vực Lập Pháp đã bi hợp
lý hoá. ............................................................................................... 51
3.2.1.2. Thẩm quyền của Nghị viện trong lĩnh vực ngân sách và tà
chính đã bị Chính phủ chi phối. ........................................................ 53

2


3.2.2 Chính Phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội nhưng thực tế chính
phủ lại quay lai gây ảnh hưởng, chỉ huy Quốc hội . .............................. 54
3.2.2.1 Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện là một nguyên tắc
của chính thể Đại nghị. ..................................................................... 54
3.2.2.2 Chế định chịu trách nhiệm của Chính phủ trên thực tế. ......... 54
3.2.3. Vấn đề tín nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện đã khơng cịn mà
thay vào đó là vấn đề tín nhiệm của Chính phủ trước Đảng cầm quyền. 58
3.2.4. Sự phân chia quyền lực nhà nước giữa Lập Pháp và Hành pháp
theo quy định của Hiến Pháp đã khơng cịn nữa ................................... 59
3.2.5 Nguyên thủ Quốc gia là người bổ nhiệmThủ Tướng Chính Phủ
nhưng khơng thể bổ nhiệm ai khác ngồi Thủ lĩnh của Đảng cầm quyền.
............................................................................................................. 61
3.2.6 Nguyên thủ Quốc gia không có thực quyền như theo quy định của
Hiến pháp. ............................................................................................ 63
3.2.7 Chức năng giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ trên thực tế
là việc giám sát của Đảng đối lập. ........................................................ 65

3.3. Nguyên Nhân của sự biến dạng ........................................................ 67
3.3.1. Chế độ sinh hoạt Đảng phái chính trị trong Nghị viện - Nguyên
nhân quan trọng nhất của sự biến dạng. ................................................ 67
3.3.2 Quy luật chung của các loại chính thể là phải có một ngành Hành
Pháp mạnh, là trung tâm của bộ máy nhà nước. .................................... 70
Kết luận....................................................................................................... 75
Danh mục Tài Liệu Tham khảo................................................................. 82

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương trình đại hội đảng
toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam có đoạn viết “Nhà nước ta
là một trụ cột của hệ thống chính trị và là cơng cụ chủ yếu để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, là nhà nước Pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất , có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền Lập pháp, Tư pháp và Hành
Pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước gắn liền với xây
dựng chỉnh đốn đảng, đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước. Thực hiện đồng thời các nhiệm vụ cải cách thể chế và phương
thức hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương,
tăng cường pháp chế, xây dung đội ngũ cán bộ cơng chức trong sạch, có năng
lực…”
Nhận thức được điều đó, việc cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy
nhà nước tiến tới xây dựng một nhà nước Pháp quyền là cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
Muốn tổ chức thực hiện đúng đắn quan điểm chỉ đạo của Đảng việc đầu tiên
chúng ta phải nắm được các nội dung biểu hiện, sự ra đời và quy luật biến

chuyển của các loại hình tổ chức nhà nước tiên tiến trên thế giới dưới nhiều
giác độ, bằng nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn khác nhau trong đó có
khoa học Luật Hiến pháp, từ đó chúng ta sẽ tiếp thu một cách có chọn lọc
những tiến bộ của nhân loại.

4


Việc tổ chức nhà nước của các nước trên thế giới là rất đa dạng, phức
tạp thể hiện những điều kiện kinh tế, văn hoá, lịch sử, xã hội… của mỗi quốc
gia. Nhưng việc tổ chức này cũng có những điểm chung nhất định , thường
được dựa trên cơ sở của một số những mơ hình có từ trước của các nước Tư
bản phát triển và những học thuyết kinh điển về tổ chức bộ máy nhà nước.
Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận và áp dụng trong
thời kỳ đầu thành lập nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Sau cuộc Cách
mạng tháng tám thành công, nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải vạch ra một
mơ hình nhà nước phù hợp với hiện tại và tương lai của đất nước. “Khi đó
trên thế giới chỉ có ba mơ hình cơ bản: Cộng Hồ Đại Nghị ( Pháp), Cộng hoà
Tổng Thống (Mỹ) và Cộng hoà Xơ viết (Liên Xơ). Với sự lãnh đạo tài tình
của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra mơ hình nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hồ - Cộng hồ dân chủ nhân dân. Một mơ hình nhà nước
đặc thù phù hợp với điều kiện của nước ta vừa có những đặc điểm của cả ba
loại trên, đồng thời có những điểm khác với chúng.
Chính thể là mơ hình cơ cấu tổ chức nhà nước phản ánh nhận thức của
các nhà Lập hiến. Nhà nước thông qua cách thức tổ chức, thành lập và mối
quan hệ qua lại giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Trung ương, qua đó
thấy rõ được mối quan hệ giữa nhà nước và cơng dân. Đây là vấn đề quan
trọng, góp phần tạo nên cơ sở của mọi hoạt động của nhà nước.
Việc tìm ra một mơ hình tổ chức phù hợp cho Nhà nước sẽ cho phép
đất nước phát triển đi lên hoặc ngược lại sẽ dẫn đất nước đến tình trạng khủng

hoảng trì trệ.
Tuy nhiên để mơ hình đó trở thành phù hợp, tạo điều kiện cho sự phát
triển của đất nước không chỉ là phản ánh nhận thức của các nhà lập Hiến mà
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : điều kiện hoàn cảnh đất nước, truyền

5


thống lịch sử , trình độ văn minh, dân chủ, dân tộc… và nhiều yếu tố khác
nữa kể cả yếu tố trong và ngồi nước.
Phải khẳng định rằng mọi mơ hình dù tốt đến đâu đi chăng nữa cũng
chỉ đúng ở mức độ tương đối. Có mơ hình tổ chức phù hợp với nhà nước này
nhưng không phù hợp với nhà nước khác, có mơ hình phù hợp với nhà nước
trong giai đoạn lịch sử này nhưng lại không phù hợp ở giai đoạn lịch sử khác.
Có những điểm tích cực ở mơ hình này nhưng lại là sự cản trở ở mơ hình
khác….[15, tr 34) Chính vì vậy như trên đã nói việc tổ chức nhà nước là rất
đa dạng, phức tạp nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, lịch sử
của mỗi quốc gia. Nhưng trong một xu hướng ngoại giao mở như hiện nay
việc tiếp nhận những tinh hoa của thế giới là điều không thể tránh khỏi, là
điều kiện cần thiết để từ đó chúng ta tìm ra những giải pháp tốt nhất cho
những vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước. Việc nghiên cứu, tìm hiểu các nước
trên thế giới, đặc biệt về phươnbg diện chính thể, nhăm khai thác, kế thừa
những thành tựu của nhân loại phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, khơng
những có ý nghĩa lý luận mà con có ýa nghĩa thực tiễn.
Vì vậy, đề tài: “Sự biến dạng của chính thể Đại Nghị” có ý nghĩa lý
luận thực tiễn quan trọng, phục vụ công cuộc đổi mới xây dung nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hội
nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính thể nhà nước khơng phải là vấn đề mới, bởi nó đã được nhiều

nhà nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội khác nhau đề cập nhưng
nghiên cứu một cách sâu sắc dưới góc độ khoa học Hiến Pháp thì rất ít.
Trong thời gian gần đây có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết liên
quan đến đề tài như :

6


- Hình thức của các nhà nước đương đại của PGS TS Nguyễn Đăng
Dung Nhà xuất bản thế giới 2004.
- Giáo trình Luật Hiến Pháp các nước Tư Bản – Khoa Luât Đại Học
Quốc gia – 1998
Tuy nhiên trong các cơng trình trên “Sự biến dạng của Chính thể” chỉ là
một phần nhỏ trong một tổng thể các vấn đề khác mà chưa được đề cập một
các sâu sắc.
3. Mục Đích
Làm rõ một số nguồn gốc, sự ra đời của các đặc điểm cơ bản của chính
thể Đại Nghị, phân tích những dấu hiệu cơ bản của chính thể Đại nghị trong
một số nhà nước Tư bản hiện nay từ đó tìm ra được quy luật phát triển của
chính thể Đại nghị qua thời gian và nguyên nhân cũng như giải pháp của sự
biến dạng đó.
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu trên luận văn có nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Phân tích lịch sử q trình hình thành và phát triển của chính thể Đại
Nghị qua nghiên cứu q trình lịch sử của một số nhà nước Tư sản.
-Phân tích đánh giá các đặc điểm đặc trưng cơ bản quan trọng của
chính thể Đại nghị
- Bước đầu so sánh những thay đổi về bản chất của các đặc điểm của
chính thể trong qúa trình lịch sử so với hiện nay từ đó chỉ ra những nguyên
nhân làm thay đổi các đặc điểm đó.

- Đưa ra một số khuyết điểm của chính thể Đại nghị hiện nay và giải
pháp cho sự biến dạng.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu theo các cấp
độ :

7


-Phương pháp luận:
Thuộc phạm vi là một môn khoa học thuộc khoa học xã hội-nhân văn,
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu chính thể
Đại nghị.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Luận văn lấy phương pháp lơgíc-lịch sử làm phương pháp chủ đạo
ngồi ra cịn sử dụng cácn phương pháp khác như:
+ Phương pháp phân tích : Đề tài tập trung phân tích một số đặc điểm
của chính thể Đại nghị.
+ Phương pháp tổng hợp: Đề tài tổng hợp những kết quả đã phân tích
để hình thành cái nhìn tổng quan từ đó quy luật biến chuyển theo thời gian
của chính thể Đại nghị.
+ Phương pháp so sánh: Đề tài tìm hiểu và so sánh các chính thể của
một số nước trên thế giới để khẳng định quy luật chung sự phát triển của
chính thể Đại nghị từ trong lịch sử đến ngày nay.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chính thể nhà nước trong khoa học Luật Hiến Pháp là một vấn đề rất
lớn và phức tạp muốn nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ phải có một giải
pháp tổng thể mà chúng tơi chưa đủ thời gian để tập trung nghiên cứu một
cách hệ thống tồn diện. Trong phạm vi luận văn này, chúng tơi tập trung

nghiên cứu nội dung cơ bản về:
- Làm rõ nguồc gốc hình thành của mơt số đặc điểm cơ bản hình thành
nên chế độ Đại nghị.
- Nêu và phân tích một số đặc trưng của chế độ Đại nghị trong nhà
nước Tư sản hiện đại.

8


- Nêu ra sự biến dạng của các đặc điểm của chính thể Đại nghị và một
số nguyên nhân của sự biến dạng đó.
- Phân tích một số khiếm khuyết của chính thể Đại nghị và đưa ra giải
pháp của sự biến dạng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Luận văn góp phần phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn về tổ chức bộ máy nhà nước Tư sản.
- Luận văn phân tích, so sánh các tiêu chí cơ bản của chính thể Đại
nghị cổ điển với các đặc điểm của chính thể Đại nghị hiện đại ở các nước Tư
sản phương Tây. Phát hiện quy luật biến dạng theo thời gian và đưa ra giải
pháp cho chính thể Đại nghị.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm:
- Phần mở đầu;
- Ba chương;
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.

9



Chương 1
KHÁI NIỆM, HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ
1.1. KHÁI NIỆM CHÍNH THỂ

Chủ nghĩa Mác về Duy vật lịch sử phân tích lịch sử hình thành và phát
triển xã hội lồi người thành năm hình thái kinh tế -xã hội, nhưng chỉ có bốn
hình thái có nhà nước: chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư
bản và chế độ xã hội chủ nghĩa, ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội này là
một kiểu nhà nước. Phù hợp với mỗi một kiểu nhà nước là một bản chất nhà
nước, hay nói cách khác mỗi kiểu nhà nước lại có bản chất nhà nước riêng.
Bản chất nhà nước có thể là một nhưng hình thức nhà nước thể hiện
bản chất thì rất đa dạng phụ thuộc vào từng hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể,
đặc điểm dân tộc khác nhau. Cùng là nhà nước thể hiện bản chất Tư sản,
nhưng hình thức tổ chức lại rất khác nhau. Quy định cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước cũng là quy định hình thức nhà nước.
“Chính thể trong khoa học luật Hiến pháp được gọi là mô hình tổ chức.
Hay nói một cách khác, chính thể phải dựng ra một bộ xương cho cơ thể nhà
nước. Đây là vấn đề quan trọng, góp phần tạo nên cơ sở của mọi hoạt động
nhà nước sau này. Vì vậy chính thể là vấn đề cơ bản nhất của mỗi bản Hiến

10


pháp, đạo luật cơ bản nhất của nhà nước. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của
mỗi một bản Hiến văn là phải lực chọn cho nhà nước một mơ hình tổ chức cơ
cấu thích hợp.” [17, tr 71]
Hình thức chính thể là mơ hình tổ chức hoạt động của nhà nước được
phân tích dưới giác độ tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa các nhánh
quyền lực ( Chủ yếu là Hành pháp và Lập pháp) với nhau và giữa cơ quan nhà

nước trung ương với nhân dân. Qua đó cho chúng ta thấy được quyền lực nhà
nước do ai thống trị và thống trị như thế nào, quyền lực nhà nước được tổ
chức tập trung hay phân tán …
Hay cụ thể hơn hình thức chính thể chính là cách phân tích nhà nước
thành các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng khác nhau: cơ quan thực
hiện chức năng hành pháp, cơ quan thực hiện chức năng lập pháp và các cơ
quan thực hiện chức năng xét xử. Các hoạt động của nhà nước được phân tích
thành ba quyền: quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành pháp.
Tóm lại theo PGS, TS Nguyễn Đăng Dung thì chính thể được định
nghĩa như sau :“ Chính thể là xét mơ hình tổ chức nhà nước dưới giác độ
cách thức thành lập, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ qua cấu
thành nên bộ máy nhà nước. Trước hết là mối quan hệ giữa cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của quốc gia với nhân dân.” [20, tr 56]
Cũng theo PGS, TS Nguyễn Đăng Dung thì việc định nghĩa trên để
giải quyết bốn vấn đề chính liên quan đến cách tổ chức chính trị của mỗi
quốc gia đó là:
- Loại vấn đề liên quan đến căn bản triết lý hay tinh thần của chế độ:
Tại sao quyền chủ thể trong một quốc gia lại được trao cho một người hay
một nhóm người mà thơi? Tại sao nhân dân trong nước lại phục ting người
đó?

11


- Loại vấn đề liên quan đến việc lựa chọn nhà cầm quyền, do phương
pháp chỉ định, hay phương pháp bầu cử, bắt thăm hay suy cử…
- Loại vấn đề liên quan đến cách tổ chức cơ quan năm quyền thống trị.
Vì cơ quan thống trị gồm nhiều bộ phận khác nhau, nên vần đề đặt ra cần phải
đặt sự liên lạc giữa các bộ phận trong cơ quan thống trị đó trên căn bản nào để
có thể điều hồ sự hoạt động của các bộ phận này, nói rộng ra, sự hoạt động

chung của toàn thể cơ quan thống trị của bộ máy chính quyền.
- Loại vấn đề liên quan đến sự hạn chế quyền hành của cơ quan nắm
quyền thống trị. [20, tr 55]
Hiện nay trên thế giới có hai loại chính thể cơ bản đó là chính thể qn
chủ và chính thể cộng hồ. Tương ứng với mỗi chính thể đó lại được chia
thành các chính thể như : chính thể cộng hồ tổng thống, chính thể cộng hồ
đại nghị, chính thể qn chủ lập hiến, chính thể quân chủ chuyên chế…
Khi xác định chính thể, người ta thường dựa vào cách thức thành lập ra
nguyên thủ quốc gia, và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Rồi
sau đó đến cách thức tổ chức, vai trò và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước khác, mà chủ yếu là của các cơ quan Lập pháp và Hành pháp.
1.2 HỒN CẢNH RA ĐỜI CỦA CHÍNH THỂ ĐẠI NGHỊ.

1.2.1 Chính thể Đại Nghị trong lý thuyết phân quyền
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước bao
gồm: quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp đều nằm trong tay một Quân
vương. Xét về hình thức, nhà nước đó là nhà nước quân chủ chuyên chế.
Quyền lực của nhà nước là vô hạn. Cách tổ chức ấy tất yếu dẫn đến sự lạm
quyền và tuỳ tiện. C.Mác có nhận xét rất xác đáng về chế độ đó: “sự tuỳ tiện
là quyền lực của vua, hay quyền lực của vua là sự tuỳ tiện”

12


Để chống lại chế độ chun chế, độc đốn đó, ngay từ thời cổ đại đã
xuất hiện tư tưởng phân quyền ở những mức độ khác nhau. Đại diện điển hình
của các tư tưởng đó là Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristôt (384 – 322 tr.CN).
Platon cho rằng nguyên tắc cơ bản của “ xã hội lý tưởng” là sự phân
công lao động giữa các tầng lớp người khác nhau. Từ đó ơng cho rằng phân
cơng lao động trong bộ máy nhà nước là cần thiết.

Cịn Aristơt quan niệm, hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức
quyền lực chính trị. Theo ơng, nhà nước là một thể thống nhất được tạo bởi ba
bộ phận độc lập: Cơ quan làm luật, Cơ quan hành chính, Cơ quan xét xử.
Trong đó cơ quan làm luật giữa vai trị, vị trí chủ đạo. Ơng cho rằng:
luật thống trị tất cả, các cơ quan hành chính khơng có quyền đó mà chỉ cụ thể
hoá luật và thực thi pháp luật.
Tuy học thuyết của Aristôt chưa đưa ra được những dấu hiệu cơ bản
như học thuyết phân chia quyền lực hiện nay, mà chỉ là sự phân công lao
động, phân công chức năng, thẩm quyền giữa các bộ phận của bộ máy Nhà
nước. Nhưng tư tưởng của ơng đã đặt nền móng cho tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước sau này.
Các học giả tư sản thừa kế tư tưởng phân quyền thời cổ đại và phát
triển thành học thuyết “Phân chia quyền lực”. Vào thời kỳ cách mạng tư sản
thế kỷ XVI – XVII, đại diện là F.Locke và đỉnh cao là S.L.Montesquieu.
Jonh Locke (1632-1704) nhà tư tưởng người Anh đã kế tục và phát
triển tư tưởng của Aristơt. Ơng cho rằng, để đảm bảo quyền các quyền tự do
cơ bản của con người, cần phải hạn chế quyền lực chính trị theo nguyên tắc
phân chia quyền lực, tách quyền hành pháp ra khỏi lập pháp và quyền lực liên
bang (trong tác phẩm “ Hai chuyên luận về chính quyền”, xuất bản năm
1697). Quyền lập pháp do Nghị viện, cơ quan đại diện của nhân dân thực
hiện. Quyền hành pháp và Quyền liên bang thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh

13


đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các bộ trưởng và các quan chức khác,
tuyên bố chiến tranh.
Về tương quan giữa ba quyền thì Locke cho rằng quyền lập pháp phải
là tối cao, nó phải được duy trì mãi mãi và độc lập với các ngành quyền kia.
Ông viết “ Ai có thể đề ra luật lệ cho người khác thì phải được đặt cao hơn.

Chính quyền lập pháp có quyền đề ra pháp luật cho tất cả mọi bộ phận và
thành viên trong xã hội. Quy định cho họ các quy tắc hành vi và đủ sức trừng
trị khi pháp luật bị vi phạm. Cho nên chính quyền lập pháp phải là tối cao và
các ngành quyền khác, với tư cách là thành viên hoặc bộ phận đều bắt nguồn
từ đó và phụ thuộc vào nó”.[13, tr 27]
J. Locke đã muốn trao từng bộ phân quyền lực cho những lực lượng
chính trị xã hội là tư sản và quý tộc phong kiến. Theo ông, trong cơ cấu quyền
lực, quyền lập pháp có vai trị chủ đạo, nhưng khơng tuyệt đối, vì mọi quyền
lực tối cao cịn lại là thuộc về nhân dân, là người có thể giải tán hay thay đổi
thành phần cơ quan lập pháp. Khi mà hoạt động của nó khơng cịn bảo đảm
tín nhiệm với nhân dân. Lý thuyết “phân chia quyền lực của Locke đã soi
sáng cho cả một thế hệ các triết gia của kỷ nguyên khai sáng ở Châu âu và
Tân thế giới – từ Jean Jacque Rousseau ở Pháp đến David Hume ở Tô Cách
Lan, Immamel Kant ở Đức và Thomas Jefferson, Benjamin Franklin ở Hoa
Kỳ. Những người đầu tiên theo gót ơng có lẽ là Montesquieu.
Trong quyển L’ce L’esprit des Lois (tinh thần pháp luật), phát hành
năm 1748, Montesquieu chủ trương phân chia và cân bằng quyền hành giữa
các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp trong chính quyền như một phương
thức để đảm bảo quyền tự do cá nhân. Học thuyết này đã giúp cho sự hình
thành của một nền tảng triết lý của chế độ Đại nghị với sự phân chia quyền
hành giữa nghị viện, hành pháp và tư pháp.

14


Theo Montesquieu để loại trừ khả năng quyền lực nằm trong tay một
người hay một tổ chức tất yếu dẫn đến lạm quyền, cần thiết lập một trật tự
trong đó có quyền lực Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp phải độc lập. Quyền
Lập pháp được chia giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến vì thế nghị
viện có hai viện là Thượng viện đại diện cho qúy tộc và Hạ viện đại diện cho

nhân dân. Quyền hành pháp thuộc qúy tộc và thành lập Chính phủ của nhà
vua nhưng chịu trách nhiệm trước nhân dân trước giai cấp tư sản. Đây cũng là
một điểm đặc trưng của chế độ Đại nghị.
Khác với Locke, Montesquieu coi Tư pháp là quyền độc lập nhưng
không trao cho cơ quan thường trực nào, mà cho cơ quan do nhân dân bầu
theo định kỳ.
Như vậy tư tưởng phân quyền mà J.Locke và S.L. Montesquieu đã thể
hiện khuynh hướng chính trị rõ rệt, nó trở thành cơ sở tư tưởng, phương tiện
đấu tranh dành quyền thống trị vào thời kỳ thực hiện cách mạng Tư sản. Loại
trừ dần giai cấp phong kiến khỏi đời sống chính trị. Giai cấp tư sản khi nắm
được quyền cai trị lại dùng học thuyết này, cường điệu nó như là một ngun
tắc bất biến để phân cơng quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Mặc dù thừa nhận nguyên tắc phân chia quyền lực nhưng ở mỗi nước
lại có các tổ chức quyền lực khác nhau, có những đặc thù riêng. Nhìn chung,
ở các nước Tư sản đương đại có hai hình thức tổ chức quyền lực: Hình thức
phân quyền “ mềm dẻo” và phân quyền “cứng rắn”. Theo cách phân quyền
“mềm dẻo”, vẫn tồn tại ba quyền: Lập pháp hành pháp và tư pháp, nhưng
chúng liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại. Lập pháp có quyền giám sát hoạt
động của Hành pháp và bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ, ngược lại, Chính phủ
có thể giải tán Nghị viện. Chế độ này gọi là chế độ Đại nghị.
Chế độ Đại nghị ra đời là sự chuyển tiếp của chế độ chuyên chế. Tuy
nhiên, trước khi nhà nước từ chế độ chuyên chế chuyển sang chế độ Đại nghị

15


thì nó đã trải qua một giai đoạn xảy ra rất nhanh chóng đó là giai đoạn của chế
độ nhị nguyên ( một chế độ mà ở đó giai cấp Phong kiến vẫn giữ một vai trò
khá quan trọng)
Từ nhận thức như vậy thì chế độ Đại nghị ra đời không phải trùng với

sự ra đời của nghị viện mặc dù yếu tố nghị viện là yếu tố quan trọng của chế
độ Nghị viện. Chế độ Nghị viện chỉ ra đời khi vai trò của Quốc hội thực sự
trở lên lớn mạnh trong sự tương quan giữa Hành pháp và Tư pháp.
1.2.2 Nhà nƣớc Anh – Cái nơi của Chính thể Đại Nghị.
Khn mẫu của chính thể Đại nghị là Anh quốc ( Anh quốc là cái nơi
sinh ra chính thể Đại Nghị), hay mơ hình tổ chức Nhà nước của Anh quốc mà
ở đó các đặc trưng của chế độ Đại nghị được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất.
1.2.2.1 Sự xuất hiện Quốc hội – Cơ quan đai diện cho Nhánh Lập
pháp
Từ thế kỷ XIII tầng lớp thị dân ở Anh đã pháp triển khá đông đảo, các
thành thị được hưởng quy chế tự trị. Trước đòi hỏi về thuế ngày càng tăng của
Nhà vua, vì tiền thu thuế tại giai cấp quý tộc thượng đẳng không đủ để chi phí
cho các cuộc chiến tranh và để chia cho con cháu, vì vậy Nhà vua quyết định
đánh thuế những giai cấp khác .
Năm 1213, vua Jonh yêu cầu các vị quận trưởng đề cử bốn “vị đại
diện” cho mỗi lãnh địa để tiếp xúc với các vị cố vấn của Nhà vua trong phiên
họp Đại hội đồng. Thủ tục triệu tập một số đại diện bằng nhau trong mỗi quận
cũng được các vị vua kế tiếp áp dụng. Trước thực trạng Nhà vua đòi hỏi thuế
ngày một gia tăng, các đại biểu địa phương không tự quyết định mà phải quay
về địa phương xin ý kiến. Từ đó, họ trở thành người giữ vai trị truyền đạt ý
kiến của nhân dân đến nhà vua.
Khơng ai có thể cho rằng vua John và các Nam tước ở Anh là những
con người dân chủ, nhưng văn kiện họ ký ở cánh đồng Runnynede vào năm

16


1215 là một mốc đánh dấu cho việc phát triển chính quyền Hiến định. Các
Nam tước đã nổi giận về điều mà họ cho là nhà vua đã lạm dụng luật pháp cố
hữu của thời kỳ phong kiến đã ban cho họ rất nhiều quyền tự trị trong việc

giao dịch với nhà vua. Khi vua John khước từ lời thỉnh nguyện của họ, các
Nam tước đã mộ binh và buộc nhà vua phải ký bản Magua Carta ( Bản Đại
hiến chương). Bản hiến chương qui định rằng nhà vua phải hội ý và được sự
chấp thuận của tất cả các Nam tước về các vấn đề trọng đại của Quốc gia, kể
cả việc tăng thuế. Trong những thế kỷ sau đó, những qui định này được dùng
để đốn quyết rằng người ta không thể thông qua một đạo luật hay tăng thuế
mà không được sự thoả thuận của cơ quan đại diện cho toàn dân tức là Nghị
viện. Đổi lại các đại diện địa phương cũng đặt yêu sách ngược lại: địi vua
phải nới lỏng chế độ chun chế cơng bố các khoản thu chi từ đó Nghị viện
ra đời.
1.2.2.2 Cuộc đấu tranh giành vị trí ưu thế của Quốc hội
Do sự kỳ thị sâu sắc giữa hai nhóm đại diện q tộc dịng dõi và các đại
diện của tầng lớp thị dân không thể ngồi họp với nhau được, nhà vua đành
phải triệu tập thành hai phòng họp trở thành hai viện Thượng viện và Hạ viện.
Từ đó Quốc hội mở rộng quyền lực, sự phát triển quyền hành của Quốc hội có
thể là một hình thức kiểm sốt việc cai trị của nhà vua. Quốc hội trở thành cơ
quan lập pháp cao nhất, các vấn đề ngân sách thuế má đều thuộc thẩm quyền
của Quốc hội.
Tuy nhiên lúc khởi thuỷ Quốc hội sử dụng ít quyền hành. Cơ quan đó
khơng được tồn thể nhân dân bầu lên và chỉ nhóm họp tuỳ ý muốn của nhà
vua có khi mấy năm Quốc hội mới nhóm họp, Quốc hội khơng có quyền
quyết định mà là pháp viện tối cao xét xử các vấn đề hành chính hay tư pháp.
Ngay đối với những vấn đề đó, đại diện các thường dân trong các tỉnh và quận
khơng được nhóm họp với nhà vua để quyết định. Các đại diện đệ tam giai

17


cấp nhóm họp riêng để trình bày mọi sự khiếu nại cho nhà vua. Mãi tới đời
vua Henri V (1413-1422) họ mới được quyền trình bày kiến nghị.

Lúc đầu, người ta khơng thể quan niệm Quốc hội có thể là một hình
thức để kiểm sốt việc cai trị của Nhà vua. Tuy nhiên, từng giai đoạn sự bổ
nhiệm các vị đại diện giai cấp phong kiến được biến thành Quốc hội, có trách
nhiệm kiểm sốt Nhà vua và sau đó Quốc hội đặt dưới sự kiểm soát của nhân
dân [18, tr 276]
Vào thế kỷ XV, việc nước Anh thất bại trong cuốc chiến tranh kéo dài
hơn trăm năm với Pháp ( 1338-1453) đã thúc đẩy xung đột về quyền lực giữa
hai phe quý tộc dẫn đến “cuộc chiến tranh hoa hồng” ( 1455-1485). Kết quả là
cả hai phe quý tộc đều tổn hại. Điều đó tất nhiên là dịp để Nhà vua củng cố lại
quyền lực. Và quyền lực Nhà vua lại trở thành chiếm ưu thế.
Một chính quyền quân chủ chuyên chế hình thành và được tầng lớp quý
tộc mới, thị dân giàu có ủng hộ. Nhà vua lập tồ án hành chính đặc biệt ( gọi
là tồ án Phòng Sao) nhằm đập tan sự chống đối của các địa phương, cấm các
quý tộc tổ chức quân đội riêng, vai trị của Quốc hội lu mờ. Tuy nhiên triều
đình vẫn phải hỏi ý kiến Quốc hội khi muốn đánh thuế và làm luật (đây là
những quyền nguyên thuỷ của Quốc hội). Có thể nói đây chính là thời kỳ của
chế độ “nhị nguyên”.
Đến thế kỷ 17, nền công nghiệp và thương mại phát triển mạnh, nhưng
nước Anh vẫn duy trì thể chế chun chế phong kiến. Vua nắm tồn quyền cả
Lập pháp và Hành pháp, Tư pháp, đứng trên cả nhà thờ. Vua lập Viện cơ mật
bao gồm những nhà quý tộc nổi tiếng với vai trò cố vấn cho Vua trong việc
điều hành đất nước, là cơ quan tối cao giúp Nhà vua thảo luận, quyết định
những vấn đề trọng đại và bí mật.
Do phải tiến hành các cuộc chiến tranh liên miên, triều đình thường rơi
vào cảnh túng thiếu, nên thường xuyên tăng thuế sản xuất, định ra các loại

18


thuế mới, đòi cho vay cưỡng bức. Xã hội Anh chỉ trích mạnh mẽ hệ thống

điều hành đất nước của Nhà vua, nghi ngờ vua sủng ái đạo thiên chúa. Cả
nước ln ở tình trạng khơng ổn định các phe phái đấu tranh giành quyền lực,
đụng độ quân sự xảy ra liên tiếp. Năm 1640, sau nhiều lần bị giải tán, Nhà
vua phải triệu tập cuộc họp mới của Quốc hội và Quốc hội trở thành Quốc hội
dài hạn, nâng cao vai trị của mình. Các đại biểu Quốc hội tổ chức thành uỷ
ban , chuyển đổi những yêu sách, đòi hỏi của Nhà vua bằng văn bản (đây là
tiền thân của các văn bản dự án luật mà Quốc hội dự thảo). Sự phát triển
quyền hành của Quốc hội hiển nhiên khi Nghị viện dần dà có quyền tu thảo
các dự án, tăng hay giảm thiểu các khoản chi tiêu. Hậu quả là sự ủng hộ Hạ
nghị viện là cần thiết cho nhà vua. Nhưng các Hạ nghị sĩ được hưởng độc lập
hơn các Thượng nghị sĩ đối với nhà vua nên chỉ ủng hộ chương trình hành
động và dự án luật của Quân vương khi nào họ được hiểu biết và chấp thuận
các văn kiện đó. Quốc hội giải tán các tồ án chính trị chun chế, địi huỷ bỏ
giáo hội, tước bỏ quyền lãnh đạo quân đội của Nhà vua, thành lập quân đội
của Quốc hội.
Tuy nhiên, từ 1603 đến 1688 địa vị ưu thế của Quốc hội đã bị lung lay.
Các quân vương Anh không gặp nhiều trở ngại đối với Quốc hội hay nếu có
những sự khó khăn các vị đó cũng giải quyết được. Quyền lực của Quốc hội
lại bị tụt dốc rơi vào chế độ bảo hộ độc tài của Grômôen và con trai ông ta.
Sau khi giải tán Quốc hội dài hạn (1653). Grômôen và hội đồng sỹ quan đã
công bố một bản Hiến pháp mới gọi là công cụ điều hành. Hiến pháp quy
định: Quyền Lập pháp thuộc về một Viện, kỳ họp hàng năm của Quốc hội
không được kéo dài quá 5 tháng, nhiệm kỳ 3 năm, chỉ người giàu mới có
quyền bầu cử. Thực chất, đây là chế độ chuyên chế độc tài của giai cấp tư sản
và giới quý tộc mới. Năm 1658, Grômôen qua đời, Quốc hội khơi phục lại chế
độ bảo hồng, chế độ hai viện như trước. Cuộc đấu tranh giữa các phe phái

19



thống trị dẫn đến sự phân chia thành hai đảng Tories và Whigs. Đảng Tories
(tiền thân của Đảng bảo thủ hiện nay) bao gồm những phần tử bảo hoàng, bảo
thủ, những đại điền chủ. Đảng Whigs ( tiền thân của đảng Tự do hiện nay)
bao gồm những đại diện của giới công nghiệp và thương mại. Đây là mốc
đánh dấu sự ra đời của hệ thống lưỡng đảng tư sản ở Anh.
Cuộc cách mạng năm 1688 đã làm thay đổi rõ rệt diễn trình Hiến pháp.
Năm 1689, Vinhem lên ngơi và ký một văn kiện mà sau này trở thành cơ sở
pháp lý cho nền quân chủ lập hiến Anh- Bản dự luật về các quyền. Văn kiện
này thể hiện sự thoả hiệp giữa Nhà vua và các giai cấp thống trị. Nó đảm bảo
quyền lực tối cao của Quốc hội: Quyền lập pháp, chính sách thuế, tự do tranh
cãi tại Quốc hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân…
Vấn đề trọng yếu là Nhà vua chỉ có thể ban hành đạo luật nếu có sự
chấp thuận của Quốc hội. Nhà vua phải tôn trọng pháp luật và pháp luật chỉ
có thể bị sửa đổi bởi Quốc hội. Kể từ năm 1689, không một vị Quân vương
nào phủ nhận địa vị ưu thế của Quốc hội.
1.2.2.3 Sự xuất hiện Nội các và nguyên tắc Vua không chịu trách
nhiệm
Thế lực vương quyền giảm sút, những phiên họp Quốc hội do Nhà vua
chủ toạ có tính cách hình thức, trong khi đó công việc thật sự của Quốc hội là
công lao của hai viện họp riêng. Ưu thế của Quốc hội ở chỗ vua cai trị qua các
vị bộ trưởng có chân trong Quốc hội. Hơn nữa, các vị bộ trưởng đều được lựa
chọn trong số đảng viên các đảng chính trị. Như vậy hồn cảnh chính trị bó
buộc vị qn vương thu dụng những vị bộ trưởng có thể lực tại Quốc hội. Nếu
được Quốc hội tín nhiệm, các vị đó có thể kiểm sốt cơ quan này. Nhờ hồn
cảnh đó đã phát sinh thủ tục chọn vị Thủ tướng trong đảng phái kiểm sốt
Quốc hội sau này. Từ đó dẫn tới một dây chuyền phụ thuộc. Đó là Nhà vua
muốn có tiếng nói cai trị thì phải chiều lịng các vị bộ trưởng có thế lực trong

20



Quốc hội, mà các vị đó khi phát biểu ý kiến phải căn cứ vào màu sắc chính trị
của đảng mà họ đại diện dẫn tới một hậu quả là Đảng đa số tại Hạ nghị viện
(Quốc hội) có quyền ấn định chính sách, lập trường của nhà vua và các vị Bộ
trưởng phó thị các văn bản mà nhà vua ký. Họ phải chịu trách nhiệm về các
văn kiện đó. Trước hồn cảnh đó, các vị cố vấn của nhà vua thường tự nhóm
họp trong các phiên vắng mặt nhà vua để quyết định trước đường lối khuyên
răn nhà vua. Sự tiến triển này càng được phát huy khi vua Geoge ( 17141722), Ông vua xuất thân từ một cơng quốc Đức, nói tiếng Anh khơng thạo
nên khơng muốn tham gia các cuộc họp viện cơ mật. Vì vậy Viện cơ mật cử
viên thượng thư thứ nhất, người có uy tín nhất điều khiển phiên họp. Từ đó,
tạo thành một tiền lệ: Vua không tham gia vào việc nhà nước, khi vua không
tham gia vào việc nhà nước dẫn tới vua không chịu trách nhiệm trước bất cứ
một sai phạm nào – Vua trị vì mà khơng cai trị. Sau này viên thượng thư thứ
nhất được gọi là Thủ tướng, Viện viện cơ mật chuyển thành Nội các.
1.2.2.4 Xuất hiện nguyên tắc chịu trách nhiệm của Chính phủ trước
Nghị viện .
Như vậy, Thủ tướng và nội các không phụ thuộc vào nhà vua họ chỉ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Nội các chỉ trình bày với nhà vua những lời
khuyên răn hợp với chính sách của Đảng chính trị mà Nội các là một phần tử.
Nội các không thể trình bày những ý kiến khác vì e ngại Quốc hội có thể bỏ
phiếu lật đổ Nội các. Từ lý do đó dẫn đến việc hình thành thủ tục trách nhiệm
của nội các, Nội các phải được hạ viện tín nhiệm hay phải từ chức.
Do vai trò của Quốc hội tăng, nên khi nhà vua bổ nhiệm các vị bổ
trưởng phải được Quốc hội tín nhiệm. Quốc hội có quyền truy tố các vị Bộ
trưởng. Để chống lại sự lạm dụng quyền truy tố của Quốc hội luôn đe doạ các
vị Bộ trưởng (nhiều người phải từ chức hay bị cách chức). Nội các đi đến nhất
trí là nếu bất cứ bộ trưởng nào bị đe doạ thì các tập thể nội các cùng chịu

21



trách nhiệm và cùng tuyên bố từ chức. Điều này trở thành áp lực đối với Quốc
hội và hình thành nguyên tắc “ Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội,
hai cơ quan này đều có quyền giải tán lẫn nhau”

22


Chương 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢNCỦA CHÍNH THỂ ĐẠI NGHỊ
2.1. NGHỊ VIỆN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CHO NHÂN DÂN CÓ QUYỀN
LỰC TỐI CAO

2.1.1 Tính tối cao của Nghị viện đƣợc quy định trong Hiến Pháp
Một dấu hiệu không thể thiếu được của chính thể đại nghị là việc tuyên
bố nguyên tắc quyền lực tối cao của nghị viện.
Học thuyết “ tam quyền phân lập” chỉ ra rằng: Trong cơ cấu tổ chức bộ
máy Nhà nước, Nghị viện đóng vai trị là cơ quan đại diện. Vai trò này đồng
thời cũng biểu hiện tính chất của nghị viện. Nghị viện được xem là cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân của một Quốc gia.
Nhà tư tưởng J. Roussrau (1712 – 1778) – người ủng hộ quan điểm tính
thống nhất của quyền lực tối cao cho rằng “ Quyền lực có nguồn gốc từ nhân
dân, Nghị viện là cơ quan do nhân dân thành lập, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, bởi vậy Nghị viện có quyền tối cao, cho nên Nghị viện
khơng những có quyền lập pháp mà cần có quyền thành lập Chính phủ và
giám sát hoạt động của chính phủ”.
Theo V.I.Lenin: “ Chế độ đại nghị là chế độ mà ở đó, Nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, và tư
pháp. Trong đó, quyền Lập pháp của nghị viện có ưu thế hơn hẳn và những
thành viên của nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra có nhiều đặc quyền, đặc

lợi, nhưng lại không chịu trách nhiệm trước cử tri”. [29, tr 57- 58].
Theo quan điểm của các học giả ủng hộ chế độ Đại nghị thì thành viên
của Nghị viện không đại diện cho cử chi bầu ra họ, mà đại diện cho toàn thể
dân tộc, bởi vậy họ không phụ thuộc vào cử tri và không bị cử chi bãi nhiệm.

23


Khi xét về mối quan hệ tổng thể giữa toàn bộ các thành viên của nghị viện với
toàn thể nhân dân.
Trong thời kỳ cách mạng tư sản và thời kỳ đầu của chủ nghĩa Tư bản tự
do cạnh tranh, Nghị viện với việc tổ chức và tăng cường quyền hạn cho nó,
cũng như kèm theo việc địi hỏi phải chuyển giao quyền lực nhà vua sang cho
Nghị viện đã trở thành yêu cầu bức xúc thời bấy giờ và đã đi vào nhận thức
của nhân dân Anh quốc cũng như của nhiều nước Châu âu khác đang tiến
hành hoặc chuẩn bị cho cách mạng Tư sản. Nhận thức này đã trở thành một
câu ngạn ngữ của người Anh “ Nghị viện được quyền làm tất cả trừ việc biến
đàn ông thành đàn bà”.
Điều này hồn tồn có ý nghĩa rằng: Mọi công việc của nhà nước, cũng
như các công việc của xã hội phải có sự giải quyết của Nghị viện. Mọi vấn đề
có liên quan đến đời sống của nhân dân phải được giải quyết bằng Nghị viên
thì mới đúng, hợp lịng dân.
Như vậy có thể giải thích nguồn gốc của nguyên tắc quyền lực tối cao
của nghị viện qua hai nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: cơ quan đại diện nhân dân - Nghị viên được thiết lập bởi
Hiến pháp, mà Hiến pháp với tư cách là văn bản điều chỉnh việc tổ chức
quyền lực của nhà nước ra đời trong thời kỳ giai cấp tư sản giành chính quyền
từ nhà nước phong kiến chuyên chế, là luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực
pháp lý cao nhất. Hiến pháp đảm bảo cho sự tồn tại và vận hành ổn định của
các thiết chế nhà nước trong đó có Nghị viện.

Hiến pháp thường giành hẳn một trang riêng để nói về quyền lực của
Nghị viện, hoặc giành một đạo luật riêng có hiệu lực như một phần của
nghành luật Hiến pháp để quy định việc tổ chức, thẩm quyền, cách thức hoạt
động của nghị viện. Ví dụ như luật về quy chế Nghị viện Anh năm 1649, luật

24


×