Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

luận văn thạc sĩ Sự ứng xử của nàng dâu với mẹ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.98 KB, 136 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống của con người, dù ở bất cứ lĩnh vực nào thì vấn đề về
con người và mối quan hệ giữa họ cũng trở thành một vấn đề cấp thiết có ý
nghĩa quyết định đầu tiên và trọng yếu đối với hiệu quả hoạt động và hình
thành nhân cách. Điều này đã được C.Mỏc khẳng định: Bản chất con người
không phải là cái gì trừu tượng vốn có, trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Con người luôn luôn sống
trong mối quan hệ xã hội loài người, cách ứng xử của con người tuỳ thuộc
vào nhiều yếu tố mà bản thân mỗi người là một thành viên của cỏc nhúm xã
hội: gia đình, nhà trường, nhóm bạn, cơ quan, dân tộc, giai cấp Như chúng
ta đã biết, gia đình là một tế bào của xã hội. Cuộc sống gia đình tốt hay xấu,
thăng hay trầm phần nào cũng phản ánh được thực tại của xã hội đó. Cuộc
sống hàng ngày càng văn minh thì đòi hỏi gia đình ngày càng phải hoàn
thiện. Bởi gia đình là một xã hội thu nhỏ của một xã hội lớn và cùng hoà
mình vào nhịp phát triển của xã hội lớn, nhất là trong tình hình của đất nước
ta hiện nay đã gia nhập WTO có nhiều thuận lợi và cũng có nhiều thách thức
ảnh hưởng đến toàn xã hội và từng gia đình.
Ngày nay người ta không chỉ quan tâm nhiều đến việc phát triển đời
sống vật chất, mà mọi người càng quan tâm đến đời sống tinh thần của từng
gia đình. Trong đó mối quan hệ giữa nàng dâu mẹ chồng cũng giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng. Nó góp phần xây dựng hạnh phúc trong gia đình, sự bình
ổn của từng gia đình là nền tảng cho sự bình ổn xã hội. Trong các mối quan
hệ gia đình thì ứng xử khéo léo giữa mẹ chồng và nàng dâu cũng đóng vai trò
đáng kể. Ứng xử là biểu hiện của giao tiếp, cách ứng xử như thế nào trong
các mối quan hệ người - người sẽ góp phần quan trọng trong việc biểu hiện
và hình thành nhân cách của mỗi người.
1
Gia đình Việt Nam ngày nay đang chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn
minh nhân loại, nền kinh tế thị trường, vì thế sự quá độ của gia đình Việt
Nam chuyển từ truyền thống đến hiện đại là một quá trình phức tạp. Mặt


khác khi có một thành viên mới xuất hiện, nếp sống gia đình, quan hệ gia
đình ít nhiều bị thay đổi, thậm chí bị đảo lộn. Gia đình nào, thành viên nào
không thích ứng được với sự thay đổi ấy sẽ gặp nhiều chuyện “chẳng lành” -
có sự chưa hiểu biết lẫn nhau, từ đú có cách ứng xử chưa phù hợp giữa mẹ
chồng nàng dâu. Vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến mái ấm gia đình. Đõy
cũng là vấn đề nổi cộm hiện nay.
Thực tế, hiện nay vấn đề mẹ chồng nàng dâu cũng không còn là vấn đề
ảnh hưởng quyết định đến hạnh phúc và bình ổn của con cái như những thập
niên trước kia trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, mối quan hệ mẹ
chồng nàng dâu tuy có cải thiện hơn song ở nơi này, nơi kia, địa phương này,
địa phương kia vẫn còn tiềm ẩn trong tiềm thức sự cách biệt của mối quan hệ
này. Điều đó đã thể hiện từ ngàn xưa câu ca “Thật thà cũng thể lái trâu. Yêu
nhau như thể nàng dâu mẹ chồng”. Vậy thì thực trạng hiện nay mối quan hệ
này biểu hiện qua cách ứng xử của nàng dâu với mẹ chồng và ngược lại như
thế nào. Mặt khác, từ trước tới nay theo chúng tôi biết sách báo, đài, các
phương tiện thông tin đại chúng nói rất nhiều, bàn nhiều về vấn đề này. Song
để tiến hành nghiên cứu với tư cách là một công trình khoa học vẫn còn ít.
Do đó chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sự ứng xử của nàng dâu với
mẹ chồng”.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện ứng xử phù hợp và chưa phù hợp của nàng dâu với mẹ chồng.
Từ đó góp phần nhỏ xây dựng mối quan hệ giữa nàng dâu và mẹ chồng của
giáo viên THCS huyện Thường Xuân, Thanh Hoá.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Sự lựa chọn ứng xử của nàng dâu với mẹ chồng.
2
3.2. Khách thể nghiên cứu .
Nghiên cứu trên 120 giáo viên THCS, và trên 120 mẹ chồng.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Sự lựa chọn ứng xử của nàng dâu là giáo viên THCS với mẹ chồng ở
huyện Thường Xuân, Thanh Hoá.
5. Giả thuyết khoa học
Sự ứng xử của nàng dâu với mẹ chồng còn chưa khéo léo vì vậy ít
nhiều ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt đẹp giữa nàng dâu và mẹ chồng. Nếu
phát hiện được thực trạng ứng xử giữa nàng dâu và mẹ chồng hiện nay một
cách đúng đắn, xác hợp sẽ có những biện pháp tâm lý thích hợp làm tăng
thêm mối quan hệ giữa nàng dâu và mẹ chồng.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
6.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về vấn đề ứng xử và
ứng xử trong gia đình.
6.2. Nghiên cứu thực trạng biểu hiện sự ứng xử của nàng dâu với mẹ
chồng.
6.3 Phân tích sự lựa chọn cách ứng xử trong mối quan hệ của nàng dâu
với mẹ chồng. Từ đó tìm ra được sự ứng xử một cách phù hợp và những
nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ tích cực hay tiêu cực.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Đọc và hệ thống hoá những tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra viết.
- Phương pháp thực nghiệm trong tình huống giả định.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp cụ thể (case study).
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn sâu.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học.
3
8. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận:
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần làm phong phú sâu sắc

thêm lý luận về sự ứng xử và ứng xử trong gia đình.
Về mặt thực tiễn:
- Qua nghiên cứu thực trạng luận văn sẽ phát hiện ra cách ứng xử phù
hợp hay chưa phù hợp của giáo viên THCS huyện Thường Xuân, Thanh Hóa
với mẹ chồng. Từ đó góp phần làm phong phú thêm lý luận về ứng xử đặc
biệt là ứng xử trong gia đình.
- Luận văn đã xây dựng 20 tình huống giả định (những tình huống này
có thể cũng đã xảy ra trong cuộc sống). Từ đó, phát hiện ra cách lựa chọn
ứng xử của nàng dâu với mẹ chồng. Đồng thời, từ đó cũng tìm ra những
nguyên nhân khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Kết quả
giải quyết tình huống của luận văn mong góp phần nhỏ vào giảm thiểu mối
quan hệ tiêu cực giữa mẹ chồng và nàng dâu.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng biểu hiện sự ứng xử của nàng
dâu với mẹ chồng.
Kết luận và kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về ứng xử một cách có hệ thống ở
trong nước và trên thế giới chưa nhiều. Tuy nhiên, vấn đề ứng xử và khéo léo
ứng xử trong quan hệ người - người đã được một số tác giả đề cập đến ở
nhiều góc độ khác nhau.
1.1.1 Ở nước ngoài: đã có nhiều tài liệu của các tác giả khác nhau với
nhiều tên khác nhau đã dịch ra tiếng việt về nghệ thuật chinh phục lòng

người.
- Cuốn sách “đắc nhõn tõm” [8] của tác giả Dule arrnegie được coi như
cuốn cẩm nang cho mọi sự thành công trong giao tiếp - ứng xử giữa con
người - người.
- Tiến sĩ tâm lý học người Mỹ H.G Giainot [11]- viết cuốn cẩm nang về
cách ứng xử với những ai mong muốn con cái thành đạt và hạnh phúc. Tác
giả đã cung cấp thêm cho các bậc cha mẹ một số những liệu pháp trong giao
tiếp - ứng xử với con cái ở lứa tuổi mẫu giáo và nhi đồng.
- Nhà tâm lý học người Nga K.Đ Usinxki với cuốn “Tuyển tập sư
phạm” xuất bản năm 1948 khẳng định: Việc hình thành năng lực khéo léo đối
xử về sư phạm phụ thuộc đặc điểm nhân cách của giáo viên, phụ thuộc trình
độ hiểu của giáo viên về tâm lý học.
- Trong cuốn “những phẩm chất tâm lý của người giỏo viờn” Ph.N
Gụnụbụlin đó giới thiệu những câu chuyện sinh động về sự đối xử khéo léo
hoặc còn vụng về của một số nhà giáo dục Xô Viết cũ. Được coi là tài liệu
quý báu giúp cho giáo viên cú thờm kinh nghiệm trong quan hệ với học sinh.
5
Ngoài ra một số nhà Tâm lý học và giáo dục học Liờn Xụ cũ cũng đã
đề cập đến vấn đề ứng xử như A.X Macarencụ; V.A Cruchetxki; A.V
Petropxki…
Những tác giả trên chủ yếu quan tâm đến vấn đề khéo léo ứng xử về sư
phạm nhưng vẫn còn sơ lược.
- Bên cạnh đú cũn cú một số tài liệu dịch khác liên quan đến vấn đề đối
nhân xử thế như: Cư xử như thế nào của tác giả I.A Axma; Ở sao cho vừa
lòng người; 28 bài học xử thế của Ray mord de saint Laurent [31]; Xử thế
của người nay của K.C Ingram [18] ; Thuật xử thế của người xưa của tác giả
Thu Giang [13] ; Tinh hoa xử thế của tác giả Lâm Ngữ Đường [9]
1.1.2 Ở Việt Nam: Một số tác giả đề cập đến vấn đề ứng xử như:
- Tác giả Ngô Công Hoàn với cuốn "Giao tiếp và ứng xử của cô giáo
với trẻ em” [15] đã đưa ra một số nguyên tắc và phương pháp trong việc giao

tiếp ứng xử của cô giáo với trẻ em mẫu giáo.
- Tác giả Lê Thị Bừng với cuốn “Tõm lý học ứng xử” [5] lần đầu tiên
bàn về một vấn đề phức tạp trong mối quan hệ người - người. Tác giả cũng đã
đề cập đến khái niệm, bản chất, phân loại ứng xử và cỏc cỏch lựa chọn ứng
xử trong các tình huống giao tiếp khác nhau.
Các tác giả Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Ngọc Nam, Nguyễn Hồng
Ngọc với cuốn “Nghệ thuật ứng xử và sự thành công ở mỗi người” [25] đã
đưa ra những nguyên tắc và phương pháp ứng xử giúp con người ít mắc phải
những sai lầm khi giao tiếp, ứng xử với người khác.
Một số những luận văn sau đại học của khoa tâm lý giáo dục trường
Đại học Sư phạm Hà Nội đề cập đến vấn đề ứng xử sư phạm như:
- Đề tài “Tỡnh huống sư phạm và khả năng giải quyết tình huống sư
phạm”của Đàm Thị Thanh ( 1986 ).
6
- Đề tài “Nhận thức của sinh viên về giao tiếp và cách ứng xử trong đời
sống hàng ngày” của Đàm Hoàng Yến ( 1991 ).
- Đề tài “Nghiờn cứu thực trạng sự lựa chọn cách ứng xử của giáo viên
cấp II ” của Vũ Thị Huê ( 1986 ).
- Đề tài “Nghiờn cứu cách ứng xử giữa cha mẹ và con cỏi” của Hồ Thị
Hạnh ( 1998 ).
- Đề tài “Sự lựa chọn cách ứng xử của giáo viên miền nỳivới học sinh
trung học cơ sở” của Triệu Thị Thu Hương ( 1999 ).
Ngoài ra cũn cú những bài viết, những tài liệu, sỏch bỏo…liờn quan
đến vấn đề ứng xử trong gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng,
trong tình yêu đôi lứa, ứng xử trong cơ quan và ngoài xã hội…và những cuốn
sách tham khảo về kinh nghiệm ứng xử cũng đã xuất hiện, việc “đối nhân xử
thế” luôn được coi trọng. Tuy nhiên những vấn đề cơ bản như khái niệm ứng
xử, bản chất, phõn loại…cỏc tài liệu này chưa tập hợp được, chưa đề cập một
cách cụ thể, hệ thống và khoa học.
Tóm lại : Trong xã hội ngày nay việc nghiên cứu ứng xử ở nhiều góc

độ khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, giáo dục, trong
các quan hệ của con người càng trở nên cần thiết và đòi hỏi sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học. Đặc biệt, nó đòi hỏi các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều
hơn, sâu sắc hơn trong vấn đề gia đình đó là mối quan hệ ứng xử giữa mẹ
chồng và nàng dâu ngày càng trở nên tốt đẹp hơn, làm cho gia đình thực sự là
một tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc cho mọi thành viên trong gia đình.
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.1.Khái quát chung về một số thuyết ứng xử
Đầu thế kỷ thứ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Tâm lý học thì
bộ môn Tâm lý học ứng xử cũng xuất hiện - một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ
gây được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Để tìm hiểu kỹ vấn đề này,
7
chúng tôi xin khái quát một số thuyết ứng xử theo các hướng nghiên cứu khác
nhau của một số tác giả tiêu biểu:
1.2.1.1. Thuyết ứng xử của Watson. J ( 1878- 1958)
J. Watson là nhà tâm lý học người Mỹ. Ông là người theo chủ nghĩa
hành vi (do các nhà tâm lý học Phương Tây đề xướng). Ông là người đưa ra
cương lĩnh đầu tiên của tâm lý học hành vi năm 1913. Đồng thời ông cũng là
người đầu tiên lập ra thuyết ứng xử dựa trên những nghiên cứu điều kiện tiến
hóa của Pavlov I.P. Học thuyết hành vi ứng xử (Behaviorison) được ông khởi
xướng năm 1921. Xuất phát từ mô hình nền công nghiệp hiện đại của Mỹ sản
xuất theo lối dây chuyền vào đầu thế kỷ XX xem con người như một cái máy
cơ khí. Thuyết ứng xử do Watson đề xướng đối lập với phương pháp nội
quan, chỉ nhấn mạnh cái bên trong của Wund - nhà tâm lý học Đức ( 1832 -
1920 ). Quan điểm của Watson về ứng xử ( hành vi học ) là:
- Tiếp nhận kích thích, phản ứng (đối xử lại). Điều này, chung cho cả
người và động vật.
- Ở người có khi dùng “hành vi” với nghĩa ứng xử phức tạp, có ý đồ
nhất định.
- Đề ra lý thuyết nghiên cứu về ứng xử - ứng xử về hành vi

(introspecfun) thuyết này đưa ra công thức:
S R
Kích thích → Đáp lại (phản ứng lại)
(Stimulus) (Response)
Vì vậy theo ông: Tâm lý học nói chung và ứng xử nói riêng nghiên cứu
hiện tượng: S – R tức là tác động qua lại giữa chủ thể và môi trường. Ông cho
rằng: ứng xử của cá nhân là quá trình tiếp xúc bên ngoài, cái bên trong (nội
tâm) không thể biết được, nhưng có thể suy diễn vỡ nó là hộp đen không thể
quan sát được. Nếu có nghiên cứu chỉ nghiên cứu được đầu vào và đầu ra. Từ
8
đó, chúng ta có thể nhận thấy quan điểm của ông thừa nhận sự phản ứng của
con người trước tác động của bên ngoài là đúng. Với công thức trên J. Watson
đã tự nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học nói chung và trong tâm
lý học ứng xử nói riêng: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có
thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan. Từ đó có thể điều
khiển hành vi theo phương pháp “thử - sai”. Nhưng Watson đã quan niệm một
cách cơ học, máy móc về hành vi, đem đánh đồng hành vi của con người với
hành vi của con vật. Hành vi theo ông chỉ còn là những phản ứng máy móc
nhằm đáp ứng kích thích với môi trường xung quanh, đồng nhất phản ứng với
nội dung tâm lý bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con
người, đồng nhất phản ứng tâm lý của con người với động vật. Con người chỉ
phản ứng hành vi trong thế giới một cách cơ học máy móc. A.N. Leonchiev
cho thuyết này làm mất tính chủ thể của con người.
1.2.1.2. Thuyết ứng xử của S.Kinner B.F (1904 - 1990).
S.Kinner là nhà tâm lý học Mĩ - Người trực tiếp kế thừa và phát triển
truyền thống hành vi cổ điển của J.Watson, coi hành vi cơ thể là đối tượng
nghiên cứu. Ông là người đại diện cho chủ nghĩa hành vi mới. Ông dùng
phương pháp “điều kiện hóa cú tỏc dụng” để xác định các quy luật của ứng
xử. Ông cho rằng: không thể loại trừ cái chủ quan như ý thức, ngôn ngữ, tư
duy… mặc dù đó là những vấn đề khó giải quyết trong tâm lý học. Theo ông,

không nên quan niệm một cách máy móc là S – R (có kích thích là có phản
ứng) mà phải hiểu rằng trong cơ chế đó có tác dụng tuyển chọn những tiềm
năng phản ứng - quá trình đó cũng giống như quá trình đào thải theo quy luật
sinh học. Đó là: có kích thích có lợi và có kích thích không có lợi, chủ thể sẽ
có phản ứng trả lời với những kích thích có lợi.
Thuyết ứng xử của S.Kinner được vận dụng trong việc nghiên cứu hành
vi xã hội của con người, trong tâm lý liệu pháp và trong giảng dạy chương
9
trình hóa. Theo lý luận này thì ở trong một môi trường cụ thể, một hoàn cảnh
cụ thể, cá nhân có cách ứng xử độc lập. Cách ứng xử như thế nào là phụ thuộc
vào tính chất của kích thích từ bên ngoài, chính kích thích này quy định bản
chất ứng xử của nó. Coi mọi hành vi, hành động của con người như một thứ
phản ứng. Phản ứng ấy có mối liên hệ nhân quả với những biến đổi bên ngoài
theo công thức: kích thích + cơ thể (cả não) = phản ứng .
Có thể nói, ưu điểm của thuyết này là cho phép giải thích cho việc
luyện tập cũng như cung cách mới trong ứng xử có thể phụ thuộc vào sự thay
đổi của những sự kiện bên ngoài có thể. Và lý luận này cho cá nhân là một
thực thể ngoan ngoãn, dễ bảo, muốn thay đổi ứng xử chỉ cần thay đổi những
kích thích tác động tới. Do đó, người ta có thể dự kiến được ứng xử của cá
nhân khi người ta thay đổi yếu tố bên ngoài. Mặt khác có thể kiểm soát điều
chỉnh được hành vi ứng xử của cá nhân trong điều kiện kiểm soát và điều
chỉnh sự kiện của môi trường.
Như vậy dựa vào lý thuyết này cho phép tìm cách xác định khả năng
ảnh hưởng của môi trường trong mối tương tác với con người. Thuyết ứng xử
của S.Kinner, về thực chất như thuyết của J.Watson đều thuộc chủ nghĩa hành
vi nhưng “tế nhị hơn”: chú ý đến sự tác động của môi trường, hoàn cảnh bên
ngoài. Tuy nhiên, S.Kinner cũng phủ nhận tính chủ thể của con người; coi con
người như cỏi mỏy, lệ thuộc vào môi trường.
1.2.1.3. Lý thuyết về liên hệ xã hội
Lý thuyết về liên hệ xã hội quan niệm: Mối dây xã hội là khái niệm cơ

sở vừa đơn giản nhất, lại vừa phức tạp nhất trong tâm lý học xã hội. Mối dây
xã hội là một nét của khả năng sống thành xã hội của thực thể con người.
Mối dây xã hội cú cỏc nghĩa: xác định cách thức tồn tại của con người ;
dạng thức biểu hiện kèm theo như: một tư tưởng, ý nghĩ, cảm xỳc…đặt vào
một hoàn cảnh theo ý nghĩa: mỗi người trong hoàn cảnh giao tiếp, một môi
10
trường xã hội được thể hiện, trao đổi bằng cách này hay cách khác; mối dây
xã hội chỉ ra những hình thức ảnh hưởng riêng biệt tác động tới ứng xử; và
giao tiếp là một trong những phương tiện thiết lập mối liên hệ: cá nhân với
ông bà nội ngoại, với bố mẹ, anh chị em, nhóm bạn, tập thể, cộng đồng.
Sự hình thành mối dây liên hệ xã hội bao gồm:
+ Sự gắn bó: Sự gắn bó có thể định nghĩa như một liên hệ tình cảm nối
liền hai cá nhân lại thông qua sự xác định giá trị và tầm quan trọng mà người
này đối với người kia. Xoay quanh về khái niệm gắn bó có một số quan niệm:
- Quan niệm thứ nhất: coi gắn bó như một liên hệ xã hội có tính bản
năng.
- Quan niệm thứ hai: định nghĩa nó như một liên hệ dành được, đáp lại
những chăm sóc đối với đứa con.
- Quan niệm thứ ba: lý luận của Bomlly (nhà tâm lý học người Pháp) đã
tổng kết hai quan niệm trên. Theo ông, sự gắn bó là: một liên hệ xã hội có tính
bản năng dựa vào những năng lực bẩm sinh ở trẻ em. Những năng lực này
được thực hiện để đáp lại sự chăm sóc của người mẹ đối với con. Sự gắn bó
như một hành vi tương tác nhằm thiết lập liên hệ với những người xung
quanh mang lại cho trẻ một số chăm sóc và chú ý vào đó như: nó được tạo ra
để đáp ứng với cỏc cỏch bố, mẹ chăm sóc con cái; nó cũng trở thành riêng
biệt hơn cùng với sự phát triển lớn lên dần của đứa trẻ được xác định bằng
cách phân hóa dần giữa bố mẹ và con cái.
+ Xã hội hóa: xã hội hóa bao trùm sự phát triển của khả năng sống
thành xã hội (Sociabilitộ) tức là những kiểu luyện tập khác nhau mà cá nhân
đã trải qua. Thể hiện mối quan hệ với xung quanh và nhu cầu căn bản như:

nhu cầu gia nhập; nhu cầu kiểm soát; nhu cầu tình cảm
Những quy định tâm lý xã hội của sự liên hệ: Sự gần gũi; sự thân
thuộc; khoảng cách; và sự giống nhau bổ xung…
11
Sự hấp dẫn thể chất: sự hấp dẫn thể chất quy định các quan hệ giữa các
cá nhân với nhau. Bởi vì, vẻ đẹp thể chất tự nó trở thành một yếu tố đánh giá
người khác. Điều đó chứng tỏ sự đánh giá về vẻ đẹp cũng đã tham dự vào mọi
liên của con người .
Tóm lại, những người theo lý thuyết liên hệ xã hội cho rằng, con người
là một thực thể liên hệ, tức là con người không sống độc lập mà sống trong
mối liên hệ với môi trường và người khác, các mối liên hệ này nói lên bản
chất xã hội của cá nhân, nó biểu hiện khả năng sống của cá nhân. Giao tiếp
được xem là phương tiện thiết lập các mối liên hệ. Trong cuộc sống mỗi cá
nhân đều có những mối dây liên hệ với người khác theo cách nào đó với ông
bà nội ngoại, với bố mẹ, anh chị em…Trong mỗi mối liên hệ đó, con người
được đưa vào một cấu trúc xã hội phức tạp, nó định hướng cho hoạt động của
con người. Các mối dây liên hệ của con người với những người khác được
hình thành nhờ nhu cầu được dựa vào người khác, coi sự có mặt của người
khỏclà cần thiết cho việc theo đuổi mục đích của mình, biểu hiện cao của nhu
cầu thiết lập các mối dây liên hệ xã hội là nhu cầu gần gũi, gắn bó với người
khỏc…Chớnh từ những nhu cầu được tham gia vào các mối quan hệ xã hội,
mức độ gắn bó thân thuộc…ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử của con
người trong các mối quan hệ xã hội - vì bản chất của con người là tổng hòa
cỏc mối quan hệ xã hội.
1.2.1.4. Thuyết ứng xử của Piaget. J (1896 - 1980)
J. Piaget là nhà tâm lý học người Thụy Sĩ. Theo ông ứng xử là tập hợp
các kích thích của cơ thể đối với những tác nhân kích thích bên ngoài và có sự
phản ứng lại của con người một cách thích hợp.
Quan điểm của ông xuất phát từ hai quan niệm:
12

Quan niệm thứ nhất giải thích bằng hiện tượng liên tưởng: Từ những
kích thích này nó quan hệ đơn phương, nghĩa là kích thích ban đầu dẫn đến
kết quả, hậu quả của kích thích sau (S → R).
Quan niệm thứ hai được giải thích theo cơ chế đồng hoá (S → R).
Piaget cho rằng không có quan hệ đơn phương một chiều mà theo ông thì phải
có sự tác động qua lại.
Theo Piaget thì kích thích (S) phải đi qua cơ thể mới có thể xử lý kích
thích, xử lý thông tin và ghi vào bộ nhớ (kinh nghiệm).
não
Tức là: S → R
Như vậy, R khác nhau vì bộ nhớ khác nhau, tuỳ từng kinh nghiệm, tri
thức, lứa tuổi, hoàn cảnh khác nhau mà con người có sự tiếp thu, phản ứng
với kích thích bên ngoài. Vì vậy phải làm thế nào để kích thích tác động từ
bên ngoài phù hợp với khả năng xử lý. Chính cơ chế này là phản ứng của sự
đồng hoá chứ không phải là sự liên tưởng có chọn lọc, chấp nhận nó, biến
thành cái của nó có tính chủ chủ thể. Như vậy, sự đồng hoá là cơ chế chủ yếu
tạo ra sự thích ứng với yêu cầu của tác động với khả năng phản ứng của con
người.
(S↔A↔R hoặc S↔R).
Có như vậy mới tạo ra cái mới, cách ứng xử mới biến đổi cái cũ.
Theo ông, nhà giáo dục phải xây dựng hành vi ứng xử của con người từ
thấp đến cao, chất lượng đồng hoá phải tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
(A). Vì vậy, đặc điểm nổi bật của quan niệm về ứng xử của Piaget chính là
chủ nghĩa hành vi, xây dựng hành vi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp và nhấn mạnh tính chủ thể của ứng xử. Như vậy, so với thuyết của Watson
và Skinner, thuyết của Piaget có sự tiến bộ, phù hợp với quan điểm hoạt động.
13
1.2.1.5. Thuyết ứng xử của Anokhin P.K
P.K Anụkhin đó dựng thực nghiệm chứng minh được rằng: thành phần
và tính chất của tập hợp các cơ chế thừa hành để tạo ra hành vi không mang

theo tính chất của các kích thích ban đầu là nguyên nhân xuất hiện hành vi. Sở
dĩ có hiện tượng này vỡ cỏc chức năng tham gia vào quá trình hình thành
hành vi ứng xử không phải là các phản xạ đơn thuần, mà nó là các hệ thống
chức năng. Mỗi hành vi ứng xử được các hệ thống chức năng cơ động từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Theo Anụkhin, hình thành hành vi ứng xử có 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn tổng hợp hướng tâm: đây là giai đoạn xảy ra hiện tượng tiếp
nhận thu lượm tổng hợp các kích thích để đưa ra mức khởi đầu. Trong hệ
thống chức năng cơ động có hệ thống các “bộ mỏy” tiếp nhận làm nhiệm vụ
thu lượm thông tin của môi trường xung quanh đó là các cơ quan giác quan.
Ngoài ra cũn cú cỏc thông tin ở các phần não khác nhau để tạo nên sự tổng
hợp ban đầu có chất lượng cao.
- Giai đoạn đưa ra cách giải quyết vấn đề: Đây là giai đoạn hình thành
mục đích của chương trình hành động.
- Giai đoạn hình thành kết quả và cho thông tin ngược:
Theo ông, khi hình thành hành vi ứng xử ở giai đoạn này biểu hiện qua
3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Giai đoạn định hướng:
Đây là giai đoạn tổng hợp hướng tâm, giai đoạn này chính là khoảng
thời gian từ lúc kích thích đến khi bắt đầu có phản ứng vận động. Bên cạnh
các thông tin mở đầu tổng hợp hướng tâm còn thu lượm cả các thông tin về
tình huống. Đó là tình huống mà trong đó sẽ phải diễn ra hành động; cảm xúc
và trí nhớ cũng tham gia vào giai đoạn này. Cảm xúc xuất hiện khi cú kích
thích từ môi trường tác động đến sự điều khiển của hệ limbic. Trong giai đoạn
14
này cũng có sự tham gia của trí nhớ, đó là các kinh nghiệm mà có thể thu
lượm được trong quá trình sống. Đó là những tri thức đã biết trước, những
cảm giác riêng biệt về màu sắc, âm thanh, hỡnh dỏng…liờn kết lại với nhau
thành hình ảnh của tri giác và hỡnh đú được lưu giữ lại trong trí nhớ. Quá
trình trí nhớ bắt đầu xuất hiện khi ta nhận biết, phân biệt được các dấu hiệu

khác nhau.
Trong quá trình hình thành hành vi ứng xử, trí nhớ là hiện tượng tích
luỹ “vốn” để sử dụng kinh nghiệm khi cần thiết. Trí nhớ dài hạn liên quan
đến hệ limbic, trí nhớ ngắn hạn liên hệ với cơ chế hoạt động của nơron.
+ Giai đoạn 2: Giai đoạn điều khiển: là giai đoạn bắt đầu thực hiện
chương trình hành động và phác thảo ra kết quả.
+ Giai đoạn 3: Giai đoạn điều chỉnh kết quả hành động và cho thông tin
ngược chiều.
Điều chỉnh kết quả hành động nảy sinh khi thực hiện chương trình ứng
xử sẽ làm xuất hiện thông tin này và sẽ được thu nhận để đối chiếu hành động
ứng xử và mức độ đủ hay chưa đủ. Nếu đủ sẽ chuyển sang hành động tiếp
theo. Nếu chưa đủ sẽ tiếp tục điều chỉnh cho tương ứng với chương trình hành
động và với mục đích ban đầu nhằm đạt đến hành vi ứng xử phù hợp. Như
vậy, có thể nói rằng, mỗi hành vi ứng xử của con người trong các tình huống
nhất định đều phải dựa vào việc sử dụng các thông tin toàn diện về các dấu
hiệu trong các tình huống kích thích bên ngoài. Để hình thành một hành vi
ứng xử trong một tình huống giao tiếp nhất định, trong một không gian, thời
gian nhất định, với các đối tượng khác nhau có sự tham gia của nhiều yếu tố
sinh lý và tâm lý. Do đó, trong cùng một tình huống nhưng trong hoàn cảnh
khác nhau, ở mỗi người khác nhau sẽ có cách ứng xử khác nhau.
Thuyết của P.K Anụkhin về ứng xử đã bổ xung, nâng cao hoàn thiện
quan điểm của I.P Paplụp. Học thuyết phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý
15
thần kinh của mọi hoạt động tâm lý của I.P Paplụp là đúng nhưng chưa đầy
đủ vì như vậy, mọi hành vi của con người sẽ theo đường mũn: cỏc kích thích
như nhau thì có hành vi ứng xử trả lời như nhau. Thực ra trong thực tế, các
hành vi ứng xử của con người không phải là sự tổng hợp các yếu tố thần kinh
đơn thuần. Muốn có hiện tượng tâm lý phải có hai điều kiện cần và đủ là: thế
giới khách quan (sự tác động của người khác trong quá trình giao tiếp) và não
bộ.

Thế giới khách quan tác động vào não thông qua giác quan làm xuất
hiện hiện tượng tâm lý tạo ra hành vi trả lời. Vì vậy học thuyết của P.K
Anụkhin giỳp chung ta giải thích các hện tượng tâm lý đầy đủ hơn.
Paplụp đưa ra cung phản xạ gồm 3 khõu: khõu nhận kích thích từ bên
ngoài; khâu trung ương thần kinh (nảy sinh hiện tượng tâm lý); khâu trả lời
kích thích. Anụkhin cho rằng: riêng con người cú “khõu thứ 4” là mối liên hệ
ngược để hoàn thiện cung phản xạ. Điều này giúp chung ta giải thích được cơ
chế tự điều khiển, điều chỉnh hành vi ứng xử của con người.
Như vậy, quan điểm của P.K Anụkhin dựa trên cơ sở của học thuyết I.P
Paplụp đó căn cứ vào vai trò, chức năng của vỏ não, của hoạt động thần kinh,
của phản xạ có điều kiện để giải thích có cơ sở khoa học, biện chứng về cơ sở
sinh lý của các hiện tượng tâm lý, trong đó có hành vi ứng xử của con người.
Học thuyết của ụng đó hoàn chỉnh, phát triển học thuyết phản xạ có điều kiện,
cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm lý của I.P Paplụp, mặt khác ông cũng
phê phán sai lầm, phiến diện của các thuyết về ứng xử của chủ nghĩa hành vi.
Trên đây là một số nét khái quát về thuyết ứng xử của một số tác giả
tiêu biểu làm cơ sở cho việc nghiên cứu hành vi ứng xử của con người. Các
tác giả đều giải thích cơ sở của cỏc hịờn tượng tâm lý dưới góc độ khác nhau
và ít nhiều đều bộc lộ hạn chế của mình. Trong đó quan điểm của P.K
Anụkhin giỳp chúng ta giải thích cơ sở các hiện tượng tâm lý ở con người đầy
16
đủ hơn, khoa học hơn. Để phục vụ cho việc nghiên cứu đầy đủ, hoàn thiện
hơn, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu một số vấn đề lý luận khác đề cập trực tiếp
đến vấn đề ứng xử trong tâm lý học.
1.2.2 Vấn đề ứng xử trong tâm lý học
1.2.2.1. Khái niệm ứng xử
Khái niệm ứng xử đang được sử dụng nhiều trong cuộc sống cũng như
trong lĩnh vực tâm lý học, nhất là trong bộ môn tâm lý học giao tiếp, tâm lý
học ứng xử. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về ứng xử, chúng tôi sẽ đưa ra
một số khái niệm mà một số tác giả cũng như một số từ điển đề cập đến vấn

đề ứng xử.
Theo tiếng Anh, ứng xử là Behavior, dịch ra tiếng việt là: Ứng xử và
hành vi. Cụm từ ứng xử nếu tách riêng từng từ chúng ta sẽ được từ “ứng”
thường chỉ phản ứng chung cho cả người và động vật. Từ phản ứng rất chung
cho bất kỳ một kích thích nào vào cơ thể sống đều có phản ứng đáp lại quy
luật phản ứng tuân theo quy luật sinh học, sự phức tạp của phản ứng là một
chuỗi phản xạ kế tiếp nhau tạo thành hành vi “khụn ngoan”.
Theo từ điển học sinh [35]: ứng xử gồm có: ứng biến, ứng đối, ứng
phó.
+ Ứng biến: là giải quyết công việc một cách kịp thời và sát hợp với
tình hình và những biến đổi bất ngờ.
+ Ứng đối: là sự nhanh trí, thông minh đối đáp lại với những người hỏi
vặn mình giành thế thế chủ động và dồn họ vào thế bị động.
+ Ứng phó: là sự đối xử một cách kịp thời và sát hợp với mọi tình thế
diễn ra bất ngờ, nếu không ứng phó kịp thời con người sẽ bị lúng túng
Theo từ điển Tiếng Việt (của Viện hàn lâm viện ngôn ngữ Việt Nam)
[36] ứng xử bao gồm: ứng phó, xử sự, xử thế.
+ Ứng phó: chủ động đối phó một cách kịp thời .
17
+ Xử sự: giải quyết như thế nào đó những việc giữa mình với những
người khác, biết cách ứng xử có lý có tình.
+ Xử thế: biết cách đối xử với người đời.
Theo từ điển điển Hán Việt của Đào Duy Anh: Trong xã hội con người
luôn luôn phải giao tiếp với người khác và trong những tình huống cụ thể do
tác động của hoàn cảnh con người có ứng xử thích hợp để đạt kết quả tốt
trong giao tiếp. Ông giải thích các khái niệm:
+ Ứng: Không chủ động hành vi giao tiếp đến với mình mà con người
lựa chọn hành vi thái độ thích hợp nhất đối với mình để đáp lại sự tác động
của người khác (nghĩa là con người chủ động đối lại với thế giới khách quan).
+ Xử: là chủ động với đời, giúp đời và làm việc với đời và có thái độ

tuỳ thời để có hành vi với mình, cho dù thời thế có suy vong thì con người
dùng tài và đức của mình để cải tạo tình thế đó làm cho tình thế tốt lên. Vì
vậy, ứng xử là thái độ tích cực của con người tuỳ theo thời thế và hoàn cảnh.
Cư xử khác với ứng xử :
Cư: Nặng về mình, tự mình khuyờn mỡnh, tự mình tìm ra thái độ hành
vi thích hợp để đứng vững trong cuộc đời .
Xử: Sự phản ứng tích cực với khách quan khi có sự tác động vào con
người ta.
Hiện nay,trong tâm lý học, thuật ngữ ứng xử được hiểu theo 2 hướng:
+ Theo nghĩa rộng: ứng xử được hiểu là toàn bộ những phản ứng thể
hiện ở thái độ của chủ thể trước mọi tác động của thế giới khách quan. Theo
khái niệm này thì ứng xử thể hiện ở cả người và động vật.
+ Theo nghĩa hẹp: ứng xử dùng để chỉ những phản ứng thể hiện thái
độ, hành vi, cử chỉ của con người trong tình huống có vấn đề nào đó diễn ra
trong quá trình giao tiếp. Ứng xử theo nghĩa hẹp không có ở động vật, chỉ có
ở con người.
18
Từ đó cho ta thấy, để ứng xử thành công con người cần một số phương
tiện sau:
Thứ nhất: ứng xử bằng ngôn ngữ: ngôn ngữ trong giao tiếp - ứng xử
được thể hiện qua:
Giao tiếp - ứng xử bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: Sự ứng xử bằng phương
tiện phi ngôn ngữ là ứng xử không dùng lời nói, chữ viết, mà dùng những dấu
hiệu phi ngôn ngữ như: cử chỉ, điệu bộ, nột mặt…cú ý nghĩa thông tin và tình
cảm trong giao tiếp.
Giao tiếp - ứng xử bằng ngôn ngữ nói, viết: đây là loại biểu hiện ứng
xử chủ yếu của con người. Thể hiện qua cách chào hỏi, nói chuyện, lời
khuyên, sự ra lệnh…
Thứ hai: Ứng xử bằng hành vi: Văn hóa trong hành vi là một bộ phận
không tách rời văn hóa xã hội loài người. Thông qua cách thể hiện hành vi

như: cử chỉ, điệu bộ, cách nói năng, đi đứng…của con người chúng ta có thể
nhận xét người đó có văn hóa hay không. Hành vi của con người diễn ra trong
những tình thế khác nhau, trog mối quan hệ với cuộc sống, với giáo dục.
Như P.Ăng ghen đã nhận xét: Đặc điểm cá nhân không chỉ ở chỗ cá
nhân đó làm gì mà còn ở chỗ họ làm như thế nào?.
P.X Iacụpxơn - nhà tâm lý học của Liờn Xụ (cũ) đã nhận xét sâu xa
rằng, vấn đề ở chỗ khi đánh giá một con người không chỉ xem họ làm nghề gì:
bác sĩ, kỹ sư, nhà nông học, người thầy giỏo…mà điều cơ bản là xem họ làm
việc đó như thế nào?.
Bởi vì, trong thực tế cuộc sống, hành vi, cử chỉ của con người có thể
thay đổi, biến dạng trong không gian và thời gian nhất định, tùy tình thế và
hoàn cảch giao tiếp mà con người ta gặp. Đồng thời tùy vốn tri thức, kinh
nghiệm, nhân cách, sự giáo dục và tự giáo dục mà con người có hành vi, cử
chỉ khác nhau qua cách ứng xử của họ.
19
Thứ ba: Ứng xử bằng xúc cảm, tình cảm.
Xúc cảm, tình cảm là một kiểu thái độ thể hiện sự rung động của con
người đối với đối tượng giao tiếp, phụ thuộc một phần quan trọng vào mối
quan hệ giữa chủ thể với đối tượng giao tiếp vì tình cảm là một kiểu thái độ
riêng của cá nhân, thể hiện sự rung động của con người trong các mối quan hệ
với sự vật, hiện tượng gắn với nhu cầu, động cơ của họ. Vì vậy, mọi cảm xúc
yêu thương, vui buồn, hờn giận, lạnh nhạt hay nhiệt tình hồ hởi… thường
được thể hiện qua cách ứng xử của họ.
Bởi vậy, K.D Usinxki (nhà giáo dục Liờn Xụ cũ) đã viết: Không một từ
nào, không một thái độ, hành vi, cử chỉ nào lại biểu thị bản thân chúng ta
bằng chính tình cảm của chúng ta. Trong đó, ta nghe thấy không phải từng cử
động riêng lẻ, từng phản ứng riêng lẻ mà là toàn bộ thế giới tâm hồn của
chúng ta. Vì vậy, tình cảm có thể giả tạo nhưng không thể lừa dối, tình cảm là
một kết cấu sâu kín nhất của nhân cách con người.
Tác giả Ngô Công Hoàn cho: “ứng xử là những phản ứng hành vi của

con người nảy sinh trong quá trình giao tiếp, do những rung cảm cá nhân kích
thích nhằm truyền đạt, lĩnh hội tri thức, vốn sống, vốn kinh nghiệm của cá
nhân và xã hội trong những tình huống nhất định” [15, 37].
Qua các khái niệm trờn thỡ ứng xử có một số đặc điểm sau:
1. Có tình huống tác động thì mới có ứng xử. Ứng xử là phản ứng tâm
lý của con người - là một hiện tượng tâm lý. Trong ứng xử, con người không
chủ động về tình huống tác động nhưng hoàn toàn có thể chủ động về phản
ứng đáp lại.
2. Các tình huống tác động đó tạo ra một trạng thái tâm lý đặc biệt ở
con người, nó kích thích con người tư duy để tìm cách giải quyết trên cơ sở
vận dụng toàn bộ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sống của bản thân.
20
Vì vậy, con người luôn luôn thể hiện trình độ văn hóa, nhân cách, nhân sinh
quan của mình trong mỗi cách ứng xử.
3. Các tình huống tác động đó buộc con người phải bộc lộ thái độ, hành
vi, cử chỉ, lời núi…để đáp lại, để giải quyết.
Từ những quan niệm về ứng xử nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về
ứng xử như sau:
Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người
khác trong những tình huống xác định. Ứng xử thể hiện sự không chủ động
trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, tính toán, thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tùy thuộc vào tri thức, nhân
cách nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất.
1.2.2.2 Phân biệt giao tiếp và ứng xử
Trong tâm lý học giao tiếp được định nghĩa là: sự tiếp xúc tâm lý giữa
người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về
cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Nói cách
khác, giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa
cỏc quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể khác.
Còn ứng xử được thực hiện bởi các cá nhân cụ thể. Mỗi cỏc nhõn cú

đặc điểm phát triển thể chất khác nhau, thao tỏc,hành vi, phản ứng của mỗi
cỏc nhõn cũng khác nhau ở tốc độ, cường độ, nhịp độ và tính chất. Nhưng
ứng xử bao giờ cũng được thực hiện trong các quan hệ xã hội nhất định, chịu
sự chế ước chuẩn mực, khuôn mẫu của các quan hệ đó.
Như vậy, ứng xử thuộc về lĩnh vực giao tiếp nờn nó cũng phải mang
những dấu hiệu chung của giao tiếp. Tuy nhiên, ứng xử và giao tiếp là hai
khái niệm khác nhau, giữa chỳng cú sự thống nhất với nhau nhưng không
đồng nhất.
21
Ứng xử là sự thể hiện của giao tiếp khi có sự tác động bên ngoài nhưng
không phải bất cứ sự giao tiếp nào cũng có ứng xử. Tuy nhiên, có ứng xử xảy
ra nghĩa là đã thể hiện quỏ tỡnh giao tiếp cụ thể mà ở đó có sự diễn ra trạng
thái tâm lý căng thẳng ở con người, buộc con người tư duy để giải quyết.
Ứng xử không những thể hiện hành vi, cử chỉ, thái độ, lời nói của từng
cá nhân mà còn thể hiện hành động, thái độ, nguyện vọng, ý đồ, mong
muốn của một nhóm, cộng đồng hoặc thiết chế xã hội. Có nghĩa là ứng xử
vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính chất xã hội. Những ứng xử mang
tính chất cá nhân là những ứng xử thể hiện thái độ, thế giới quan, nhân sinh
quan của cá nhân đó không đại diện cho nhóm, tập thể nào mà “lấy bản thân
làm trung tõm” khi lựa chọn cách ứng xử. Những ứng xử mang tính chất xã
hội là những ứng xử biểu hiện hành vi, cử chỉ, thái độ, nguyện vọng đại diện
cho một nhóm, cho cộng đồng hoặc thiết chế xã hội. Những ứng xử này dựa
trên cơ sở “nhỡn mỡnh như một công cụ hay một yếu tố để thực hiện mục tiêu
lớn hơn của xã hội”.
Con người là một thực thể xã hội, luôn phải tuân thủ những quy định
chung của xã hội. Xã hội luôn đòi hỏi sự phù hợp giữa những ứng xử theo
nhu cầu, sở thích cá nhân với ứng xử theo yêu cầu chung của xã hội. Trong
thực tế, bất cứ người nào tham gia vào mối quan hệ xã hội cũng đều đại diện
cho một “vai” nào đó. Vì thế, ứng xử của mỗi cá nhân luôn phải phù hợp với
“vai” mà họ đại diện.

Xét về mức độ thể hiện thỡ cú những ứng xử mang tính chất cảm tính,
có ứng xử mang tính chất lý tính. Trong sự hình thành và phát triển của cá
nhân, thông thường ở trẻ em ứng xử mang tính chất cảm tính. Lớn lên, ứng xử
mang tính chất lý tính càng chiếm ưu thế. Ta có thể hiểu: ứng xử cảm tính là
có tính bột phát, dựa vào những quan sát trực tiếp bằng giác quan. Ứng xử
mang tính chất lý tính, là những ứng xử dựa trên cơ sở tư duy bằng ngôn ngữ.
22
Ở một cá nhân, ứng xử cảm tính và ứng xử lý tính có quan hệ chặt chẽ, gắn bó
với nhau. Có những lúc, những nơi, những hoàn cảnh con người ứng xử một
cách bột phát, thiếu suy nghĩ. Nhưng trong cuộc sống xã hội, ứng xử lý tính
có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, trước một tình huống nếu có sự suy nghĩ rõ
ràng, tìm hiểu nguyên nhân; tính toán trước những ưu, nhược điểm của cách
giải quyết. Từ đó, có cách ứng xử phù hợp bao giờ cũng đem lại kết quả tốt
hơn.
Trong ứng xử người ta thường chú ý đến nội dung tâm lý hơn là nội
dung công việc. Giao tiếp chú ý để đạt mục đích nào đó, ví dụ như: mục đích
kinh tế, văn hóa, giáo dục… Nhưng ứng xử thì quan tâm đến “cỏi ý của cỏ
nhõn” biểu hiện qua hành vi, cử chỉ. Như vậy, thước đo của giao tiếp là hiệu
quả công việc, còn thước đo của ứng xử là thái độ của cá nhân và những
“thuật” biểu hiện thái độ qua hành vi, cử chỉ trong giao tiếp.
Giao tiếp là một quá trình, còn ứng xử thường mang tính chất tình
huống. Do đó, khái niệm giao tiếp rộng hơn khái niệm ứng xử, ứng xử là sự
thể hiện của giao tiếp. Cứ có sự tiếp xúc giữa con người với con người là có
sự giao tiếp, nhưng trong sự tiếp xúc ấy phải có tình huống tác động mới có
ứng xử.
Như vậy, ứng xử là những phản ứng, hành vi, cử chỉ của con người nảy
sinh trong quá trình giao tiếp do những rung cảm cá nhân kích thích nhằm
lĩnh hội, truyền đạt những tri thức, vốn sống kinh nghiệm của các cá nhân,
của xã hội trong những tình huống nhất định.
Từ đó cho thấy: Giao tiếp định hướng vào mục đích công việc, nhằm

đạt đến mục đích công việc là chính.
Ứng xử định hướng chính vào nội dung tâm lý, cỏi “tõm” cỏi “tỡnh”
của mỗi người. Tuy nhiên, giao tiếp là phạm trù vĩ mô, còn ứng xử là phạm
trù vi mô. Ứng xử là biểu hiện của giao tiếp.
23
Ứng xử cũng như giao tiếp thuộc về lĩnh vực tâm lý học. Sự khéo léo
ứng xử là thuộc tính tâm lý. Trong cuộc sống hiện nay vô cùng phong phú và
đa dạng, mối quan hệ xã hội đang diễn ra rất phức tạp, để đạt được thành công
trong giao tiếp đòi hỏi các cá nhân phải có sự khéo léo ứng xử. Vậy bản chất
của ứng xử là gì?
1.2.2.3 Bản chất của ứng xử
Từ lâu vấn đề ứng xử - khéo léo ứng xử trong các mối quan hệ người-
người nói chung và trong giao tiếp sư phạm nói riêng đã được nhiều nhà tâm
lý học và giáo dục học quan tâm. Bàn về sự khéo léo ứng xử, K.D Usinxki
(nhà giáo dục người Nga) đã khẳng định rằng: “Sự khéo léo ứng xử về sư
phạm mà nếu không có nó thỡ cỏc nhà giáo dục học dù giỏi đến mức nào
cũng không bao giờ trở thành nhà giáo dục tốt, về bản chất không phải cái gì
khác là sự khéo léo ứng xử”.
Theo tiếng la tinh: Sự khéo léo ứng xử (tạm coi là ứng xử): là Talus có
nghĩa: là sự tiếp xúc, là cảm giác về mức độ nhờ đó mà có khả năng giữ mình
một cách đúng đắn.
Sự khéo léo ứng xử là thuộc tính tâm lý thể hiện trong những tình
huống và hoàn cảnh nhất định. Nó là phẩm chất tâm lý bền vững, là thuộc tính
tâm lý cá nhân, nó liên quan với tính cách, xu hướng, nhu cầu, tình cảm, nhân
sinh quan…của cá nhân.
Quan niệm thứ nhất: Nếu coi sự khéo léo ứng xử là đặc trưng tâm lý có
tính chất ổn định bền vững của một cá nhân thì sự khéo léo ứng xử là đặc
điểm tính cách của cá nhân. Nó thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ ứng xử
của từng cá nhân với những người xung quanh. Là nét tính cách độc đáo thể
hiện quan điểm, lối sống, đạo đức và nhân sinh quan của mỗi người qua cách

ứng xử của họ. Dưới góc độ này, sự khéo léo ứng xử có thể được coi là một
phẩm chất tốt đẹp của nhân cách nếu cá nhân có thái độ ứng xử dựa trên cơ sở
24
là những giá trị chung, được xã hội thừa nhận. Ngược lại, sự khéo léo ứng xử
lại bị coi là giả dối, đạo đức giả, có sự mâu thuẫn giữa sự biểu hiện ra bên
ngoài với thế giới nội tâm của con người nếu trong cách ứng xử phục vụ cho
lợ ích cá nhân, không đem lại lợi ích cho xã hội, cho người khác thậm chí còn
làm hại đến người khác, đến xã hội.
Quan niệm thứ hai: Nếu coi sự khéo léo ứng xử là một trong những
thuộc tính của cá nhân đáp ứng với yêu cầu của một hoạt động nhất định
nhằm đảm cho hoạt động ấy đạt kết quả cao, thì khéo léo ứng xử là năng lực
của từng cá nhân.
Vì vậy, họ cho rằng, khéo léo ứng xử là một mặt luôn thể hiện trong đó
các tri thức, các quan điểm, các nguyên tắc ứng xử nhất định. Mặt khác, khéo
léo ứng xử còn thể hiện mặt thực hành, tức kỹ năng, kỹ xảo, thói quen của con
người. Nó biểu hiện tài năng nghệ thuật của từng người.
Quan niệm thứ ba: Sự khéo léo ứng xử không phải là một thuộc tính
riêng lẻ nào của cá nhân mà là sự tổng hợp những thuộc tính cá nhân đáp ứng
những yêu cầu nhất định trong các mối quan hệ giao tiếp với người khác.
Khi nói sự khéo léo ứng xử là nói đến sự tổng hợp của trình độ kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo của từng cá nhân được hình thành và phát triển trên cơ
sở các yếu tố tự nhiên (thể chất) và những điều kiện xã hội, lịch sử, giáo dục
và tự giáo dục của cá nhân. Vì vậy, để có cách ứng xử một cách khéo léo,
trước hết cá nhân phải hiểu được đặc điểm tâm lý cơ bản của đối tượng giao
tiếp để từ đó có cách ứng xử phù hợp làm cho họ hài lòng, phấn khởi.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng, khéo léo ứng xử luôn tạo ra mối
quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Vì thế sự khéo léo ứng xử có
vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống.
25

×